Về lịch sử vương quốc CHIÊM THÀNH
LẦN THEO DẤU VẾT
MỘT THỜI
NGANG DỌC
CỦA CHẾ BỒNG NGA
Hồ Bạch Thảo
Một người bạn tại Hà
Nội, anh N. B. D., biết tôi hiện đang
dịch Minh
Thực Lục nên có nhã ý
gửi cho website bản dịch bằng Anh ngữ
về Minh
Thực Lục liên quan đến
vùng Đông Nam Á (Southeast
Asia in the Ming
Shi-lu), do Singapore thực hiện. Xem xong, tôi trả
lời anh D. rằng :
- Tài liệu rất có ích trong việc tham khảo để dịch các văn bản liên quan Việt Nam ; riêng về các nước khác như Chân Lạp, Chiêm Thành, Java, Tiêm La vv… thì hiện nay tôi chưa có ý định làm.
Anh D. có ý kiến :
Nghiên cứu bộ sử Trung Quốc Minh Thực Lục, và đối chiếu với các bộ sử Việt Nam, tác giả Hồ Bạch Thảo đã mang lại cho chúng ta nhiều thông tin về nước Chiêm Thành và về quan hệ giữa hai nước Đại Nam và Chiêm Thành, hai yếu tố cấu thành của quốc gia Việt Nam ngày nay. Nghiên cứu này gồm hai bài. Bài đầu đã công bố trên mạng Talawas. Để bạn đọc có thể theo dõi một cách mạch lạc, chúng tôi đăng toàn văn cả hai bài trong cùng một tài liệu.
- Chiêm Thành hiện nằm trong lãnh thổ nước ta, vậy sử Chiêm Thành là sử Việt Nam ; anh không nên bỏ qua.
Nhận thấy đây là nói
phải của một người bạn trẻ,
tuy xa cách quan san nhưng gần gũi trong gang
tấc, bởi cùng chung một tấm lòng
yêu sử Việt ; nên tôi bắt tay vào
việc sưu tầm bản gốc để dịch
tiếp. Nhân tiện rút ra một vài
sử liệu liên quan đến đấng
anh hùng của Chiêm Thành để giới
thiệu, qua nhan đề LẦN THEO DẤU VẾT
MỘT THỜI NGANG DỌC CỦA CHẾ BỒNG
NGA.
*
Không rõ năm sinh của Chế
Bồng Nga, nhưng vào năm Hồng Vũ thứ
2 (1369) khi vua Thái Tổ nhà Minh sai sứ
báo tin cho các nước về việc nhà
Minh giành ngôi từ nhà Nguyên, thì
Chế Bồng Nga đã làm vua (tên
xưng với Trung Quốc là Ha
Đáp Ha
Giả) và sai sứ sang triều cống Trung
Quốc. Chế Bồng Nga bị quân nhà
Trần bắn chết tại sông Hoàng
Giang vào năm Hồng Vũ thứ 23 (1390) như
vậy thời gian trị vì của họ Chế
cũng xấp xỉ với vua Minh Thái Tổ.
Riêng các vua nhà Trần nước ta
thì một phần yểu mệnh, một phần
gặp biến cố nên trong thời gian này
tính có đến 6 đời vua : Dụ
Tông, Dương Nhật Lễ, Nghệ Tông,
Duệ Tông, Phế Đế, Thuận Tông.
Nay thuận theo dòng lịch sử,
sự việc được đề cập kể
từ khi vua nhà Minh gửi chiếu thư đầu
tiên liên lạc ngoại giao với Chiêm
Thành và một số nước như
Nhật Bản, Ja Va, Tây Dương vào
tháng giêng năm Hồng Vũ thứ 2 :
NGÀY 20 THÁNG 1 NĂM HỒNG VŨ
THỨ 2 [26/2/1369]
“ Sai
Sứ-giả mang tờ chiếu
lên ngôi dụ các nước Nhật
Bản, Chiêm Thành, Trảo Oa [Java ], và
Tây Dương ( 1 ) ”. ( Minh Thực Lục
v. 2 , t. 0775; Thái Tổ q. 38, t. 11a ).
Riêng đối với nước
Chiêm Thành thì lúc Sứ-giả
chuẩn bị ra đi, Chế Bồng Nga đã
nhanh tay cho người đến trước ; triều
cống cọp, voi và sản vật :
NGÀY 4 THÁNG 2 NĂM HỒNG VŨ
THỨ 2 [12/3/1369]
“ Quốc
vương Chiêm Thành
Ha Đáp Ha Giả [Chế Bồng Nga] sai quan
là Hổ Đô Man cống cọp, voi, và
sản vật địa phương.” ( Minh
Thực Lục v.2 q. 39 t. 0785; Thái Tổ q. 39,
t. 2a ).
Sứ giả Trung Quốc đưa
đi, đều mang thư có dấu ấn tỷ
của Minh Thái Tổ gửi cho các nước.
Nội dung tỷ thư nhà Minh tỏ ra ân
cần với Chiêm Thành, Ja Va ; riêng đối
với Nhật Bản thì có thái độ
rất nghiêm khắc với lời đe doạ
nặng nề, do bởi lúc bấy giờ đám
cướp biển người Nhật thường
ra vào cướp phá tại bờ biển
Trung Hoa :
NGÀY 6 THÁNG 2 NĂM HỒNG VŨ
THỨ 2 [14/3/1369]
“ Sai
bọn Ngô Dụng, Nhan
Tông Lỗ và Dương Tải đi sứ
các nước Chiêm Thành, Trảo Oa [Java], Nhật bản.
Ban cho Quốc vương Chiêm
Thành
Ha Đáp Ha Giả [Chế Bồng Nga] tỷ
thư ( 2 ) như sau :
“ Ngày mồng 4 tháng 2
năm
nay, Hổ Đô Man đến dâng cọp,
voi ; lòng thành của Vương, Trẫm
đã hiểu rõ. Tuy nhiên lúc Hổ
Đô Man chưa tới, Sứ giả của
Trẫm cũng sẵn sàng trên đường
đi đến nước Quốc vương. Sứ
giả của Trẫm đến để báo
cho Quốc vương biết rằng trước
đây nước Trung Quốc bị rợ Hồ
[Mông Cổ] trộm chiếm
hàng trăm
năm, khiến tập tục man di đầy rẫy,
phế bỏ Trung quốc phong hóa. Trẫm khởi
binh trong vòng 20 năm, dẹp sạch bọn
chúng, làm chủ Trung Quốc, thiên hạ
bình an. Sợ các Di (3) trong bốn phương
chưa biết, nên sai Sứ giả báo tin
cho các nước. Không ngờ Sứ giả
nước của Vương tới trước,
lòng thành thể hiện vững vàng,
khiến Trẫm rất vui. Nay ban một bản
lịch Đại Thống, 40 bộ y phục lụa
là, lụa ỷ (4) dệt
kim tuyến ; sai
người đưa Sứ giả về nước. