TRỊNH CÔNG SƠN, Tiếng hát Hoà Bình
TRỊNH
CÔNG SƠN
Tiếng
hát Hoà Bình
Đặng Tiến
Báo Văn Học, California, số 39, tháng 4-1989, có ghi lại một buổi tọa đàm về bộ truyện Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng Giác, nhà văn Nhật Tiến đã phát biểu ngoài đề :
"Nói về tác phẩm văn nghệ mà ảnh hưởng rõ nét nhất, tôi nghĩ có lẽ mình chỉ có nhạc Trịnh Công Sơn, nó gây cái tâm lý phản chiến. Còn tác phẩm văn thơ của chúng ta nó chỉ bàng bạc thôi". Anh còn khẳng định : "nó đi thẳng vào đời sống". Nhà văn Hoàng Khởi Phong vùa vào : "Riêng với nhạc Trịnh Công Sơn, tôi nghĩ có đi thẳng vào lòng người" (tr. 55).
Trong văn chương, ngoài đề có khi là lời tâm huyết. Nhật Tiến nổi danh về lòng ngay thẳng và nghĩa khí. Hoàng Khởi Phong là cựu đại úy quân cảnh, một binh chủng mà Trịnh Công Sơn thường phải dè chừng ...
Cái thời làm nhạc phản chiến ... thời đại bác ru đêm ...
Dùng chữ nhạc phản chiến, theo kiểu anti-guerre, anti war, là nói cho gọn, và đã có người phản bác, cho rằng mông lung, vì người nghệ sĩ chân chính nào mà không chống chiến tranh ? Ngoài ra, những ca khúc Trịnh Công Sơn tố cáo chiến tranh, gào gọi hoà bình còn bày tỏ khát vọng thống nhất đất nước, tình tự dân tộc, tình yêu nhân loại, niềm tin vào cuộc đời, tình người và hạnh phúc lứa đôi. Những tình cảm này đan quyện vào nhau. Hơn nữa, một số nhạc tình thuần tuý, nội dung không quan hệ gì đến chiến tranh, khi nghe trong đám đông, cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời phản chiến.
Vì vậy, gọi nhạc "phản chiến" là nói tắt, trong điều kiện bất túc của ngôn ngữ. Gọi cách khác, là ca khúc tranh đấu cho hoà bình, tuy dài dòng mà vẫn không đủ ý.
Nói chung, những ca khúc "phản chiến" của Trịnh Công Sơn gia tăng số lượng và cường độ dài theo cuộc chiến, đồng thời cũng chuyển mình theo từng giai đoạn ngắn của thời cuộc thập niên 1963-1973. Nhưng là tiếng nói tự phát, phản ứng tự nhiên của một cá nhân, một công dân, không thuộc đảng phái hay tổ chức chính trị nào. Đây là điều kỳ lạ trong hoàn cảnh chính trị thời đó và chính nó đã tạo ra hào quang của Trịnh Công Sơn : người ta hát, và yêu Trịnh Công Sơn, tạo ra hiện tượng Trịnh Công Sơn, một là vì ca khúc của anh đáp ứng lại những khát vọng của thời đại, hai là người nghe, trực cảm rằng những lời ca ấy không mang một ý đồ chính trị nào.
Bây giờ, hơn ba mươi năm sau các sự cố, nghe lại ca khúc Trịnh Công Sơn, so sánh với những yêu sách thời đó, chúng ta có thể tin được vào chứng từ của họa sĩ Bửu Chỉ, bạn thân với Trịnh Công Sơn trong nhiều giai đoạn, trước và sau 1975,
"Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến, của mình Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả làm theo mệnh lệnh của con tim mình (...). Trái tim nhân ái, nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương, dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói" 1
Bửu Chỉ đã tham dự vào Phong Trào Sinh Viên đấu tranh cho hòa bình, trực diện chống đối chính quyền Sài gòn, bị bắt 1971 và chỉ được phóng thích năm 1975. Anh sinh hoạt với Trịnh Công Sơn tại hội văn nghệ Bình Trị Thiên những năm 75-79, cho đến nay vẫn được xem như là một tiếng nói trung thực. Khi Bửu Chỉ nhận thấy - hay thật ra là phản ánh một dư luận - cho Trịnh Công Sơn là "thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng ..." thì chúng ta có thể hiểu thêm được một hoàn cảnh, để từ đó tìm hiểu vị trí Trịnh Công Sơn trong thế sự, giữa những âm thanh và cuồng nộ.
Và phải chăng vì chỉ viết "theo mệnh lệnh của con tim", chứ không theo một thứ mệnh lệnh khác, mà ngày nay những ca khúc tranh đấu của Trịnh Công Sơn, dù đã đóng góp lớn lao vào biến chuyển của đất nước, đã không được in lại, hát lại trong nước, như một số tác phẩm khác, của các vị Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, v.v. Và những văn bia, những kỷ yếu chính thức ghi lại thành tích cách mạng thời đó, ngày nay cũng không nhắc nhở gì đến Trịnh Công Sơn.
Ngoài ra, nếu nhạc thời thế của Trịnh Công Sơn xuất phát từ cảm xúc, thì ta có thể lần theo lịch trình sáng tác để tìm đến những biến chuyển trong tâm tư tác giả trước thời cuộc sôi động lúc đó. Tuy nhiên chúng tôi khó nắm chắc thời điểm thành hình của từng ca khúc, dù đã cố gắng. Chỉ mong đề xuất những nét chính.
Sau đệ nhị thế chiến, nhiều tư trào hoà bình trên thế giới đã tạo ra giòng thơ nhạc phản chiến như bài Barbara, thơ Prévert, Kosma phổ nhạc, đã thịnh hành tại Miền Nam những năm 1950, với lời ca thật mạnh "ôi ngu xuẩn chiến tranh" nguyên văn tiếng Pháp khá tục "quelle connerie la guerre". Tiếp đó, là những bài hát phản chiến thô bạo của Boris Vian đã vang dội một thời trong tuổi trẻ Trịnh Công Sơn. Theo sau là nhạc phẩm của Bob Dylan và Joan Baez. Chúng tôi đã nhắc qua điều này trong một bài trước đây 2.
Có
lẽ những suy nghĩ về dân tộc, đất nước, số
phận con người trong chiến tranh đã manh nha từ lâu
ở Trịnh Công Sơn, và đã được khơi động
từ những biến cố tại Huế và miền Trung năm 63,
mà bạn bè anh đã tham gia tích cực
và sôi nổi. Bản thân Trịnh Công Sơn
không dự cuộc trực tiếp, nhưng khó có
thể nói là không giao động. Sau những bản
nhạc tình đã nổi tiếng, thì 1964, Trịnh
Công Sơn đưa vào Lời
Mẹ Ru một vài âm hưởng xót xa, báo hiệu
cho những ru khúc đau thương về sau :
Lời mẹ ru con
nghe ra nỗi niềm
Đời
mẹ ru con mây kia cũng buồn
Con
ngủ trên mây
Tiếng
khóc ban đầu còn đau, còn đau
Ru
con khôn lớn ... Con Rồng cháu Tiên
Một đời ru con, nên mắt ưu
phiền
Về
thời điểm, tư liệu của Hoàng Nguyên Nhuận,
bút danh của Hoàng văn Giàu, xác nhận
"năm
1963, trong lúc anh chị em chúng tôi lận đận
trong tù, sau chiến dịch Nước Lũ thì Trịnh
Công Sơn vẫn còn mơ màng Nhìn Những
Mùa Thu Đi. Đến năm 1964, sau khi nhập Tuyệt Tình
Cốc, thì Trịnh Công Sơn hầu như đã trở
thành một người mới"
3.
Lối hát ru Việt Nam, như ru con Nam Bộ, thỉnh thoảng cũng có câu thắt thẻo ruột gan, nhưng ít khi diễn tả buồn đau trong thân phận làm người như ở Trịnh Công Sơn, càng về sau càng da diết.
Vết
Lăn Trầm,
1965, là một ca khúc đậm đặc phong cách
Trịnh Công Sơn, đau thương và huyền bí :
Vết lăn trầm
vết lăn trầm
Hằn
lên phiến đá nâu thêm ưu phiền
Như
có lần chim muông hằn dấu chân
Người
đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà
Người
chợt nhớ mình như đá
Đá
lăn vết lăn trầm
Từ
cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn
Ôi
mắt thầm van xin lời thánh đêm
Bài ca dao trên cồn đá
Trên ngai
vàng quê hương ...
Ca
từ rệu rã, u hoài, xa vắng, nhưng cô đọng
cả tâm giới Trịnh Công Sơn, lúc ấy và
về sau. Về sau, sẽ có hằng
vạn chuyến xe claymore lựu đạn, hằng vạn tấn bon trút
xuống đầu làng,
cũng chỉ là âm vang lăn trầm vết đá.
Hoàng Phủ Ngọc Tường, bạn thân Trịnh Công
Sơn đã tinh ý nhận xét:
"Vết Lăn Trầm bắt đầu tiếp cận nỗi bất hạnh của một tuổi trẻ bị cuốn hút vào cơn lốc của chinh chiến, và đây là bài hát mở đầu nội dung phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn " 4
Chọn 1965 làm thời điểm cho nhạc thời thế Trịnh Công Sơn, còn có những lý do khác : đó là cao điểm của chiến tranh Việt Nam, thời của những Người Chết Trận Đồng Xoài, Pleime ... thời người Mỹ đổ bộ lên Miền Nam, bắt đầu ném bom Miền Bắc. Cũng là cao trào tranh đấu miền Trung trước khi bị dập tắt vào năm 1966.
Thời đó, ca khúc Trịnh Công Sơn, nhạc tình và nhạc tranh đấu, được in ronéo, chuyền tay. Năm 1966, nhà An Tiêm xuất bản tập Ca Khúc Trịnh Công Sơn, Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận, 12 bài, ngoài Tuổi Đá Buồn làm từ 1961, những bài khác làm vào 1965-1966, đều mang nội dung : thân phận trong chiến tranh.
Mùa hè 1965, trong năm 1966 và sang 1967, Trịnh Công Sơn đã sáng tác một loạt ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng : Người con Gái Việt Nam Da Vàng, Đại Bác Ru Đêm, Tình Ca của Người Mất Trí, ... Tác giả tự ấn hành lấy, do đó không ghi năm xuất bản, thành tập Ca Khúc Da Vàng. Về sau, sau Mậu Thân, 1968, anh thêm 2 bài : Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành cho Những Xác Người, ghi là Ca Khúc Da Vàng 2, dự tính in trong tập Kinh Việt Nam, tự xuất bản 1968. Những bản in lại về sau, không thấy 2 bài này. Vậy ta có thể xem Ca Khúc Da Vàng gồm 12 hay 14 bài, tùy phương pháp.
Gần đây Khánh Ly có hát và phát hành ba đĩa hát CD lấy tên Ca Khúc Da Vàng I (1996), II (1998) và III (1999), mỗi CD gồm 10 bài, có đủ 14 bài da vàng chính danh. Những bài khác là nhạc phản chiến nổi tiếng của Trịnh Công Sơn.
Tập Kinh Việt Nam mở đầu bằng lời tựa, tác giả bày tỏ khát vọng hoà bình, viết 1968, có lẽ sau Mậu Thân và tin tức về hòa hội Paris ; tập nhạc gồm có 12 bài, bắt đầu bằng Dân Ta Phải Sống và khép lại với Nối Vòng Tay Lớn.
Năm 1970, dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, anh tự ấn hành Ta Phải Thấy Mặt Trời, gồm 11 bài, như : Việt Nam ơi hãy Vùng Lên, Huế Sài Gòn Hà Nội, v. v.
Năm 1972, sau Mùa Hè Đỏ Lửa, anh cho in tập Phụ Khúc Da Vàng, vẫn dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, gồm 9 bài : Một Ngày Vinh Quang, Một Ngày Tuyệt Vọng, Xác Ta Xác Thù, Chưa Mất Niềm Tin. ...
Bửu Chỉ sau khi nhắc lại thư mục, đã ghi : "tổng kết 5 tập với 58 ca khúc, chưa kể những bài rời được sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường, cùng thanh niên, sinh viên, học sinh Huế" (bài đã dẫn).
Trong một tiểu luận Cao học đệ trình tại Đại Học Paris 7, 1991, Michiko Yoshi, cũng là bạn , được Trịnh Công Sơn giúp đỡ và hướng dẫn, đếm được 69 bài phản chiến. Trên tổng số 136 bài làm từ 1959 đến 1972 mà cô ấy sưu tầm được, tỷ lệ là 51 %. Nếu chỉ tính từ 1965 đến 1972, tỷ lệ còn cao hơn nữa. Nghĩa là trong một thời gian dài, thời gian sáng tác khoẻ nhất, rung cảm chính của Trịnh Công Sơn là thời thế. Và ngược chiều, chính những ca khúc kêu gọi hoà bình đã làm nên danh tiếng Trịnh Công Sơn, đã tạo nên huyền thoại Trịnh Công Sơn, trong một thời điểm nhất định của miền Nam Việt Nam vào những năm 1966-1972.
Thời điểm sáng tác hay in ấn một nhạc bản không quan trọng bằng việc công chúng phổ biến, hưởng ứng những bài hát đó trong giai đoạn, hoàn cảnh nào. Chúng tôi ghi cặn kẽ thời điểm để làm tư liệu về sau.
Hoàng Nguyên Nhuận nhắc lại "nếu Huế là thánh địa của Phật Giáo và nếu bản nhạc Phật Giáo Việt Nam của Lê Cao Phan là nhịp đạo hành của thanh niên Phật tử, thì Trịnh Công Sơn chính là nhịp đập con tim của phong trào thanh niên trên đường vận động hoà bình, độc lập và an lạc cho đồng bào đồng loại " (b.đ.d) tại các thành phố miền Nam từ 1963 đến 1966.
Từ 1965, theo trí nhớ Đinh Cường, Trịnh Công Sơn mới trực tiếp "xuống đường" tham dự vào những buổi hát của sinh viên, học sinh Sài Gòn, bắt đầu tại trước viện Đại Học Sài Gòn, rồi từ khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa. Sau đó Trịnh Công Sơn thường hát với Khánh Ly, từ 1967, theo lời Khánh Ly kể, cho đến sự cố nổ súng tại trường Đại Học Văn Khoa cuối năm 1967. Sau biến cố này, Sơn thôi đi hát "cho đồng bào tôi nghe" hát trước quần chúng đông đảo, chủ yếu là thanh niên, sinh viên Sài Gòn. Nhưng vẫn còn về hát cho sinh viên Huế cho đến 1970-1971.
Nhiều người đã nhắc đến giai đoạn này, nhưng ít ai còn nhớ cụ thể : Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã hát những bài gì. Michiko còn giữ cuộn băng thu lại một buổi hát cộng đồng, có lẽ một trong các buổi cuối cùng tại Quán Văn Sài Gòn, tháng 12 năm 1967, với cả không khí quần chúng :
Trịnh Công Sơn hát : Người Già Em Bé, Đêm Bây Giờ Đêm Mai, Ngày Dài Trên Quê Hương, Ngụ Ngôn Mùa Đông, Tôi Sẽ Đi Thăm, Đi Tìm Quê Hương, Người Con Gái Việt Nam Da Vàng.
Khánh Ly hát : Diễm Xưa, Mưa Hồng, Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng, Gọi Tên Bốn Mùa, Còn Tuổi Nào Cho Em, Tình Ca Của Nguời Mất Trí, Xin Cho Tôi, Xin Mặt Trời Ngủ Yên, Tuổi Đá Buồn.
Trịnh Công Sơn và Khánh Ly song ca : Nhìn Những Mùa Thu Đi, Ca Dao Mẹ.
Chúng
ta lưu ý đến nội dung xen kẽ của những ca khúc,
được trình diễn trong các buổi hát công
cộng, đông đảo đến hàng trăm, hàng ngàn
người nghe hay trong những cuộc họp mặt bỏ túi
giữa bạn bè. Tình khúc được hát
giữa những bài chống chiến tranh, tự dưng cũng
mang tác dụng "phản chiến". Đây là
hậu quả tâm lý tự nhiên, mà ngày
nay lý thuyết liên văn bản đã thừa nhận.
Những bài hát ca ngợi tình yêu, tiếc
thương hạnh phúc, những
Diễm Xưa, Tuổi Đá Buồn
bỗng nhiên mang một nội dung hòa bình. Từ
đó xác định được trong sự nghiệp Trịnh
Công Sơn bài nào là nhạc "phản
chiến", không phải là việc đơn giản về
mặt thực tế. Dù rằng về mặt sách vở, ta
có thể đếm được 58 bài như Bửu Chỉ hay 69
bài như Michiko.
Làm sao em biết bia đá không đau...
Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao...
Tóc em như trời xưa đã qua đi ngàn năm...
Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu...
Rồi mùa suân không về, mùa thu cũng ra đi ...
Những
câu hát, trích từ tiếng hát Khánh
Ly thời 1967 ca ngợi tình yêu, nhưng có nhất
thiết là tình yêu trai gái ?
Gọn hơn nữa : tình yêu như trái phá, là chuyện tình yêu, hay trái phá ?
Về ý nghĩa, âm hưởng của một bài hát tuỳ thuộc vào bối cảnh, trong lý thuyết liên văn bản. Nhìn Những Mùa Thu Đi là một bản nhạc tình, không can dự gì đến thế sự. Nhưng Thái Kim Lan đã kể lại một kỷ niệm súc tích : Ngày 20/8/1963, chính quyền Sài Gòn tấn công vào chùa chiền khắp nước, chị bị bắt tại Huế cùng với nhiều thanh niên sinh viên Phật tử và nhiều người bị tình nghi, như Hoàng Phủ Ngọc Tường, tình cờ trong túi có mảnh giấy ghi bài hát :
"Huế dạo ấy đang độ vào thu, ban đêm mưa sầm sập trên mái ngói, buổi sáng sớm trời trong trẻo, một thứ trong suốt như đóng đinh vạn vật dừng lại ở một điểm cố định, cây bàng độc nhất trong sân đứng với mấy chiếc lá đỏ trên cành, chúng tôi ngồi 'tay trơn' trên nền nhà, trẻ măng là mái tóc và vầng trán, trẻ măng là sự ôm ấp những lý tưởng, những hoài vọng, những ước ao, những chờ đợi của tuổi hai mươi - và chúng tôi đã đếm ngày tháng bằng ' Nhìn Những Mùa Thu Đi' ..."
Và trong tù, sáng trưa, chiều tối, ngày này qua ngày khác, các bạn trẻ đã huýt sáo hay ngân nga bài này.
"Trong đời tôi, đã nghe và đã hát một bài chưa bao giờ nhiều lần và trong một quãng thời gian dài liên tiếp trong 3 tháng như thế (...)
Có thể nói hành trình ca khúc Trịnh Công Sơn thực sự bắt đầu từ 'Nhìn Những Mùa Thu Đi' chứ không phải 'ướt mi', dù 'ướt Mi' đã làm cho người ta biết đến Sơn" 5
Chị nói vậy là chủ quan. Nhưng vô hình trung, đã tiết lộ một sự thật : Nhìn Những Mùa Thu Đi có thể là tác phẩm đầu tay, dưới dạng thức một bài thơ, làm từ 1957, Trịnh Công Sơn đã tự phổ nhạc nhiều lần, nhưng chỉ mới chép tay cho bạn bè. Do đó mà tình cờ nó nằm trong túi Hoàng Phủ Ngọc Tường đêm 20/8/1963, khi anh đang ngủ ở nhà thì bị công an đến bắt. Nếu không có sự cố, có thể là bản thảo sẽ bị thất lạc, như nhiều sáng tác của Trịnh Công Sơn, có thể lên đên 50 % trên tổng số.
Về nội dung bài
hát, không phải chỉ một mình Thái
Kim Lan nhận ra niềm u hoài của một thế hệ, khi
hát và nghe trong hoàn cảnh đặc biệt. Bản
thân tôi không tranh đấu, không tù
tội gì, cũng đã cảm nhận được tâm sự
của một lứa tuổi :
Gió heo
may đã về
Chiều
tím loang vỉa hè
...
Thương
cho người rồi lạnh lùng riêng
Nó
không tình luỵ như Chiều
tím chiều nhớ thương ai của thơ Đinh Hùng, Đan Thọ phổ nhạc.
mà là
vết bầm tím trong tâm tư một thời đại. Bây
giờ tôi còn cảm động khi nghe lại bài
hát, do chính Sơn hát cùng với Khánh
Ly :
Trong
nắng vàng chiều nay
Anh
nghe buồn mình trên ấy
Chuyện chúng
mình ngày xưa
Anh ghi bằng nhiều thu
vắng
Đến thu này
thì mộng nhạt phai
Tình
và Mộng ở đây, không nhất thiết phải
dính dáng gì đến phụ nữ.
Mãi đến gần đây, tôi mới nghe Lý Quý Chung kể lại rằng chính quyền Sài Gòn hồi ấy đã nghi ngờ "trên ấy" là trên chiến khu 6
Thêm một liên văn bản khác : Nguyễn Quốc Trụ trong bài viết tưởng niệm Trịnh Công Sơn, kể lại rằng cho đến khoảng 1966 :
" Chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn, nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi. Phải khi đứa em tôi mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc quá nhớ bồ, cứ huýt sáo bài 'Tình Nhớ', gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra. Lúc này tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của Miền Nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói : hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ và chẳng bao giờ Miền Nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với Miền Bắc, vì họ đều tin một điều : Miền Bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó.
Tính phản chiến của nhạc anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất" 7.
Giữa
một rừng than khóc ki khu, thì bài Nguyễn
Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá trị. Vì chính
xác và dũng cảm. Ai đó nói : hình
học là nghệ thuật lý luận đúng trên
một hình vẽ ... sai. Nguyễn Quốc Trụ khởi đi từ
một bản nhạc tình ... ngoài đề. Tình
Nhớ thì can dự gì đến phản chiến ? Bài hát
đại khái :
Người ngỡ đã
xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo
xưa lồng lộng
Đã
xô dạt trời chiều ...
Nói
về nhạc phản chiến, cứ gì phải dựa vào
Đại
Bác Ru Đêm
?
Một
ví dụ liên văn bản nữa, bài Cõi
Tạm,
thường được nghe sau này,
Nhân
gian về trọ nhiều nơi
Bâng
khuâng là những đôi môi rất hồng
Là
một câu hát nhẹ nhàng, vui tươi, nhưng gợi
đau thương cho những kẻ đã từng biết tiền thân
câu này :
Nhân
gian về trọ nhiều nơi
Riêng
đây là chốn chưa nguôi máu đào
Tác
phẩm được làm năm 1973, hoà ước Paris đã
được ký kết mà bom đạn vẫn tiếp tục rơi
trên đất nước. Và nhà thơ Ngô Kha,
thân thích với Trịnh Công Sơn, đã bị
bắt và tra tấn đến chết, thủ tiêu mất xác
tại Huế.
Nếu chỉ làm nhạc tình, thì Trịnh Công Sơn sẽ là Lê Uyên Phương hay Từ Công Phụng ; nếu chỉ làm nhạc đấu tranh Trịnh Công Sơn sẽ là Nguyễn Đức Quang hay Tôn Thất Lập ; nếu pha pha tình yêu và thân phận, Trịnh Công Sơn sẽ là Vũ Thành An. Nếu chỉ phản chiến, e chỉ hơn Nguyễn văn Đông.
Nhưng Trịnh Công Sơn đã tổng hợp một thời đại và xây dựng được một sự nghiệp riêng, gắn bó với vận mệnh đất nước.
Rào nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn vào một ấp chiến lược, là việc không sát với thực tế xã hội. Trong thời gian 1967-1972, Sơn sáng tác khoảng 70 bài hát kêu gọi hòa bình, và khoảng một nửa được phổ biến rộng rãi. Nhưng những ca khúc thuần tuý thế sự đó đã được kết hợp với hàng trăm tình khúc khác, cùng phong cách, trong một hoàn cảnh xã hội và chính trị đặc biệt, đến với quần chúng thanh niên cùng tâm trạng. Những điều kiện đó đã hội tụ vào thời hoàng kim của kỹ thuật thu âm bằng máy ghi âm gọn nhẹ, từ băng cối chuyển sang băng cassette, phổ biến từ trong nước ra đến hải ngoại. Từ những Trung Tâm Băng Nhạc và ... Đài Phát Thanh Sài Gòn !
Nghệ thuật Trịnh Công Sơn xét trong toàn bộ, nội dung, hình thức, chủ đề, thể loại, hội với những điều kiện khách quan về chính trị, xã hội, kinh tế, kỹ thuật đã tạo danh tiếng Trịnh Công Sơn trong một thời gian kỷ lục, như Phạm Duy đã nhắc : "Tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán Văn được hoả tiễn Khánh Ly đưa vút vào phòng trà, rồi vào băng casette và chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục được tất cả người nghe.. So sánh với những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới" 8.
Sở dĩ đi nhanh như thế vì nhạc tình yêu đã kết hợp với nhạc đấu tranh, được hát trực tiếp, hát cộng đồng. Tác giả hoà nhập vào quần chúng, rồi trở thành một hiện tượng phút chốc thành thần tượng. Đã có lúc thính giả mộ điệu xâu xé để chia nhau mỗi mảnh áo măng tô cũ rách của Trịnh Công Sơn, theo lối "fan" ở phương Tây.
Ngoài ra, hiện tượng Trịnh Công Sơn cũng đã thành hình qua vài yếu tố phụ : dáng người mảnh khảnh, nho nhã, bạch diện thư sinh làm người ta yêu mà không làm người ta sợ. Anh chăm sóc kỹ lưỡng cách ăn mặc, "sang"một cách kín đáo, "thàng" khi trình diễn. Nói năng nhỏ nhẹ, giọng Huế dịu dàng, trung lập, không phải là giọng Bắc Kỳ toàn trị, hay Nam Kỳ tự trị, mà với một giọng Huế trung dung, thường thường là phát âm đúng. Lối nói thân mật, tạo ra ảo tưởng ở nhiều người : mình là người thân thiết của Trịnh Công Sơn, không "nhất" thì cũng gần gần như vậy. Cái cảm giác "gần gần" không phải lúc nào cũng lành mạnh.
Lối sống đơn giản : cà kê bạn bè, khề khà quán sá. Thịnh thời 1967, đêm đi hát, khuya về, kê ghế bố ngủ với bạn bè ở hội Hoạ Sĩ Trẻ, sáng dậy ra quán đợi bạn đãi tách cà phê, mời điếu thuốc lá. Rượu chè, thuốc lá cũng là cách đến, cách ở lại với đời, đãi đưa bè bạn, dần dần tới chỗ đãi đưa số mệnh. Nghiện mà không ngập. Lữ Quỳnh, bạn thân, cho rằng Sơn không nghiện. Nói thế là để bao che, nhưng cũng có cơ sở.
Thêm vào hình ảnh Khánh Ly, "Ôi tóc em dài đêm thần thoại ..." , khi hát đi chân đất – nữ hoàng chân đất, La comtesse aux pieds nus – của một thời – giọng hát rũ rượi, da diết, diễn tả nỗi trầm thống vô vọng : "tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người". Hai người đi với nhau, tạo nên hình ảnh "đôi lứa", một đôi trai/gái trong tình bạn hồn nhiên, vô tội, nhắc lại trong giới thanh niên trí thức tiểu thuyết Đôi Bạn chưa xa của Nhất Linh. Cũng có quê hương, tình yêu, thân phận, nhiệm vụ với đất nứơc, trong đó, mùa thu cũng ra đi, mùa đông vời vợi, mùa hạ khói mây, tình yêu dấu chim bay. Lời ca như nhắc lại một cô Loan tựa cửa nhìn xa ... Mây vẩn từng không chim bay đi ... (Xuân Diệu).
Truyền thuyết uyên ương là một ước mơ cao đẹp của Á Đông ; nhưng giới hạn tình cảm trong vòng nam nữ, vợ chồng, tính dục. Chuyện Khánh Ly-Trịnh Công Sơn dường như không vậy. Ngày 8/4/2001, Khánh Ly kể lại "một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường" 9. Hình ảnh đôi bạn trẻ, một couple ở đây rất mới, đáp lại ước mơ hiện đại của một thế hệ thanh niên muốn phá vỡ quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân còn đè nặng lên xã hội Việt Nam . Và muốn lìa bỏ kỷ niệm những mối "tình nghèo, anh cày thuê, em dắt trâu" kiểu đồng hương Ngọc Cẩm-Nguyễn Hữu Thiết.
Trong dư luận, họ cũng không bị nghi ngờ hay tai tiếng, dù người đời có kẻ thắc mắc, tò mò. Những tâm hồn phóng khoáng và "hiện đại" thì gạt phăng đi loại "tò mò bệnh hoạn" ấy. Và đặc biệt Trịnh Công Sơn là người tăm tiếng mà không tai tiếng. Thính giả yêu thương ái ngại cho anh chàng nhạc sĩ tài hoa ngần ấy mà bao giờ cũng bị tình phụ mà không nghe nói phụ tình : Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ. Mà sự thật cũng gần gần như thế, dù rằng không ai đi tìm hiểu vì sao mà "lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng".
Hơn nữa, ca khúc Trịnh Công Sơn gây được tiếng vang là nhờ giọng hát Khánh Ly : "Một giọng hát có thể xuống rất thấp, rất trầm, mà cũng có thể lên rất cao, một giọng hát khoẻ, dài hơi, giàu nhạc tính. Khánh Ly bao giờ cũng hát đúng giọng, đúng nhịp, ngân, láy đúng lúc, cách phát âm tiếng Việt chuẩn xác – càng về sau càng già giặn thêm – một giọng hát ngay từ thời ấy, tuy vẫn còn nguyên cái chất tươi mát, hồn nhiên của tuổi đôi mươi, nhưng dường như đã mang nặng sầu đau ; một giọng hát vừa có thể lẳng lơ một cách đáng yêu, trong các bản tình ca lãng mạn, lại vừa có thể phẫn nộ, bi ai, trong các bài ca phản chiến" 10, như nhận xét của Văn Ngọc. Bạn Văn Ngọc, theo sự hiểu biết của chúng tôi, là một người uyên bác về âm nhạc.
Cuối cùng, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả trẻ, tại các giảng đường, giáo đường. Họ tạo, hay tái tạo, một hình ảnh lý tưởng cho nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ca hát – mang theo lý tưởng nhân đạo, tình yêu và chính trị. Trong khi đó, đa số nhạc sĩ khác hát để lấy ca-sê, lấy tiền, hay lãnh lương. Có khi lãnh lương để hát "cho đồng bào tôi nghe".
Trong một dư luận
– và hoàn cảnh xã hội – thuận lợi,
nhạc Trịnh Công Sơn còn đáp ứng lại
nhiều nhu cầu tâm lý khác của Miền Nam,
bằng nội dung và nghệ thuật trong ca khúc.
*
* *
Tâm
lý thời đó, chủ yếu là chống chiến
tranh. Và nói như Phạm Duy, ai mà chẳng
phản chiến, cứ gì là Trịnh Công Sơn ?
Như vậy, từ đâu mà nhạc kêu gọi hoà bình của anh lại tạo nên hiện tượng ? Phải chăng từ vị trí Trịnh Công Sơn chọn lựa để tố cáo chiến tranh. Không nên nói giản lược : tự quan điểm nhân dân, vì nhân dân là một khái niệm chính trị khó định nghĩa, thậm chí còn bị nhân danh trong những mưu đồ đen tối.
Ở Miền Nam, vào thời điểm 1970, người dân không còn tin cậy vào chính quyền và những tổ chức chính trị. Họ có tín ngưỡng, nhưng không tin cậy vào tôn giáo như là những thế lực chính trị. Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, đã từng được võ trang từ thời chiến tranh Việt Pháp. Phật giáo nổi tiếng chủ trương bất bạo động, cũng có thời kỳ được vũ trang, dù chỉ trong giai đoạn ngắn, 1965 ; đường lối đưa bàn thờ Phật xuống đường không phải là ai cũng tán thành. Phạm Duy đã hát những bài Tâm Ca tâm huyết "tôi sẽ hát to hơn tiếng súng bên bờ ruộng già" nhưng mặc bà ba đen đứng chung với những đoàn Xây Dựng Nông Thôn. Tôn Thất Lập Hát cho Dân Tôi Nghe, thì không mấy người hát theo, vì "dân tôi" nhận ra tiếng gọi đến từ phía "bên kia".
Sinh
trưởng trong một gia đình phật giáo, Trịnh
Công Sơn vẫn giữ khoảng cách với các cao
trào chính trị do Phật giáo chủ động,
dù về sau, Hoàng Nguyên Nhuận có khẳng
định "phong
trào đấu tranh của thanh niên sinh viên học
sinh Huế bùng nổ tự mùa Hạ 1963, đã đẻ
ra Trịnh Công Sơn "
(bđd). Thời điểm đó, lời nhạc Trịnh Công
Sơn mang từ vựng Thiên chúa giáo nhiều hơn
từ vựng Phật giáo : như giáo
đường, lời buồn thánh, vùng ăn năn, cát
bụi, địa đàng
... Nhưng đây là chữ nghĩa văn chương nhiều
hơn là rung cảm tôn giáo, gọi là
khuôn sáo cũng được, dùng để đẩy đưa
câu hát cho có vẻ "hiện đại".
Khi cần phải khẳng định một thái độ chính
trị giữa những biểu ngữ, gậy gộc thì Trịnh
Công Sơn chọn lựa minh mẫn :
Đợi
chờ yêu thương trên cây thánh giá
Đợi
xoá sân si dưới bóng bồ đề
(Đợi có
một ngày),
trong
Phụ Khúc Da Vàng, 1972
Không
theo giáo phái, Trịnh Công Sơn không
phải là người đảng phái. Không nghe anh
nói, mà không nghe ai nói là anh
dây dưa với một chính đảng nào, cái
đảng của Miền Nam đã để lại kỷ niệm hãi
hùng gần nhất là đảng Cần Lao. Còn đảng
Cộng Sản thì không dễ gì tiếp xúc,
mà nói thực tình, nghe qua đã ớn.
Anh Nguyễn văn Trung, trong nhiều bài báo trên Văn Học gần đây, có nhắc lại giai đoạn đó và cho biết các " phong trào sinh viên thời đó do Thành Đoàn, một tổ chức của Đảng Cộng Sản, chỉ đạo, triển khai điều khiển " 11. Lê văn Nuôi, chủ tịch Tổng Đoàn Học Sinh Sài Gòn hồi đó kể lại rằng, trong ban Chấp hành Tổng Hội Sinh Viên, nhiệm kỳ 69-70, gồm có 7 người thì đã có 4 là người của Thành Đoàn, như chủ tịch Nguyễn văn Quỳ, phó chủ tịch Huỳnh Tấn Mẫm. Và có lúc phó tổng thống Kỳ đã cho mượn nhà làm trụ sở 12.
Tuy nhiên, anh Trung không nhắc, có lẽ vì là ngoài đề, vô tình thôi, là những phong trào đó phát triển được là có sự khuyến khích của người Mỹ, với những Chương Trình Hè, Lên Đường, Quận 8, v.v, chưa kể những tổ chức Thanh Niên Thiện Nguyện, Thiện Chí "nằm vùng" từ trước.
Và dĩ nhiên, chính sách của người Mỹ được chính quyền Sài Gòn thực thi. Đó là thời Nguyễn Cao Kỳ, với nội các chiến tranh, chính phủ của Người Nghèo, của người Trẻ, làm Cách Mạng Xã Hội, v.v. Ông Kỳ muốn lấy lòng thanh niên trí thức tiến bộ, trong đó có Nguyễn văn Trung. Ông lại muốn dựa vào khối phật giáo Ấn Quang, và có cảm tình với đám tranh đấu miền Trung mà ông đã thẳng tay đàn áp năm 1966. Hoàng Nguyên Nhuận mới đây còn nhắc lại 13.
Riêng với Trịnh Công Sơn, tướng Kỳ lại có tình riêng, một cảm tình nghệ sĩ liên tài. Ngoài những chai rượu, ông còn cho đi máy bay về Huế để ... hát nhạc phản chiến !
Dài dòng như vậy để người đọc thấy tại sao một nhạc sĩ không hợp lệ quân dịch, lại có thể ngang nhiên hát nhạc phản chiến tại trường Đại Học Văn Khoa, ngay trước dinh Độc Lập, và dõng dạc : gia tài của Mẹ một bọn lai căng, gia tài của Mẹ một lũ bội tình.
Trịnh Công Sơn sống giữa những tranh chấp chính trị mà không dính líu đến chính quyền hay đảng phái, giáo phái, phe phái. Mặc dầu anh thích bạn bè, ưa đàn đúm.
Quần chúng biết ngay điều đó. Chúng ta ngày nay mất công nghiên cứu văn bản, khổ tâm truy tầm tư liệu để tìm hiểu, chứ quần chúng thì họ rất nhạy bén, và nhận ra đâu là tiếng nói vô tư, ngay thật, đâu là tiếng nói có dụng ý, mưu đồ.
Đây là lý do chính giải thích sự thành công nhanh chóng của Trịnh Công Sơn, một sớm một chiều đã thành hiện tượng.
Ví
dụ bài Tình
Ca Của Người Mất Trí,
1967, đã được tiếp nhận và truyền bá
tức khắc :
Tôi có người yêu chết trận Pleime
... chết ngoài Hà Nội
...
chết không hận thù
Nằm
chết như mơ ...
Quần
chúng hiểu ra ngay biểu tượng "mất trí",
một bài hát không có lập trường
theo bên này, hay được chỉ đạo từ phía
bên kia. Lời ca dội vang chiến sự, nhưng không
có mưu đồ, quả là lời người mất trí.
Mất trí là mất tất cả, không còn
gì, ngoài cái trí của mình, của
riêng mình. Cái trí xa lìa thực
tại, bị sa thải ra ngoài thực tại. Trí tuệ
ấy chỉ yêu Một Người, nhưng người yêu duy
nhất đã chết trên khắp chiến trường, chết
mọi kiểu, mọi cách, thậm chí nằm
chết như mơ. Chết như mơ ?
Người ta thường nói : đẹp như mơ, chứ ai nói chết như mơ .
Tinh
nghịch đổi vài chữ, câu hát vẫn hợp
lý, vẫn hay, dù ý nghĩa bị lật ngược :
Tôi có
người yêu gặp tại Ba Gia
Tôi
có người yêu vừa mới đêm qua
Yêu
thật tình cờ, yêu chẳng hẹn hò
Yêu
chẳng thề nguyền hạnh phúc như mơ
Lật
ngược hay xếp xuôi, tỉnh trí hay mất trí,
tình ca hay chiến ca, ai biết đâu là đâu.
Cũng
như bài sau này : Hát
Trên Những Xác Người,
làm sau Mậu Thân 1968 :
Mẹ
vỗ tay reo mừng chiến tranh
Chị
vỗ tay hoan hô hoà bình
Người
vỗ tay cho thêm thù hận
Người
vỗ tay xa dần ăn năn ...
Không
biết phải giải thích ra sao, ngoài cơn điên
loạn của một thời đại.
Nói
về những oan khốc chiến tranh, Trịnh Công Sơn đã
có lời nhập đề tưng tửng :
Đại
bác đêm đêm dội về thành phố
Người
phu quét đường ngừng chổi lắng nghe
Nghe
như là nghe nhạc, nghe
quen như câu dạo buồn.
Nhạc không lời, một loại romance sans parole. Thậm
chí : đại
bác như kinh không mang lời nguyện.
Đại bác như kinh ?
Bài
hát kết thúc bằng cụm từ có
mẹ có em.
Cũng như những thành ngữ : có mẹ có cha,
có anh có em, có vợ có chồng, có
mẹ có em,
diễn tả cảnh sum họp, ấm cúng, nhưng ở đây
là một đống xương thịt bầy nhầy :
Từng
vạn chuyến xe claymore lựu đạn
Hàng
vạn chuyến xe mang vô thị thành
Từng
vùng thịt xương có mẹ có em
Sơn
có những lời tưng tửng tàn độc như thế,
hay đèn
thắp thì mờ, ám ảnh cả một đời bạn mình là Bửu
Ý. Nguyên tác trong bài Đi
Tìm Quê Hương
(1967) :
Người
nô lệ da vàng ngủ quên
Ngủ
quên trong căn nhà nhỏ
Đèn
thắp thì mờ ...
Dĩ
nhiên, trong văn cảnh, câu hát có nghĩa
: đèn không đủ sáng. Nhưng lìa văn
cảnh, lời ca dội vào tim : đèn thắp thì
sáng, chứ sao đèn thắp thì mờ ?
Nhẫn
nhục trong những cơ cực trầm kha truyền kiếp, người
phụ nữ Huế có câu hát não nùng
:
Ví
dầu đèn tắt, có trăng
Khổ
thì em chịu, biết mần răng đặng chừ ?
Nhưng
cũng không đoạn trường bằng đèn
thắp thì mờ. Bây giờ Sơn đã đi xa, nhớ câu hát
xưa mà thương những người bạn cũ, những người
còn ở lại, trong cuộc đời mà Tản Đà
đã định nghĩa : đời
là cõi bắt con người phải sống.
Những ngọn đèn. Thắp thì mờ...
Năm
1968 là khúc quành trong thời sự Việt Nam,
đồng thời là bước ngoặt trong nhạc cảm Trịnh
Công Sơn. Có thể có những lý do riêng
chung.
Trước hết, là sự kiện nổ súng đêm hát 20/12/1967, tại Quán Văn trong khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa. Để tuyên bố kỷ niệm ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, một nữ khán giả đã cướp micro ; nhân viên ban tổ chức giành lại, và bị bắn trọng thương. Cô gái lên xe Honda bỏ đi. Khoảng hai trăm thính giả - trong đó có nhiều quân nhân - đã dương mắt nhìn theo. Trịnh Công Sơn cùng với Khánh Ly, từ đêm đó không còn đi hát như thế tại Sài Gòn. Nhưng về Huế vẫn hát với sinh viên, đến 1970-1971 thì lại hăng hái tham gia tích cực những sinh hoạt cộng đồng tại Huế.
Do đó, vụ Tết Mậu Thân 1968, anh ở Huế, và đã ẩn thân ở thư viện Đại Học Huế. Phe cộng sản dường như có lùng kiếm, dĩ nhiên, để yêu cầu tối thiểu là làm một bài hát ca ngợi "Ngôi sao trên đỉnh Phu văn Lâu". Sơn đã không làm điều ấy, và ngược lại đã sáng tác hai bài tố cáo cảnh giết người, chôn người là Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành Cho Những Xác Người, với địa danh bãi chôn người chính xác : Chiều đi qua Bãi Dâu ... Sau đó Trịnh Công Sơn vẫn ở Huế, làm một số bài ca gửi vào Sài Gòn, mà sinh viên, thanh niên tiếp tục hát trong những phong trào xuống đường lúc đó rất sôi nổi.
*
* *
Hiệu quả chính trị của vụ Tổng Công Kích 1968 là hoà hội Paris mở ra để kết thúc chiến cuộc. Khả năng hòa bình đã ló dạng và Trịnh Công Sơn chuyển hướng, làm những ca khúc có nội dung chính trị rõ rệt, trực tiếp kêu gọi hoà bình, với tập Kinh Việt Nam (1968) và Ta phải thấy Mặt Trời (1969).
Thời điểm này, họa sĩ Trịnh Cung, bạn anh, đã vẽ bức tranh nổi tiếng : Đứa Trẻ Du Ca, tay ôm đàn cầm, có con chim đậu trên mái tóc, ý muốn nói hòa bình đang về trong thôn xóm. Hoà bình là khát vọng chung của thanh niên, và người dân thời đó, mà ca khúc Trịnh Công Sơn đã vang vọng qua những tiêu đề : Ngày Mai Đây Bình Yên, Cánh Đồng Hoà Bình, Đồng Dao Hoà Bình. Và đặc biệt là Nối Vòng Tay Lớn.
Cho đến ngày hoà hội Paris, nhạc thời thế Trịnh Công Sơn chủ yếu là oán trách chiến tranh, một cách thụ động, tố giác những oan khiên vừa tàn khốc vừa phi lý, cảnh một chiếc xe tang, trái mìn nổ chậm, người chết hai lần, thịt da nát tan (Ngụ Ngôn Mùa Đông). Hay than vãn : ôi quê hương đã lầm than, sao còn, còn chiến tranh (Du Mục).
Trong
Kinh
Việt Nam,
từ 1968, anh tích cực kêu gọi : Dân
ta phải Sống, Dựng lại Người, Dựng lại Nhà, Hãy
đi cùng Nhau,
và cụ thể hơn nữa Nối
Vòng Tay Lớn.
Hay ít nhất cũng là
Chờ nhìn Quê Hương sáng chói
và tra vấn Ta
thấy gì đêm nay
? Sao
mắt Mẹ chưa vui
? Đấy là tên những bài hát, những
Hành
Ca trong tham vọng trở thành một hành khúc
Việt Nam :
Đoàn
người đi miên man
Tìm
ánh sáng cho Việt Nam
Tìm
quê hương xưa
Giống
Tiên Rồng, giống da vàng ...
