Tìm lại dấu xưa Tự lực văn đoàn
Tìm lại dấu xưa Tự lực văn đoàn
Trần Văn Thọ
Ngẫu nhiên là trong năm vừa qua tôi có nhiều duyên với Tự lực văn đoàn.1 đi thăm di tích Tự lực văn đoàn ở Cẩm Giàng (Hải Dương), thăm địa chỉ 80 Quan Thánh Hà Nội, nơi đã từng đặt trụ sở hai tờ báo của nhóm nầy. Gần cuối năm lại được bà Nguyễn Tường Nhung, trưởng nữ của Thạch Lam, tặng cuốn hồi ký Tháng Ngày Qua. Phát hiện mới, cảm xúc mới lại kết nối với những rung động của những ngày đọc Tự lực văn đoàn thời trung học hơn nửa thế kỷ trước.
Sau tết Giáp Thìn, ngày 14/2/2024, tôi và một số bạn ở Đà Nẵng rủ nhau đi Hội An viếng mộ Nhất Linh. Khu mộ tộc Nguyễn Tường nằm trong một vùng bia mộ của nhiều tộc họ được xây dựng ở ngoại ô Hội An. Tại đây chúng tôi rất mừng được gặp và hỏi chuyện anh Nguyễn Tường Mạnh, cháu đời thứ 12 tộc Nguyễn Tường, đang phụ trách trông coi phần mộ của tộc mình (Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là đời thứ 10).2 Tổ tiên của tộc Nguyễn Tường gốc ở Thanh Hóa, đến đời thứ 6 là Nguyễn Tường Vân (1774-1822) di cư vào Gia Định, từng theo Nguyễn Ánh dựng cơ nghiệp, sau làm quan ở Phú Xuân, có một thời làm cai bạ ở Quảng Nam, và dưới thời Minh Mạng làm Binh bộ thượng thư. Lúc mất ông được an táng tại Quảng Nam. Con trai thứ của Nguyễn Tường Vân là Nguyễn Tường Phổ (1807-1856) làm quan triều Nguyễn. Trưởng nam của ông Phổ là Nguyễn Tường Tiếp được nhà Nguyễn bổ làm Tri huyện Cẩm Giàng. Một trong bốn người con của ông Tiếp là Nguyễn Tường Nhu (1881-1918), thân sinh của 3 anh em Nhất Linh (1906-1963), Hoàng Đạo (1907-1948), và Thạch Lam (1910-1942). Mẹ của ba anh em nhà văn là bà Lê Thị Sâm (tục gọi là bà thông Nhu theo tên và chức vị của chồng), con gái của Lê Quang Thuật, người Huế, được triều Nguyễn cử ra Cẩm Giàng nhậm chức và tại đây ông làm sui với Nguyễn Tường Tiếp.
Như vậy ba anh em nhà văn trụ cột của Tự lực văn đoàn gốc ở Thanh Hóa rồi Quảng Nam nhưng đều sinh ra tại Cẩm Giàng, Hải Dương. Sau này ba người đi học ở Hà Nội, làm báo viết văn ở Hà Nội nhưng mỗi cuối tuần cùng với các văn hữu khác về Cẩm Giàng sinh hoạt. Lúc các thành viên Tự lực văn đoàn về sinh hoạt mỗi cuối tuần thì ở đây đã hình thành một khu vục gọi là Trại Cẩm Giàng do mẹ của ba anh em nhà văn Nguyễn Tường xây dựng. Theo hồi ký Tháng Ngày Qua của Nguyễn Tường Nhung (Nhà xuất bản Thạch Ngữ, 2021), trại rộng 2 mẫu tây, nguyên là miếng đất do một người chịu nợ bà Sâm đã nhường lại để trừ vào nợ. Bà dựng nhà gạch, nhà ngang, làm vườn hoa, trồng cây bằng tiền giúp đỡ của người con cả và của bên họ Lê của bà ở Huế. Sau 1954 bà di cư vào Nam và mất ở Saigon năm 1961.
Sau khi du học ở Pháp về (năm 1930), Nhất Linh muốn dùng văn chương báo chí để nâng cao dân trí, cải cách xã hội. Ông cho rằng người Việt Nam bị đô hộ một phần vì đa số thất học, tục lệ hủ lậu, mê tín dị đoan nên phải nâng cao dân trí, làm cho người dân dần dần chuyển sang lối sống mới. Năm 1932, Nhất Linh được người bạn nhường lại tờ báo Phong Hóa, số đầu tiên do Nhất Linh làm chủ bút ra ngày 22/9/1932. Nửa năm sau, tháng 3 năm 1933, Nhất Linh nhận thấy cần mở rộng và duy trì lâu dài hoạt động văn chương, báo chí nên lập ra Tự lực văn đoàn, lúc đầu có 4 người là ba anh em Nguyễn Tường và Khái Hưng (1896-1947). Sau có thêm Thế Lữ (1907-1989), Xuân Diệu (1916-1985) và Tú Mỡ (1900-1976). Khoảng 2 năm sau, Nhất Linh cho ra tiếp tờ Ngày Nay (số đầu ra ngày 30/1/1935, từ số thứ hai chủ bút chuyển từ Nhất Linh sang Thạch Lam). Đến năm 1936 tờ Phong Hóa bị đóng cửa vì đã đăng hàng loạt bài phê phán mạnh mẽ chính quyền đương thời. Tờ Ngày Nay hoạt động thêm vài năm nữa rồi cũng bị đóng cửa. Tự lực văn đoàn tiếp tục hoạt động đến khoảng năm 1942, khi Thạch Lam mất và Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng chuyển sang hoạt động chính trị.
Chiều ngày 22/2/2024 tôi và nhà báo Phúc Tiến có đến thăm địa chỉ 80 Quan Thánh (Hà Nội), nơi đặt tòa soạn báo Phong Hóa và Ngày Nay. Qua bao lần thay đổi, chỗ này hiện nay trở thành một chung cư, không còn dấu vết của Tự lực văn đoàn nhưng đến đây vẫn có cảm xúc liên tưởng một thời hoạt động báo chí và văn chương của Nhất Linh và các bạn ông khoảng 90 năm trước. Sau đó chúng tôi tới thăm số 15 Hàng Bè, nơi đây bà Phạm Thị Nguyên, vợ Nhất Linh, mở cửa hàng buôn bán nuôi con trong thập niên 1940, khi chồng lưu vong ở Hồng Kông. Năm 1949 Nhất Linh về nước và tại nhà này ông đã tuyên bố không hoạt động chính trị nữa mà trở lại nghề viết văn. Ít lâu sau ông và gia đình di cư vào Nam.
Nhà văn, nhà báo trong Tự lực văn đoàn làm việc ở Hà Nội nhưng cuối tuần lên tàu hỏa về Trại Cẩm Giàng sinh hoạt, đàm đạo văn chương, bàn kế hoạch viết báo, viết sách. Kết quả là biến vùng đất này thành nơi hội tụ văn chương độc đáo được người sau quan tâm và ngưỡng mộ. Nơi đây cũng là vùng đất sinh ra ba anh em nhà văn Nguyễn Tường mà các chuyến tàu đến ga Cẩm Giàng cùng với quang cảnh sinh hoạt của người dân miền phụ cận đã phản ảnh trong hai truyện ngắn của Thạch Lam (Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan).
Ngày 19/2/2024 tôi từ Hà Nội đi Hải Dương để thăm Trại Cẩm Giàng, cách Hà Nội độ 40 cây số. Trên đường đi lòng thấy nao nao, rạo rực, đã từ lâu mong có dịp này bây giờ mới thực hiện được. Nhờ nhà báo Mai Đức Lộc (Đà Nẵng) liên lạc trước, tôi được Tổng Giám đốc Đài phát thanh Hải Dương Nguyễn Hải Bình tiếp đón và cử ba nhân viên hướng dẫn đến Trại Cẩm Giàng. Tại đây lại gặp được ông Trần Quang Thông, ủy viên Ban chấp hành Hội văn nghệ tỉnh Hải Dương và từng làm Phó Bí thư Thị trấn Cẩm Giàng nên được nghe kể nhiều chuyện về dấu vết Tự lực văn đoàn cũng như hoạt động gần đây của các giới văn nghệ sĩ liên quan việc đánh giá ý nghĩa và vị trí văn học của tổ chức này.
