Về câu chuyện LÊ VĂN TÁM
Hồ sơ : LÊ VĂN TÁM, HIỆN THỰC VÀ HUYỀN THOẠI (1)
Về
câu chuyện
LÊ
VĂN TÁM
Phan Huy Lê
Từ hơn nửa thế kỉ nay, cái tên Lê Văn Tám đã trở thành biểu tượng cho tinh thần yêu nước, hi sinh của thiếu niên, tấm gương sáng cho nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập và thống nhất. Song từ khá lâu, trong giới "thạo tin", người ta đã truyền nhau "thông tin" theo đó, Lê Văn Tám chỉ là một hình tượng, không phải là một nhân vật có thật. Trong giới văn nghệ sĩ, người ta kể lại lời nhà văn Phan Vũ, tác giả vở kịch Lửa cháy lên rồi (mà Lê Văn Tám là nhân vật trung tâm, tẩm xăng lao vào kho xăng Nhà Bè một ngày mùa thu 1945). Khi tập kết ra Bắc (ở trại sáng tác Thanh Hoá), cán bộ của cơ quan phụ trách viết tiểu sử các anh hùng liệt sĩ đã đến hỏi ông về tiểu sử Lê Văn Tám. Từ đó, trong giới văn nghệ sĩ, người ta vẫn gọi đùa Phan Vũ là "cha đẻ của Lê Văn Tám". Sự thật phức tạp hơn : có thể Phan Vũ đã cung cấp cho cơ quan kia những chi tiết về tiểu sử nhân vật mà ông sáng tác, song nhân vật này đã "ra đời" ngay từ cuối năm 1945. Người tạo dựng ra nhân vật Lê Văn Tám, không ai khác là ông Trần Huy Liệu, lúc ấy là Bộ trưởng Bộ thông tin tuyên truyền [ Trần Huy Liệu (1901-1969) là nhà báo, nhà cách mạng, đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng rồi Đảng Cộng Sản Đông Dương, cuối đời làm viên trưởng Viện sử học ]. Thông tin này do nhà sử học Phan Huy Lê công bố từ đầu năm 2005 trong một cuộc gặp mặt với những nhà điện ảnh ở Hà Nội, và xác nhận trong cuộc trả lời phỏng vấn bằng điện thoại với báo Người Việt (California). Trong cuộc điện đàm này, giáo sư Phan Huy Lê nói : "Câu chuyện về Lê Văn Tám đã được giới sử học mang ra bàn luận trong nhiều năm qua, nhưng vẫn chưa có công bố nào cụ thể và chính thức trên các phương tiện truyền thông nhà nước. Tôi cũng đã được nghe về một cuộc bàn luận về nhân vật Lê Văn Tám trên đài BBC. Riêng về bản thân tôi, là một nhà sử học, tôi đã và đang viết bài để công bố sự thật về nhân vật này một cách chi tiết và thấu đáo nhất dưới góc nhìn của lịch sử và tôi dự định trong thời gian sớm nhất." (Người Việt, 20.3.2005). Bài viết ấy, ông vừa công bố trên tạp chí Xưa & Nay (số tháng 10.2009) mà chúng tôi xin đăng toàn văn dưới đây.
Đây là Bài 1 trong hồ sơ LÊ VĂN TÁM, HIỆN THỰC VÀ HUYỀN THOẠI. Trong những bài sau, Diễn Đàn sẽ công bố bài phản bác của ông Nguyễn Văn Thịnh và phân tích của chúng tôi về sự kiện và các luồng ý kiến.
Tượng đài Lê Văn Tám ở công viên cùng tên (TPHCM)
Bấy
giờ là vào đầu những năm 60
của thế kỷ trước, tôi có
nhiều dịp làm việc với Giáo sư Trần
Huy Liệu trong công trình khoa học do giáo sư chủ
trì và tôi được mời tham
gia. Lúc đó, GS Trần Huy Liệu là
Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã
hội, kiêm Viện trưởng Viện sử
học. Ngoài những buổi họp ban biên
soạn ở cơ quan, tôi có một số
buổi làm việc với giáo sư tại nhà
riêng.