Nối
cho liền, nối hai miền ...
Nói
là "quốc ca hụt" là đùa vui,
nhưng cũng không sai bao nhiêu (giá dụ : nếu
đám tranh đấu Miền Trung thành công trong
dự tính ly khai năm 1965, rồi từ đó nắm được
chính quyền Miền Nam, thì chúng ta e phải
đứng nghiêm, nghe nhạc Trịnh Công Sơn khi chào
cờ. Chuyện đã không xảy ra, nhưng không
phải là không có khả năng xảy ra trong
tuyệt đối).
Thời
điểm 1968, hội nghị Paris thật sự đã tạo nên
niềm hy vọng vô biên. Trịnh Công Sơn viết
lời tựa Kinh
Việt Nam
:
Kinh Việt Nam là những tiếng kêu thương thống thiết, khởi sự tự một thực trạng máu xương ... Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người. Đó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh ...
Đã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay (...) Chúng ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi tên định hướng được bắn đi từ những đồ hình huy hoàng tưởng tượng và ngắn hạn. Dân ta tàn phế hai mươi năm. Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy mòn tiềm lực sáng tạo (...)
Xin hãy dừng tay và cùng chờ nhìn một mặt trời tươi trẻ sẽ đựoc khai sinh ở phương đông (...)
Xin hãy dừng tay để được nghe ba mươi mốt triệu tiếng hò reo trong cùng một phút hân hoan (...)
Tiếng hát đã có thể cất lên để nuôi lớn ước mơ (...)
Một
ước mơ vĩ đại, làm bằng những đau thương nối
dài vào hoang tưởng "một
ngày mà lòng mình vui sướng hơn muôn
nghìn năm"
(Cánh Đồng Hoà Bình).
Bây
giờ, nhớ lại mà thương cho một thế hệ thanh niên
đã dở sống dở chết trong hoang tưởng :
Hai
mươi năm hận thù đã qua
Hôm
nay thấy mặt người đổi mới
Ta
yêu Trời, ta yêu ta, ta yêu em
Ta
yêu nắng hòa bình vừa đến ...
Hai
mươi năm chờ đợi từng phút giây
Hôm
nay tiếng Hòa Bình đã thấy
Trên
môi người trên môi ta, trên môi em
Trên
môi những người Việt nghèo khốn
Hai
mươi năm chờ đợi đã lâu ...
(Đồng Dao Hòa Bình)
Hai
mươi năm là tính từ 1948, hay trước đó
nữa, nghĩa là không kể Điện Biên Phủ,
không kể đến hiệp định Genève, dù sao
cũng tạo được cảm giác hoà bình trong
đôi ba năm. Nhưng nền hoà bình tạm bợ ấy
đã phải mua bằng cái giá chia đôi
Nam Bắc, mầm mống cho một cuộc chiến tranh khác,
lâu dài hơn, thảm khốc hơn, gây nhiều thù
hận hơn. Khi Sơn viết hai
mươi năm nội chiến từng ngày,
thì hằng triệu người đã hát, từ năm
này qua năm khác, dù có lúc bị
cấm. Hai chữ nội
chiến,
nếu không có lý, cũng có cơ sở tình
cảm của nó. Và đáp ứng lại với tâm
lý quần chúng không bị chính trị
hóa, không bị giáo dục chính trị,
những người dân đau lòng vì cảnh nồi da
xáo thịt, mà không truy tầm đến căn
nguyên phức tạp.
Có
lúc anh bộc trực, chính xác hơn :
Hai
mươi năm là xác người Việt nằm
Làm
sao ta giết hết những đứa con Việt Nam ?
Xưa
ta không thù hận
Vì
đâu tay ta vấy máu ?
(Tuổi Trẻ Việt Nam) 1969
Không
dễ dàng gì trả lời câu hỏi vì
đâu,
nếu không đơn giản lặp lại luận điệu bên
này hay bên kia. Không có cuộc chiến
tranh nào mà lý do đơn giản, chỉ có
những đầu óc đơn giản. Thời Nam Bắc Triều,
Trịnh Nguyễn phân tranh, Nam Hà Bắc Hà,
cuộc chiến chưa chắc đã bắt nguồn từ những lý
do đơn giản. Giữa lòng thế kỷ XX, hoàn cảnh
càng phức tạp. Chiến tranh Việt Nam, khởi sự là
dân tộc giành quyền tự quyết, chống ngoại
xâm, nhưng cũng là chiến tranh ý thức hệ,
nối dài biên giới chiến tranh lạnh, với sự
can thiệp của nước ngoài. Nhưng đồng thời cũng
có tính cách nội chiến :
Triệu
người đã chết, hãy mở mắt ra
Lật
xác quân thù, mặt người Việt Nam trên
đó
Đi
trên những xác người : bao năm thắng những ai
?
(Những Ai còn là Việt Nam) 1969
Nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn không nghị luận chính
trị, vì nghị luận sẽ không thành bài
hát ; anh chỉ nói lên cảm xúc :
Ôi
bom đạn cày trên những xác
Ôi
da vàng Việt Nam vỡ nát
Xương
thịt đó thiêng liêng vô cùng
(Đêm Bây Giờ, Đêm Mai) 1967
Bây
giờ lý luận rằng nguồn gốc của chiến tranh Việt
Nam không phải là nội chiến là việc của
người làm chính trị, phân tích "bản
chất" theo chính kiến, "chính nghĩa"
của mình. Người nghệ sĩ chỉ nói lên
hiện tượng.
Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ phản chiến ; quần chúng có hai con đường đến với anh : một là đến với người nhạc sĩ, hai là đến với người phản chiến ; họ chọn con đường thứ nhất, nếu anh có tài ; họ chọn con đường thứ hai, nếu anh đáp lại tâm tư của họ. Còn những người đi tìm một đồng chí hay chiến hữu, thì dĩ nhiên là thất vọng rồi công phẫn.
Cả hai chính quyền Nam Bắc đã trả công hậu hĩ, và trả ơn đầy đủ cho những cán bộ "hát cho dân tôi nghe". Dân tôi không nghe, lỗi đâu phải tại "cánh vạc bay" ?
*
* *
Từ 1968, trong những gào gọi hoà bình, thêm một ý tưởng hiện ra rõ nét, là thống nhất đất nước.
Hoà bình là một ước vọng của nhân sinh, ai ai cũng chia sẻ. Thống nhất là một đòi hỏi chính trị, người muốn thế nọ, kẻ muốn thế kia, đại khái qua hai câu hỏi : thống nhất bằng cách nào ; và ai chủ động thống nhất ? Trịnh Công Sơn nói lên niềm mơ ước công dân, và không trả lời hai câu hỏi chính kiến, cũng như nhiều nhạc sĩ khác : Phạm Đình Chương viết Hội Trùng Dương, Phạm Duy viết Con Đường Cái Quan, đều chia sẻ một nguyện vọng.
Khát
vọng thống nhất đã bàng bạc trong những bản
nhạc của Sơn trước đó :
Đêm
sông Hương nhung nhớ
Ngày
Cửu Long mơ, mơ thấy gì
Mơ
một ngày Hồng Hà góp Hội Trùng
Dương
Đây
quê hương trông ngóng và mẹ chờ mong
Lại Gần Với Nhau (1966)
Nhưng
phải đợi đến Kinh
Việt Nam
(1968) yêu sách ấy mới được diễn đạt chính
xác :
Chờ
ngày Việt Nam thống nhất
Chờ Nhìn
Quê Hương Sáng Chói
Reo
vui cờ thống nhất
Chân
bước đi trên ba Miền
Những Ai Còn Là Việt Nam
Chính
chúng ta phải có mọi quyền
Đứng
lên đòi thống nhất quê hương
Chính Chúng Ta Phải Nói
Bắc Nam Trung ơi đoàn kết một miền
Huế, Sài Gòn, Hà Nội
Thậm
chí anh đã hát rất quyền uy : Hỡi
Ba Miền vùng lên Cách Mạng.
Nói Một Miền Rưỡi, thì không sao ; nói Ba Miền là đã có vấn đề ; nói Hai Miền "vùng lên cách Mạng" sẽ còn nặng tội hơn nữa ! Ôi ! Sơn ơi là Sơn ơi !
Những bài hát rền vang khí thế. Quan điểm chính trị rõ nét, dù là tự phát, cũng có thể thành hình qua những thảo luận với bạn bè. Vì không dễ gì mà trong vài tháng, Sơn đã sáng tác được hằng chục bài hát đồng quy về một nội dung chính trị nhất quán.
Mưu cầu hoà bình đi đôi với ước mơ thống nhất là khát vọng chung. Và đến 1968, người dân thấy rõ không thể có hoà bình mà không có thống nhất. Không cần am tường chính trị cũng thấy điều ấy. Vài ba năm trước, những người thân thiết với Trịnh Công Sơn trong phong trào tranh đấu Miền Trung còn mơ tưởng : "tạm thời Nam Bắc làm hoà, để có lý do cho Mỹ rút chân ra khỏi Việt Nam. Miền Nam Trung Lập trong vòng hai mươi năm (...) Nam Bắc hiệp thương" 14 như Hoàng Nguyên Nhuận đã tuyên bố trên báo Chuyển Luân.
Khi tại Paris hoà hội bốn bên đang tiếp diễn, thì trên danh nghĩa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã biến thành Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Rõ ràng là Nam Bắc thế vô lưỡng lập : muốn có hoà bình thì phải thống nhất Nam Bắc bằng cách này hay cách khác.
Cách nào đi nữa thì cũng dưới một màu cờ, do đó Trịnh Công Sơn đã hát : Ta thấy gì trong đêm nay ? Cờ bay trăm ngọn cờ bay ... Anh mong sớm Dựng lại Người, Dựng lại Nhà : tình ta bay theo sóng ngọn cờ ...
Không thể tránh được câu hỏi : ngọn cờ gì ? Thật tâm thì Trịnh Công Sơn cũng không biết là cờ gì. Trả lời câu hỏi đó, là thêm một lần chia rẽ, đau thương.
Nhạc
sĩ rất bén nhạy, từ 1968 đã linh cảm :
Đêm
nay hoà bình, sao mắt mẹ chưa vui
Nhìn
quanh anh em không ai còn lại
Anh
thầm gọi tên ai. Gọi tên ai ...
Anh
đi trận về nghe lại chuyện kể
Ngỡ
giấc mơ ...
(Sao mắt Mẹ Chưa vui)
Năm
ấy, bài hát thành công nhất là Nối
Vòng Tay Lớn :
Rừng
núi dang tay nối lại biển xa
Ta
đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà
(...)
Thành
phố nối thôn xa vời vợi
Người
chết nối linh thiêng vào đời ...
Nhạc
điệu phong phú, hào hùng, phóng khoáng
và lời ca vừa nhẹ nhàng vừa súc tích,
nối liền con người với nhau, với đất nước, thành
phố với thôn quê, quá khứ với hiện tại,
người chết với tương lai. Nhà văn Nguyễn văn Thọ,
một bộ đội "phía bên kia", kể lại
rằng khi tiến quân vào Sài Gòn ngày
30/4/1975, nghe bài này anh đã chùng tay
súng :
"
Mặt đất bao la, anh em ta về
Gặp
nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng
Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học" 15.
Nhưng đây là chuyện về sau - nói ra đây - để thấy tác dụng của một khúc nhạc phản chiến.
*
* *
Năm
1969, Bửu Chỉ kể lại : " thỉnh
thoảng người ta lại nghe phong thanh đâu đó về
một giải pháp hoà bình cho Việt Nam, rồi
tại tắt ngấm... Phong trào đấu tranh hoà bình
Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên
mãnh liệt
" (Bài đã dẫn), nhạc khúc Trịnh Công
Sơn gắn bó với hoàn cảnh, mang một nét
mới :
chính chúng ta phải nói
: chính người dân Việt Nam phải có quyền
quyết định về vận mệnh dân tộc, trên cơ sở
hoà bình-thống nhất :
Khi tim người
rực lửa cầu mong
Chính chúng ta
phải có mọi quyền
Đứng lên
đòi thống nhất quê hương
Quyết
chối từ chém giết anh em
Chính
chúng ta phải nói hoà bình
Đất
nước này chỉ còn lại người điên
Tháng
8/1969, anh viết : " Hai
mươi năm qua con người Việt Nam khốn khổ đã hiểu
được thấm thía rằng không còn một nhân
danh nào đủ ý nghĩa và xứng đáng
để còn một chỗ đứng trên cái điêu
tàn to lớn phủ ngập đời sống nơi đây nữa"
16.
Trịnh
Công Sơn kêu gọi Ta
Đi Dựng Cờ,
Đừng
Mong Ai đừng Nghi Ngại. Lời ca hùng hồn, khẩu hiệu, có lúc
đại
ngôn : đã
đến lúc cách mạng tiến lên. Bài Ta
Quyết Phải Sống
:
Còn sống
xin các anh quyết còn cách mạng
Đời
ta ta lo, xin xếp vũ khí ...
Quyết
làm cách mạng và phải xếp vũ khí :
nguyện vọng thành khẩn và ngây thơ của
một nghệ sĩ giữa những thế lực vô minh, với hằng
triệu tay súng mỗi bên, với pháo đài
bay, xe tăng, hoả tiễn. Cách mạng, trong mơ ước
Trịnh Công Sơn là cuộc đổi đời triệt để,
tự bóng tối ra ánh sáng, từ xương máu
ra hoà bình " một
rạng đông mới sẽ được khai sinh. Nhựa mới sẽ
luân lưu cuồn cuộn trong những thân thể Việt
Nam"
14.
Trong
Những
Giọt Máu Trổ Bông,
sau khi tính sổ hằng tỷ tỷ giọt máu đã
chảy thành suối thành sông hay đã khô
cằn trên đất nước, đã che khuất mặt trời,
nhạc sĩ quyết định :
Những giọt
máu đến ngày trổ bông
Nở
hoà bình cho đêm vắng xôn xao tiếng
người
Ngày
dân ta đi dành lấy hoà bình
Ta phải thấy mặt trời
Và
Mặt Trời là biểu tượng ánh sáng, hơi
ấm, sự sống và phương hướng : phương Đông,
phía mặt trời mọc : "Tuổi
trẻ Việt Nam, trời sáng phương Đông".
"Một
mặt trời tươi trẻ sẽ được khai sinh ở phương Đông". Sơn có
lần giải thích : người phương Tây,
khi định hướng, dùng chữ orientation, nghĩa là
nhắm hướng orient, phương Đông. Việt Nam là
chiến trường giữa những thế lực mê chấp đến
từ phương Tây. Trong khi đó, phương Đông
nguồn cội của đức tin, là quê hương của hoà
bình, hoà giải và hoá giải.
Anh và bạn bè anh ở Huế, trong giới Phật tử, đã tin như vậy, theo hồi ký gủa Giáo sư Erich Wulff khi ông kể lại vụ xe thiết giáp đàn áp dân lành tại Huế tháng 5/1963 mà ông đã mục kích. Ông nói về thanh niên Huế và chiến tranh : "Họ xem như là một cuộc chiến tranh tôn giáo (...) càng ngày càng cổ võ cho một nền văn hoá dân tộc mang tính cách Phật giáo và một sách lược chính trị trung lập" 17.
Tư tưởng Phật giáo tiềm ẩn nơi Trịnh Công Sơn, có lẽ đã khởi sắc từ ý thức chính trị, xã hội và văn hoá, trong một thời điểm nhất định. Do đó, tâm hướng về nguồn, về phương Đông, về Đạo trong nghĩa Phật giáo hay Lão Trang, ở Trịnh Công Sơn khác với Hơi Tàn Đông Á nơi Vũ Hoàng Chương ba mươi năm trước, và cách nhau hai cuộc chiến tranh ; rồi ý hướng về Đạo, vài ba năm sau, từ 1973, sẽ đơm hoa kết nụ thành những đoá hoa vô thường trong nhiều ca khúc.
Phật tính là mạch nước ngầm trong tâm hồn Trịnh Công Sơn, gặp một hố bom, nó chợt Thấy Mặt Trời, và tuôn trào thành Nguồn Thơ Suối Nhạc.
*
* *
Phụ Khúc Da Vàng, xuất bản 1972, gồm 9 bài, với Người Mẹ Ô Lý, bài hát tặng người Mẹ già đã gặp trong đoàn người từ Quảng Trị về Huế ; và Mùa áo Quan, tặng những thành phố Việt Nam, có một lần không còn bóng dáng con người, phản ánh chiến trường Trị Thiên khốc liệt những năm 1971-1972, với mặt trận Nam Lào, Đường 9, Cổ thành Quảng Trị, Mùa Hè Đỏ Lửa. Xa hơn nữa, trên khắp chiến trường miền Nam, đi đâu cũng thấy xác người Trị Thiên, theo lời Phan Nhật Nam : Kontum thì dân dinh điền, An Lộc là dân cạo mủ cao su, Bình Giả là dân Cam Lộ, Khe Sanh mới đến định cư. Những phận người nằm chết cong queo, chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu, chết nghẹn ngào mình không manh áo. Phan Nhật Nam "nhìn tận mắt những thảm cảnh trên vùng đất quê hương : một bộ xương trẻ con trong chiếc thau nhựa bạc màu ... Một người đàn bà đưa bàn tay trước từng miếng thịt, xoa trên chiếc đầu lâu của người chồng xấu số " 18.
Khi các phe phái hoà đàm tại Paris thì bom đạn vẫn ác liệt. Chiến xa miền Bắc đã tràn qua sông Bến Hải, mục tiêu vừa quân sự, vừa chính trị là bôi xoá tàn tích hiệp định Genève và vĩ tuyến 17, chứng tỏ chiến trường Việt Nam là một, trong khi chờ đợi nước Việt Nam là một.
Bề
ngoài Trịnh Công Sơn vẫn hô hào "Chưa
mất niềm tin, vì quê hương sẽ có ngày
hoà bình (...), trong lòng nhau thấp thoáng
bóng cờ chung". Nhưng
ở thâm tâm anh đã bi quan lắm khi "đợi
con kên kên trên cành nhỏ lệ
":
Bao
nhiêu năm chờ đợi
Oán
thù là khí giới
Trong
con tim lời nói yêu thương
Đã
mất rồi
Đợi Có Một
Ngày
Trịnh
Công Sơn gói ghém nỗi hoang mang chán
chường một thế hệ :
Mười
lăm năm em có buồn không ?