Thị trấn Cẩm Giàng có chiều dài gần 1 km, nằm dọc tuyến đường sắt Hà Nội- Hải Phòng. Ga Cẩm Giàng nằm khoảng giữa đoạn đường này. Nhiều người cho rằng hồn văn Tự lực văn đoàn khởi lên từ nhà ga này. Ta có thể tưởng tượng Nhất Linh và các bạn văn mỗi cuối tuần từ Hà Nội đến, cùng xuống tàu hỏa ở ga này, nối bước về ngôi nhà do chính họ xây cất (được gọi là Nhà Ánh Sáng) trong khuôn viên trại Cẩm Giàng. Chính nơi đây chắc đã nảy sinh những ý tưởng ban đầu của nhiều tác phẩm để đời.
Tôi
theo các bạn ở Đài Truyền hình Hải Dương xuống ô-tô
trên con đường trước ga có tên Thạch Lam. Trong hồi ký
Tháng Ngày Qua,
Nguyễn Tường Nhung kể chuyện đã đến đây, xúc động
và tự hào khi đi trên con đường mang tên người sinh ra
mình. Tôi cũng thấy xúc động và vui vì lãnh đạo Hải
Dương đã có quyết định sáng suốt khi đặt tên cho con
đường này vào năm 1996.
Đường
Thạch Lam gần khu lưu niệm Tự lực văn đoàn (Ảnh
của tác giả, 19/2/2024)
Sân
ga Cẩm Giàng (ảnh của tác giả, 19/2/2024)
Ga Cẩm Giàng nhìn từ đường Thạch Lam (Ảnh của tác giả, 19/2/2024)
Từ
đường Thạch Lam đi vào con đường nhỏ sẽ thấy bên
trái là ga Cẩm Giàng, bên phải là khuôn viên Trại Cẩm
Giàng cũ, trước cổng có gắn bảng Tự lực văn đoàn
(1932-1942) mà nhiều chữ đã mờ. Lối vào bên trong nằm
giữa hai bức tường gạch đã rêu phong. Phía bên phải,
ở giữa có nhà gạch xây từ thập niên 1980, phía sau là
khu đất nguyên là nền của một nhà ngang, do Nhất Linh
xây đầu thập niên 1930, có cửa mở ra bốn phía gọi là
Nhà Ánh Sáng. Trong nhà gạch, ở chính diện có bàn thờ
và di ảnh các thành viên của Tự lực văn đoàn, gian bên
trái có hình ảnh các chuyến thăm, các cuộc hội thảo
của văn nghệ sĩ đến từ Hà Nội và các nơi khác.
Trước nhà là cái sân nhỏ có nhiều cây khá cao như cây
nhãn, cây cau và phía ngoài đó là ao cá.
Tác giả trước cổng vào khu di tích Tự lực văn đoàn (Cẩm Giàng, 19/2/2024)
Trước
bàn thờ các thành viên Tự lực văn đoàn, tôi thắp
hương, tưởng niệm các tác giả mà hầu hết truyện
dài, truyện ngắn, và thơ của họ tôi đã đọc lúc còn
học trung học. Tự lực văn đoàn có 7 hay 8 thành viên là
đề tài được tranh luận nhiều năm. Những người chủ
trương 7 thành viên gọi nhóm này là “thất tinh”, còn
8 thành viên được gọi là “bát tú”. Nguyên nhân có ý
kiến khác nầy liên quan đến Trần Tiêu, tác giả tiểu
thuyết Con trâu. Có
người cho rằng Khái Hưng đã giới thiệu em mình (Trần
Tiêu) tham gia Tự lực văn đoàn. Tú Mỡ, trong hồi ký
Trong bếp núc Tự lực văn đoàn
cũng khẳng định Trần Tiêu là thành viên.3
Nhưng cuộc hội thảo của các nhà nghiên cứu văn học
vào năm 2008 đã khẳng định Trần Tiêu không phải là
thành viên của tổ chức này. Bàn thờ Tự lực văn đoàn
được tập thể giảng viên trường Sư phạm Vĩnh Phúc
lập năm 2014 nhưng di ảnh và tên tuổi của các thành
viên Tự lực văn đoàn được ông Trần Quang Thông (nói
trên) sưu tập và treo trên tường phía trong bàn thờ (từ
năm 2007). Ông Thông tin là Tự lực văn đoàn có “bát
tú” nên đưa thêm ảnh Trần Tiêu. Sau hội thảo 2008 nói
trên, nhiều người đề nghị ông rút ảnh Trần Tiêu
xuống, nhưng ông vẫn giữ lại tên tuổi Trần Tiêu, ngầm
ý nói là vấn đề còn đang tiếp tục tranh luận.