Ngoài công việc biên
soạn công trình, giáo sư thường trao đổi
một cách thân tình những vấn
đề thời sự sử học trong và
ngoài nước, kể lại một số
chuyện trong đời hoạt động cách
mạng của mình. Trong những năm 1954 -
1956, khi tôi đang học ở trường Đại
học Sư phạm/văn khoa Hà Nội, Giáo sư
Trần Huy Liệu có đến giảng một
số bài về cách mạng Việt Nam.
Về câu chuyện Lê Văn Tám, tôi xin được tóm lược một cách đầy đủ lời kể và lời dặn của GS Trần Huy Liệu mà tôi đã lĩnh hội như sau : Nhân vụ kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10-1945 và được loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp, đài BBC của Anh ; nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng nên tôi (GS Trần Huy Liệu) đã "dựng" lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục mét.
GS
Trần Huy Liệu còn cho biết là sau khi
ta phát tin này thì đài BBC đưa
tin ngay, và hôm sau bình luận : Một
cậu bé tẩm xăng vào người
rồi tự đốt cháy thì sẽ gục
ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ
lảo đảo được mấy bước,
không thể chạy được mấy chục
mét đến kho xăng. GS đã tự
trách là vì thiếu cân nhắc về
khoa học nên có chỗ chưa hợp lý.
Đây là ý kiến của GS Trần
Huy Liệu mà sau này tôi có trao đổi
với vài bác sĩ để xác nhận
thêm.
Tôi nhấn mạnh là GS Trần
Huy Liệu không hề “hư cấu”
sự kiện kho xăng địch ở Thị
Nghè bị đốt cháy mà trên
cơ sở sự kiện có thật đó,
chỉ “dựng lên”, theo cách nói
của GS, chuyện thiếu niên Lê Văn
Tám tẩm xăng đốt cháy kho xăng
địch.
Giáo sư giải thích là thời Nam Bộ kháng
chiến, có bao nhiêu tấm gương hy
sinh vì Tổ quốc, nhưng “dựng”
chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là
nghĩ đến biểu tượng cậu bé
anh hùng làng Gióng (Phù Đổng
Thiên Vương), còn việc đặt
tên Lê Văn Tám là vì họ
Lê Văn rất phổ biến ở nước
ta và Tám là nghĩ đến Cách
mạng tháng Tám.
Lúc bấy giờ, GS Trần Huy Liệu
đang giữ chức Bộ trưởng Bộ
Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ
lâm thời, nên giáo sư nói rõ là
muốn tạo dựng nên một biểu tượng
anh hùng để tuyên truyền, cổ vũ
tinh thần chiến đấu của quân dân
ta.
Cũng
xin lưu ý là GS Trần Huy Liệu giữ
chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên
truyền trong Chính phủ lâm thời từ
ngày 28-8-1945 đến ngày 1-1-1946,
rồi Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền
cổ động trong Chính phủ liên hiệp
lâm thời từ ngày 1-1-1946 cho đến
khi thành lập Chính phủ liên hiệp
kháng chiến tại kỳ họp Quốc hội
ngày 2-3-1946, nghĩa là trong thời gian
xảy ra sự kiện Kho xăng Thị Nghè
bị đốt cháy, chứ không phải
trong thời gian “1946 - 1948?” sau sự kiện
trên.
Điều
căn dặn của GS Trần Huy Liệu là :
Sau này khi đất nước yên
ổn,
các anh là nhà sử học, nên nói
lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi
không còn nữa. Trong câu chuyện, giáo sư
còn tiên lượng là biết đâu
sau này có người đi tìm tung
tích nhân vật Lê Văn Tám hay có
người lại tự nhận là hậu
duệ của gia đình, họ hàng người
anh hùng. Đây chính là điều
lắng đọng sâu nhất trong tâm trí
mà tôi coi là trách nhiệm đối
với GS Trần Huy Liệu đã quá cố
và đối với lịch sử.
GS
Trần Huy Liệu là một con người
rất trung thực, không muốn để lại
một sự ngộ nhận trong lịch sử do
mình tạo nên trong một bối cảnh
và yêu cầu bức xúc của cuộc
kháng chiến và tôi lĩnh hội lời
dặn của GS như một trách nhiệm
phải thực hiện một cách nghiêm
túc.