...Đường
anh em đi hoài không tới
Đường
văn minh xương cao cùng với núi
Đường
lương tâm mênh mang hoài bóng tối
...
Hãy nhìn lại anh em trên chiến trường
Tìm
đâu ra những nét mặt thù
Được
hay thua những thắng bại kia
Mặt
quê hương tan nát từng giờ
Hãy Nhìn Lại
Khúc hát ngắn đã quy chiếu mọi góc cạnh, kích thước một cuộc chiến tranh, thuộc loại khốc liệt nhất mà dân tộc phải trải qua. Nếu ai đó chê trách Trịnh Công Sơn lờ mờ về chính trị, thì phải hiểu chính trị theo nghĩa lập trường, phe phái. Đứng trên lương tâm dân tộc mà nói, ít có sử gia hay nhà bình luận chính trị nào, mà thu vén được cả bi kịch của đất nước trong cả chiều dài, chiều rộng lẫn chiều sâu bằng bấy nhiêu câu chữ, được giai điệu của nhạc thuật xoáy sâu vào tâm khảm của thời đại.
*
* *
Đã nhiều người nói Trịnh Công Sơn là thiên tài. Sự đánh giá thành tâm, nhưng mơ hồ, sử dụng một khái niệm khó định nghĩa và không có tiểu chuẩn. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, chữ thiên tài bao hàm một ngụ ý chính trị. Nhưng nhìn dưới ánh sáng nào đi nữa, sự nghiệp Trịnh Công Sơn cũng là một khối tài tình. Tài và tình sinh ra nhau, nuôi dưỡng lấy nhau bằng lương thực một trần ai khổ ải. Chữ tài, phần nào, là của trời cho ; chữ tình là khối đau thương khổ luyện trong khổ nạn.
Và chính khối đau thương - qua những lời ca phản chiến - đã vinh danh Trịnh Công Sơn trong khổ nạn, vinh danh bên ngoài ý muốn của nhiều quyền lực thế trị ; và sau này nữa, bên ngoài những mê chấp sân si.
Song song với ca khúc hoà bình làm trong một thời điểm đặc biệt, Trịnh Công Sơn vẫn sáng tác nhạc phẩm ca ngợi tình yêu, tình bạn, thiên nhiên và cuộc đời. Tất cả tâm cảm ấy cùng chiếu rọi về tình người, nổi bật trong bất hạnh.
*
* *
Nhân đề tài Ca khúc đòi hỏi Hoà Bình của Trịnh Công Sơn, chúng tôi nhắc lại từng giai đoạn trong quá trình nhạc phẩm và bối cảnh chính trị, xã hội của miền Nam chủ yếu từ 1965 đến 1972. Trong những điều kiện tạo nên hiện tượng Trịnh Công Sơn, có yếu tố lớn lao với kích thước lịch sử, có chi tiết bình thường như cách ăn mặc hay ăn nói. Trong tâm tưởng người nghe khó đo lường được cái gì là chính, cái gì là phụ trong những điều kiện làm nên danh phận một tác gia. Điều này bổ sung cho điều kia, chúng tôi ghép lại như những mảnh vỡ của một thời đại.
Và cũng lưu ý dè dặt : bài nào chính xác là phản chiến ? Đối với những người từng nghe, từng sống những ca khúc Trịnh Công Sơn thời thịnh hành, thì khó trả lời.
Với nhiều người, toàn bộ nhạc Trịnh Công Sơn thời đó đều diễn tả khát vọng hoà bình. Những bản nhạc tình, dù chỉ hoà tấu không lời, cũng vang vọng ít nhiều âm hưởng của niềm mong ước đó. Nhưng có một cách phân biệt, nghịch lý nhưng thiết thực : bài nào mà ngày nay không được in lại, đồng thời không được trình diễn trong nước, thì nó là nhạc ... phản chiến !
Đây lại là một cách gián tiếp minh xác vị trí chính trị của Trịnh Công Sơn trong giai đoạn anh làm khoảng 70 bài hát được gọi là phản chiến.
Trong số phận làm dân, và danh phận một tác gia, bên ngoài tài năng, có thể nói Trịnh Công Sơn là người may mắn, may mắn hơn đa số bạn bè một thưở. Nhưng con người dù may mắn đến đâu, thì cũng không thể may mắn hơn Lịch Sử.
*
* *
Bài
hát duy nhất mà chúng tôi có thể
xác định thời điểm sáng tác là Ra
Đồng Giữa Ngọ
làm tại Huế tháng 12 năm 1974, vào những
ngày năm cùng tháng tận của một chế độ,
chế độ đã sinh trưởng ra anh. Bài hát
tiên tri về nhiều mặt :
Thằng
bé xinh xinh chơi diều giữa Ngọ
Ngờ
đâu hội ngộ tan giữa hư không.
Sơn
qua đời ngày 1 tháng Tư, cũng vào giờ
giữa Ngọ, như con
diều bay mà linh hồn lạnh lẽo, con diều rơi cho vực
thẳm buồn theo ...
Đối
với một số thân bằng quyến thuộc, Sơn bao giờ
cũng như đứa bé, suốt đời buồn vui như một đứa
bé, nhìn theo " hòn
bi xanh, trái đất này quay tròn",
nhìn thân phận như cánh diều giữa trời
lộng gió. Và ngày nay có người còn
hát theo Sơn :
Thằng
bé xinh xinh bay vờn giữa Ngọ
Ngờ
đâu hội ngộ tan giữa hư không
Tan
trong trời hồng làm giọt mưa trong
Tan
trên cuộc đời làm lời ru êm
Tan
trong nụ cười gọi mời yêu thương
Tan
trong cội nguồn.
Vậy
thôi, thôi nhé, vậy nhé, Sơn nhé.
Khi
khác gặp lại Toa.
Đặng Tiến
Orleans, ngày 30 tháng 11 năm 2001.
Bài
đã đăng trên tạp chí Văn Học, California,
tháng 10-11/2001, số 186-187 đặc biệt Trịnh Công
Sơn.
Có
bổ sung, sửa chữa, và cập nhật hoá.
1 Bửu Chỉ, Về những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn, báo Diễn Đàn Forum, tr. 29, số 110, tháng 9/2001, Paris.
2
Đặng Tiến, Đời và Nhạc Trịnh Công Sơn, báo Diễn Đàn
Forum, Số 107, tháng 5/2001, Paris.
Báo Văn, số 53-54, tháng 5-6/2001,
California.
Báo Hương Văn, số 14, mùa Hạ 2001,
California.
3 Hoàng Nguyên Nhuận, Giã từ Nguyễn Du Thế Kỷ 20, báo Chuyển Luân, tr. 9, số 25, tháng 10/2001, Australia.
4 Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọn Núi Ảo Ảnh, tr. 13, nxb Thanh Niên, năm 2000, TPHCM
5 Thái Kim Lan, TCS Nơi Vùng ưu Tư Thành Tiếng Du Ca, báo Diễn Đàn, Paris, số 111, tháng 10/2001. Và báo Chuyển Luân, số 25 đã dẫn.
6 Lý Quý Chung, Với Vô Vàn Tiếc Thương, trong sách Trịnh công Sơn Một Người Thơ Ca, tr. 496, nxb Âm nhạc, 2001, TPHCM
7 Nguyễn Quốc Trụ, Những Ngày TCS, tr. 84, báo Văn, số 53-54, tháng 5/6 2001, California.
8 Phạm Duy, Hồi Ký III, Thời Phân Chia Quốc Cộng, tr. 285, nxb PDC, 1991, California.
9 Khánh Ly, trả lời Trường Kỳ, báo Văn, số đã dẫn.
10 Văn Ngọc, Trịnh Công Sơn-Khánh Ly những khúc tình ca một thời, Diễn Đàn Forum, số 110 đã dẫn, Paris.
11 Nguyễn văn Trung, Văn học trong vòng tay chính trị, Báo Văn Học, số 179, tháng 3/2001, California
12 Lê văn Nuôi, (cùng với nhiều tác giả), Chung một bóng cờ, Về Mặt Trần Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, tr. 159, nxb Chính Trị Quốc Gia, 1993, Hà Nội
13 Hoàng Nguyên Nhuận, trả lời Quán Như, báo Chuyển Luân, số 24, năm 2001, Australia.
14 Hoàng Nguyên Nhuận, trả lời Quán Như, báo Chuyển Luân, số 24, năm 2001, Australia.
15 Nguyễn văn Thọ, Nhớ Trịnh Công Sơn, tr. 74, báo Văn số đã dẫn
16 Tiếng Vọng Quê Hương, do Tổ Chức Thân Hữu Các Dân Tộc, Sài Gòn (không ghi năm xuất bản – 1970 ? )
17 Erich Wulff, Lễ Phật Đản 1963 tại Huế, báo Chuyển Luân, số 24 đã dẫn, Australia
18
Phan Nhật Nam, Mùa Hè Đỏ Lửa, tr. 186-187, Võ Phiến
trích, Đất Nước Quê Hương, tr. 103, nxb Người Việt,
1976, California
Các thao tác trên Tài liệu