Trên
tường phía trong bàn thờ các nhà văn Tự lực văn đoàn.
Về Trần Tiêu, vẫn còn tranh cãi là thành viên nhóm này
hay không (xem chi tiết trong bài)
(Hình của tác giả, Cẩm Giàng 19/2/2024)
Thắp hương và nhìn di ảnh các nhà văn Tự lực văn đoàn tôi xúc động hồi tưởng những ngày học bậc trung học đệ nhất cấp (Cấp II bây giờ). Mấy năm đó hầu như tôi đã đọc hết các tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng và Thạch Lam. Năm tôi học Đệ lục (lớp 7 bây giờ), cả hai lớp Đệ lục A và B cùng học văn với một thầy giáo. Thầy cho lớp A sang thuyết trình ở lớp B và ngươc lại về một cuốn tiểu thuyết tự chọn trong số các sách của Tự lực văn đoàn. Tôi còn nhớ các buổi tranh luận sôi nổi về Đoạn tuyệt, về Nửa chừng xuân, v.v.
Về Nhất Linh, tôi thích nhất hai cuốn Đôi bạn và Đoạn tuyệt. Bây giờ vẫn còn nhớ một đoạn văn trong Đoạn tuyệt, trong đó Nhất Linh để cho nhân vật Dũng nói về lòng yêu nước: “Chiều hôm ấy, Dũng như cảm thấy tâm hồn của đất nước, mà biểu hiện cho đất nước ấy không phải là những bậc vua chúa danh nhân, chính là đám dân hèn không tên không tuổi. Dân là nước. Yêu nước chính là chung đám thường dân, nghĩ đến sự đau khổ của đám thường dân”. Đây là định nghĩa về lòng yêu nước rất hay, rất thiết thực. Hồi đó tôi đã ngưỡng mộ Nhất Linh không những về văn tài mà còn về những tư tưởng ông gói ghém trong tiểu thuyết. Hôm nay, từ nhà kỷ niệm Tự lực văn đoàn nhìn qua của sổ phía sau là khu đất trước đây có Nhà Ánh Sáng, nơi các nhà văn ăn ở và sinh hoạt văn chương mỗi cuối tuần, tôi lại thán phục tư tưởng vì dân nghèo của Nhất Linh. Theo lời kể của ông Trần Quang Thông nói trên, Nhất Linh đã phát động mang ánh sáng đến cho người nghèo, thuyết phục họ có lối sống lành mạnh, vệ sinh, bỏ hủ tục, mê tín dị đoan, v.v.. Để thực hiện phương châm này, Nhất Linh tuyên truyền qua báo chí như đã nói, nhưng ở đây còn xây dựng Nhà Ánh Sáng bằng vật liệu đơn giản lấy ở địa phương nhưng được xây thành nhà ở thoáng mát, đủ tiêu chuẩn vệ sinh. Một ngôi nhà như thế ở miền quê có tính biểu tượng kêu gọi người dân theo lối sống mới.
Năm 1963, khi Nhất Linh uống thuốc độc tự tử để phản đối chính quyền Ngô Đình Diệm sắp kết án ông, trường Trung học Nguyễn Duy Hiệu (Điện Bàn, Quảng Nam) nơi tôi đang học có tổ chức lễ truy điệu tại sân trường. Thầy giáo văn đọc bài văn truy điệu rất hay, trong đó có một đoạn dài dùng tên các tác phẩm của Nhất Linh để kết thành một bài thơ ca ngợi sự nghiệp của ông. Rất tiếc tôi nghe một lần lúc đó, chỉ nhớ vài câu nhưng không đầy đủ. Sau này gặp lại thầy cũ đang sống ở Saigon, tôi có hỏi nhưng thầy bảo bài thơ do một người khác sáng tác nên thầy không nhớ. Rất tiếc. Trong buổi lễ truy điệu Nhất Linh ngày 5/1/1964 tại Saigon, thi sĩ Vũ Hoàng Chương đọc bài ai điếu trong đó có hai câu đối gói ghém phần lớn tên các tiểu thuyết của Nhất Linh:
Người quay tơ đôi bạn tối tăm, anh phải sống chứ sao đoạn tuyệt?
Đời mưa gió lạnh lùng bướm trắng, buổi chiều vàng đâu nhỉ nắng thu?