Tôi kể lại câu chuyện
này một cách trung thực với tất
cả trách nhiệm và danh dự của
một công dân, một nhà sử học.
Ngày
nay, từ đầu thế kỷ XXI nhìn lại,
trong hoàn cảnh chiến tranh đã lùi
xa vào quá khứ hơn 30 năm, đất
nước đã giành lại độc
lập, thống nhất, tôi xin đặt ra
hai vấn đề sau đây để thế
hệ chúng ta cùng bàn luận.
-
Xác minh rõ sự kiện Kho xăng địch
bị đốt cháy trong tháng 10-1945.
-
Thái độ ứng xử đối với
biểu tượng Lê Văn Tám.
Vấn
đề thứ nhất là cần cố gắng
sưu tầm tư liệu đáng tin cậy
để xác định rõ hơn sự
kiện Kho xăng địch ở Thị Nghè
bị đốt cháy trong tháng 10-1945 :
Tôi nói tư liệu đáng tin cậy trong trường hợp này không phải là các sách báo viết về sau này, mà là tư liệu gốc khai thác từ nhân chứng lịch sử hay những thông tin trực tiếp từ sự kiện thời bấy giờ và dĩ nhiên đều phải đối chiếu, xác minh một cách khoa học.
Nhân chứng lịch sử :
Tôi
đã có dịp hỏi GS Trần Văn
Giàu - lúc đó giữ chức Chủ
tịch Ủy ban kháng chiến Nam bộ, thì
GS khẳng định có sự kiện Kho
xăng
địch ở Thị Nghè bị đốt
cháy và trong tình hình lúc đó
là do ta đốt, nhưng không biết ai
tổ chức và người nào thực
hiện.
Nhà
cách mạng lão thành Dương Quang
Đông trong hồi ký viết rằng,
người đốt Kho đạn Thị
Nghè
ngày 1-1-1946 không phải là Lê Văn
Tám mà là tổ đánh mìn
của công nhân nhà máy đèn
Chợ Quán (tạp chí Xưa
& Nay số
154).
Tư liệu báo chí :
Tư
liệu báo chí lúc bấy giờ thì
tại Thư viện quốc gia Hà Nội lưu
giữ được rất ít, các số
báo lại không đủ. Bước đầu
tôi mới tìm thấy thông tin liên
quan với Kho xăng Thị Nghè bị đốt
cháy trong báo Quyết
chiến là “cơ
quan ủng hộ chính quyền nhân dân”,
tòa soạn đặt ở phố Nguyễn
Tri Phương, Thuận Hóa ; báo Cờ
giải phóng là “cơ quan tuyên
truyền cổ động trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương” và
báo Thời
mới do Nguyễn Văn Luận
làm Chủ nhiệm; nhưng các số
không liên tục, không đủ.
Báo
Quyết
chiến số ngày thứ sáu, ?-10-1945 đưa tin dưới tít lớn Một
chiến sĩ ta tẩm dầu vào mình đốt
cháy kho dầu Simon Piétri với nội
dung như sau :
“ Một
gương hi sinh vô
cùng dũng cảm. Một chiến sĩ ta tẩm
dầu vào mình tự làm mồi lửa
đã đốt được kho dầu
Simon Piétri, lửa cháy luôn hai đêm
hai ngày.
Đài
Sài Gòn trong buổi truyền thanh tối
17 - 10 công nhận rằng kho dầu này đã
hoàn toàn bị thiêu ra tro, sự thiệt
hại đến mấy chục triệu đồng ”.
Ngày phát hành số báo, in ngày “thứ sáu”, số ngày không rõ và có người viết thêm bút mực con số 7, tiếp theo là tháng “10- 45”. Theo lịch năm 1945, trong tháng 10 có 3 ngày thứ sáu là ngày 12, 19 và 26. Trong bản tin có nhắc đến buổi phát thanh của Đài Sài Gòn ngày 17, vậy ngày thứ sáu của tờ báo phải sau ngày đó và có thể xác định là ngày 19 -10-1945.
Báo Thời mới số 6 ngày 28-10-1945, nhân lễ khai mạc Ngày Cứu quốc do Tổng hội sinh viên cứu quốc tổ chức, đăng bài Những chuyện cảm động của dân ta trong cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, có đoạn kể lại câu chuyện đốt kho xăng ở Sài Gòn theo lời kể của một người từ Nam Bộ ra Hà Nội ngày 21-10-1945 như sau :
“ Một người bạn tôi ở Nam Bộ vừa ra đây hôm hai mươi mốt kể cho tôi nghe nhiều điều tai nghe mắt thấy ở Nam Bộ để chứng cho cái tinh thần kháng chiến anh dũng đó. Thứ nhất là chuyện anh dân quân tẩm dầu vào người, đốt cháy kho ét-săng và cao su sống ở Sài Gòn.
Có người nói rằng nhà chiến sĩ tuẫn quốc này tự nguyện xin mặc áo bông giầy tẩm xăng rồi lấy lửa tự châm mình như một cây đinh liệu, xông vào kho cao su sống kia. Không phải thế. Làm thế thì cố nhiên giặc Pháp ngăn lại ngay từ khi chưa tới cửa kho.
Thực ra thì nhà chiến sĩ của chúng ta phải dùng mưu nhiều lắm. Trước khi vào, anh em mọi Pleiku của chúng ta đã phải lừa lúc giặc Pháp canh phòng không cẩn thận, trèo lên những cái cây to ở xung quanh kho cao su, bắn tên độc vào những người gác ở bốn bề. Nhà chiến sĩ, nhằm chính lúc cơ hội thuận tiện đã đến, tẩm dầu vào người, đeo súng liên thanh, bò qua tường vào trong kho cao su tìm bắn những người Pháp. Chúng bâu lại như đàn ruồi.
Chiến sĩ Việt Nam biết không thể làm hơn được nữa, bắn lia lịa vào những thùng ét-săng ở hai bên, ét-săng tràn ra cả nhà. Chiến sĩ ta châm một mồi riêm vào người, nhảy lên đám thùng rỗng, chửi rủa giặc Pháp tàn tệ.
Trong lúc đó, cả mình mẩy anh bừng bừng lên. Anh vẫn chửi rủa giặc Pháp cho đến khi gục nằm xuống như một đấng thiên thần hiện ra rồi mờ đi trong giấc mơ dữ dội. Những người đứng xa ngoài ba mươi cây số còn trông thấy ngọn lửa đám cháy này và trong hai ba ngày đêm liền, giặc Pháp và phái bộ Anh không thể nào rập tắt”.
Báo
Cờ
giải phóng số ra ngày 25-10-1945,
đưa lên trang đầu hình ảnh
một người đang bốc cháy xông
về phía trước kèm theo lời “ Tinh
thần anh dũng của đồng bào Nam Bộ
muôn năm ”.
Báo Cờ
giải
phóng ngày 5-11-1945, trong mục Mặc niệm
: "trích đăng một vài
tấm
gương xung phong anh dũng đã được
nêu lên trên mặt báo chí miền
Nam”, có đoạn đưa tin :
“Trước
kho đạn Thị Nghè có rất đông
lính Anh, Ấn, Pháp gác nghiêm ngặt,
khó bề đến gần phóng hỏa.
Một em thiếu sinh 16
tuổi, nhất định
không nói tên họ, làng, tình
nguyện ra lấy thân mình làm mồi
dẫn hỏa. Em quấn vải quanh mình, tẩm
dầu xăng, sau lưng đeo một cái mồi,
đứng im đốt mồi lửa, miệng
tung hô “Việt Nam vạn tuế”, chân
chạy đâm sầm vào kho đạn.
Lính Anh đứng trong bắn ra như mưa.
Một lần trúng đạn, em ngã nhào
xuống, nhưng rồi ngồi dậy chạy
luồn vào.
Lính Anh khiếp đảm
bỏ chạy ra ngoài. Một tiếng nổ.
Em thiếu sinh tiêu tán cùng với kho
đạn Thị Nghè của giặc”.
Dưới bản tin có ghi chú “Kèn gọi lính, ngày 8-10-1945”. Như vậy báo đưa tin theo tin của báo Kèn gọi lính ngày 8-10-1945 và theo đó, kho đạn bị đốt cháy phải trước ngày 8-10- 1945, ít ra là ngày 7-10-1945.