(Trừ các chữ “chứ sao, đâu nhỉ”, tất cả là tên các tác phẩm của Nhất Linh, kể cả tập truyện ngắn Anh phải sống viết chung với Khái Hưng)
Về Khái Hưng, tôi nhớ đã nhiều lần rơi nước mắt khi đọc Hồn bướm mơ tiên và Nửa chừng xuân có lẽ vì nhiều tình tiết gây xúc động trong lòng tuổi trẻ vốn đa cảm. Khái Hưng viết rất nhiều. Hồi đó tôi đọc được một bài văn, hình như tác giả là Tú Gầy (chắc có quan hệ họ hàng hay bè bạn với Tú Mỡ), đã dùng tên các tác phẩm của Khái Hưng (kể cả các tiểu thuyết viết chung với Nhất Linh) để nói lời thương tiếc sau khi biết ông không còn nữa: “Ai cũng đinh ninh rằng Anh phải sống để nghe Tiếng suối reo, để nhìn Gánh hàng hoa hay Đời mưa gió. Nhưng không ngờ Khái Hưng đã Nửa chừng xuân một phen Trống mái bên Dọc đường gió bụi. Vợ con anh, Gia đình anh vẫn Hồn bướm mơ tiên để đợi chờ người Tiêu sơn tráng sĩ. Nhưng người tráng sĩ đó không bao giờ trở lại với Gia đình thân yêu nữa! …”
Thạch Lam là nhà văn sở trường với truyện ngắn. Thời trung học tôi cũng đã đọc Gió lạnh đầu mùa, Nắng trong vườn, Ngày mới và Hà Nội 36 phố phường. Ấn tượng và cảm thương nhất là những truyện mô tả cảnh nghèo đến cùng cực của những gia đình như Nhà mẹ Lê, hay cảnh đời không có lối thoát của các cô gái nông thôn trong Cô hàng xén. Các truyện ngắn Hai đưa trẻ và Dưới bóng hoàng lan vẽ lại cảnh sinh hoạt chung quanh chợ và ga Cẩm Giàng nơi tác giả và chị (Nguyễn Thị Thế) được mẹ giao trông cửa hàng lúc hai chị em còn rất nhỏ. Thạch Lam cũng có những truyện ngắn tả những mối tình thoáng qua bằng lối văn truyền cảm. Đã hơn nửa thế kỷ tôi vẫn còn thuộc câu cuối trong truyện Nắng trong vườn, câu nói lên ý nghĩ của nhân vật “tôi” khi hồi tưởng đến mối tình ngắn ngủi đối với Hậu, một thôn nữ đẹp dịu dàng, sau này gặp lại nhưng người yêu cũ đã có chồng: “cái tình yêu ấy biết đâu chẳng vẫn còn để lại trong lòng nàng một vẻ rực rỡ như ánh nắng trong vườn”.
Các tác phẩm của Tự lực văn đoàn đã ảnh hưởng sâu đậm đến tôi trong suốt thời niên thiếu. Bây giờ đến tận nơi các nhà văn đã sinh ra, lớn lên và nhất là nơi họ đã cùng đàm đạo văn chương, nghệ thuật và xã hội để làm nên những tác phẩm để đời, tôi không khỏi bồi hồi, xúc động. Lần này tôi cũng cảm thấy ấm lòng khi biết được người sau đã đồng cảm và đánh giá khách quan về Tự lực văn đoàn dù có nhiều hạn chế ban đầu. Giới văn chương, văn học, giáo dục đã có những hoạt động bày tỏ sự trân trọng đối với tổ chức nầy. Các văn nhân, nghệ sĩ, nhà phê bình văn học, nghiên cứu lịch sử khắp nơi đã đến Cẩm Giàng. Hôm tôi thăm Cẩm Giàng, tình cờ gặp một nhà thơ và một nhà văn đến từ Hải Phòng để thăm nơi phát tiết văn học của những văn nhân mà họ ngưỡng mộ. Đặc biệt chính quyền tỉnh Hải Dương đã có những quyết định sáng suốt như đặt tên đường Thạch Lam (1996), và những hoạt động hữu ích như tổ chức Hội thảo về Tự lực văn đoàn (2008), v.v.. Trong hồi ký Tháng Ngày Qua, bà Tường Nhung, trưởng nữ Thạch Lam, cũng nói về cảm kích của mình khi thăm lại Cẩm Giàng và được chính quyền địa phương trân trọng đón tiếp.