Trên đây là một số thông tin lấy từ báo chí ở thời điểm gần nhất với sự kiện liên quan đến chuyện Lê Văn Tám. Tôi hi vọng là những người quan tâm đến chuyện này có thể tìm kiếm và thu thập thêm thông tin báo chí mà tôi chưa được tiếp cận.
Còn sự kiện quân ta phá nổ kho đạn của địch ở Sài Gòn ngày 8-4-1946 mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói đến trong hồi ký Những năm tháng không thể nào quên thuộc giai đoạn sau, không liên quan đến chuyện Lê Văn Tám.
Trong những báo trên, thông tin sớm nhất là Kèn gọi lính do báo Cờ giải phóng trích đăng ngày 5-11-1945. Rất tiếc là tôi không tìm thấy báo Kèn gọi lính mà căn cứ theo đoạn trích của Cờ giải phóng. Theo thông tin này thì “một em thiếu nhi 16 tuổi” đốt kho đạn Thị Nghè trước ngày 8-10-1945, chứ không phải kho xăng Thị Nghè.
Báo
Quyết
Chiến ngày 19?-10-1945 lại đưa
tin “ kho dầu Simon
Piétri ” bị “ một
chiến sĩ ta ” đốt cháy vào
trước ngày 17 - 10 - 1945. Kho đạn ở
Sở thú và kho xăng ở Thị Nghè
là hai địa điểm gần nhau. Như
vậy theo những thông tin gần thời điểm
xảy ra sự kiện thì vẫn còn phải
tìm thêm cứ liệu để xác
định là kho đạn hay kho xăng và
thời điểm là ngày nào, chắc
hẳn trước ngày 17-10-1945.
Rồi
người thực hiện là “em
thiếu
nhi 16 tuổi” (Kèn gọi lính)
hay “một
chiến sĩ ta” (Quyết chiến)
hay “anh
dân quân tẩm dầu vào người”
(Thời
mới). Việc tẩm xăng vào
người, lúc đó cũng đã
gây ra sự bàn luận.
Thời
mới đã bác bỏ chuyện người
chiến sĩ tẩm dầu vào người
xông vào kho xăng vì “ không
phải
thế, làm thế thì cố nhiên giặc
Pháp ngăn lại ngay từ khi chưa tới
cửa kho ” và cho rằng người chiến
sĩ phải “ dùng mưu
nhiều lắm ”
để lẻn vào gần kho xăng rồi
mới “ tẩm dầu vào người
”,
dùng súng bắn thủng các thùng
xăng và châm diêm vào người,
nhảy vào đám thùng xăng. Không
biết tác giả dựa trên căn cứ
nào nhưng về khách quan, cách trình
bày này hợp lý hơn.
Với
những thông tin đã tập hợp, tuy
chưa đủ và còn một số khía
cạnh chưa xác minh được (kho xăng
hay kho đạn, thời điểm, người
đốt) nhưng sự kiện kho xăng (hay
đạn) của địch ở Thị Nghè
(hay gần Thị Nghè) bị ta đốt cháy
là có thật.
Ngay
lúc đó, trên báo chí đã
xuất hiện những thông tin khác nhau về
người đốt và cách đốt
kho xăng, tuy nhiên có điểm chung là
gắn với hình ảnh một chiến sĩ
tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch
và không có tên Lê Văn Tám
hay tính danh của người chiến sĩ
đã hi sinh.
Điểm lại những
tư liệu đã thu thập được
thì càng thấy rõ, trên cơ sở
sự kiện có thật và cả dư
luận về hình ảnh người chiến
sĩ tẩm xăng thời đó, GS Trần
Huy Liệu tạo dựng nên biểu tượng
“ ngọn đuốc sống ” gắn với
tên tuổi thiếu niên Lê Văn Tám.
Vấn
đề thứ hai là cách ứng xử
đối với
biểu tượng “ ngọn
đuốc sống Lê Văn Tám ” :
Trong bàn luận, cũng có người nghĩ rằng, “ ngọn đuốc sống Lê Văn Tám ” đã đi vào lòng dân rồi, các nhà sử học không cần xác minh nhân vật đó có thật hay không, làm ảnh hưởng tới một “ biểu tượng ”, một “ tượng đài ” yêu nước. Tôi quan niệm hoàn toàn khác.
Đối với sử học, tôn trọng sự thật, tìm ra sự thật, xác minh sự thật là một nguyên tắc cao cả thuộc về phẩm chất và chức năng của nhà sử học. Dĩ nhiên, với trách nhiệm công dân, có những sự thật trong một bối cảnh cụ thể nào đó liên quan đến bí mật quốc gia hay ảnh hưởng đến lợi ích sống còn của dân tộc, nhà sử học chưa được công bố.
Về nguyên lý, mọi kết quả nghiên cứu sử học càng khách quan và trung thực, càng có tác dụng tích cực xây dựng nhận thức lịch sử đúng đắn và không có gì mâu thuẫn với các biểu tượng lịch sử, các tượng đài yêu nước có giá trị được nhân dân tôn vinh.
Ngay đối với những biểu tượng mang tính huyền thoại, truyền thuyết như Lạc Long Quân - Âu Cơ, Con Rồng - Cháu Tiên, Phù Đổng Thiên Vương, nỏ thần An Dương Vương, vua Lê trả Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm..., kết quả nghiên cứu khoa học chỉ góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học, cốt lõi lịch sử của biểu tượng.
Ví dụ những phát hiện khảo cổ học về đồ sắt trong văn hoá Đông Sơn, kho mũi tên đồng ở Cổ Loa và gần đây, hệ thống lò đúc mũi tên đồng ngay trong thành Nội của thành Cổ Loa, giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn cốt lõi lịch sử của hình ảnh ngựa sắt của Thánh Gióng, vai trò của nỏ thần của An Dương Vương. Chuyện vua Lê trả Gươm thần ở hồ Hoàn Kiếm vẫn nguyên giá trị thiêng liêng, không hề bị ảnh hưởng bởi việc nghiên cứu giống rùa và tuổi thọ của rùa Hồ Gươm...
Biểu tượng “ ngọn đuốc sống Lê Văn Tám ” thực sự đã được quảng bá rộng rãi, đi sâu vào tâm thức của nhân dân, tiêu biểu cho tinh thần hi sinh anh dũng, ý chí xả thân vì nước của quân dân ta trong buổi đầu của Nam kỳ kháng chiến. Một số đường phố, trường học, công viên hiện nay đã mang tên Lê Văn Tám. Lời dặn của GS Trần Huy Liệu là đến lúc đất nước yên ổn, cần phải nói lên sự thật về câu chuyện Lê Văn Tám.
Đó không phải là tên của nhân vật lịch sử có thật, nhưng phản ánh một sự kiện lịch sử có thật, một tinh thần hi sinh vì Tổ quốc có thật. Đó là một biểu tượng đã đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng. Trả lại nguồn gốc thật của biểu tượng này là để tạo lập một nền tảng nhận thức khoa học, khách quan về quá trình hình thành biểu tượng Lê Văn Tám.
Tôi
nghĩ rằng tất cả các đường
phố, trường học, công viên... mang
tên Lê Văn Tám vẫn để
nguyên, vẫn được tôn trọng
như một biểu tượng với nội
dung giải thích đúng sự thật và
ngăn chặn mọi ý đồ dựng lên
lý lịch Lê Văn Tám như một
nhân vật có thật rồi có người
lại nhận là hậu duệ của nhân
vật này.
Đến
đây, tôi đã làm tròn trách
nhiệm đối với lời dặn của cố
GS Trần Huy Liệu, kèm thêm một số
đề xuất để xử lý câu
chuyện Lê Văn Tám. Tôi hoàn toàn
không coi đấy là việc làm trái
với phẩm chất trung thực hay lương
tâm của nhà sử học, cũng không
ảnh hưởng đến uy tín của GS
Trần Huy Liệu và càng không làm
đổ một biểu tượng hay tượng
đài yêu nước. Tôi nhấn mạnh,
theo quan điểm của tôi, mọi biểu
tượng hay tượng đài lịch sử
chỉ có sức sống bền bỉ trong
lịch sử và trong lòng dân khi được
xây dựng trên cơ sở khoa học khách
quan, chân thực.
Phan Huy Lê
nguồn : Tạp chí Xưa &Nay (tháng 10 năm 2009)
Các thao tác trên Tài liệu