Ngay cả tại miền Bắc vào thập niên 1960 là lúc Tự lực văn đoàn bị phê phán nặng nề, vẫn có những câu chuyện đáng ghi lại về sự công tâm của những người làm văn nghệ chân chính. Trong cuốn sách đã dẫn của Khúc Hà Linh, một người đọc nhiều và ngưỡng mộ Tự lực văn đoàn, tác giả kể chuyện thời mình học trung học ở miền Bắc thập niên 1960 như sau: Anh được trường cử đi thi học sinh giỏi văn toàn tỉnh (Hải Dương). Đề thi năm ấy là bình bài thơ Cô gái sông Hương của Tố Hữu. Bài của anh là một trong hai bài xuất sắc nhất, đồng điểm 9/10. Cuối cùng trong Ban Giám khảo có ý kiến nên đọc lại để xem bài nào có kiến thức phong phú, ngoài chương trình sách giáo khoa mà nhà trường đã dạy, để chọn làm giải nhất. Và bài của Khúc Hà Linh được chọn vì ngoài phân tích với một lối văn khuôn phép (đánh giá cao nhà thơ cách mạng Tố Hữu đã thông cảm với thân phận của cô gái giang hồ và nhìn thấy trước tương lai tươi sáng sẽ đến với cô) lại có so sánh với hình ảnh cô Tuyết trong tiểu thuyết Đời mưa gió của Nhất Linh và Khái Hưng.
Tự lực văn đoàn chỉ hoạt động khoảng 10 năm nhưng đã để lại dấu ấn lớn trong văn học Việt Nam và góp phần thay đổi những quan niệm, tập quán lỗi thời của xã hội ta những năm đầu thế kỷ 20. Ngoài ra, qua nhiều nhân vật trong tiểu thuyết của mình, Tự lực văn đoàn cũng góp phần hun đúc tinh thần nhân bản, nhân văn trong giới trẻ qua nhiều thế hệ. Đối với tôi, các tác phẩm của Tự lực văn đoàn còn gắn liền với những kỷ niệm khó quên từ thời trung học. Năm vừa qua có thêm cảm xúc mới khi đi thăm dấu xưa của những văn nhân làm nên hiện tượng Tự lực văn đoàn./.
Tokyo, đầu xuân 2025
Trần Văn Thọ
(Bản
rút ngắn đã đăng trên số Xuân 2025 của báo Hải
Dương. Đây là bản đầy đủ. Tác giả
cảm ơn Giáo sư văn học Huỳnh Như Phương đã
đọc bản thảo và góp nhiều ý quan trọng.
Tác giả cũng xin cảm ơn anh Nguyễn Minh Khanh, tức Hậu Hiền, người dịch
Hồn bướm
mơ tiên và nhiều truyện ngắn của Tự lực văn đoàn sang tiếng
Pháp, qua điện thư từ Paris
đã khuyến khích tác
giả viết bài nầy.)
1 Về cách viết tên của tổ chức này, đa số các tư liệu chỉ viết hoa chữ đầu (Tự lực văn đoàn), có tư liệu viết hoa thêm chữ Văn và có nơi viết hoa hết cả 4 chữ. Theo tôi thì nên viết hoa hai chữ Tự và Văn. Tuy nhiên ở đây tôi theo đa số, chỉ viết hoa chữ Tự (trừ trường hợp theo cách viết trong nguồn tham khảo).
2 Qua câu chuyện của Nguyễn Tường Mạnh và tham khảo các sách liên quan, đặc biệt cuốn của Khúc Hà Linh, Anh em Nguyễn Tường Tam Nhất Linh ánh sáng và bóng tối, Nhà xuất bản Thanh Niên (2017) và cuốn hồi ký của em gái Nhất Linh là Nguyễn Thị Thế, Hồi ký gia đình Nguyễn Tường: Chuyện nhà của những văn nhân trụ cột Tự Lực Văn Đoàn (Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam, 2021) ta biết thêm lai lịch của tổ tiên Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam.
3 Tôi chưa đọc hồi ký của Tú Mỡ nhưng giáo sư văn học Huỳnh Như Phương cho tác giả biết như thế khi đọc bản thảo bài viết này. Cũng theo anh Phương, ngoài hồi ký của Tú Mỡ, anh chưa thấy tư liệu nào nói Trần Tiêu là thành viên của Tự lực văn đoàn.
Các thao tác trên Tài liệu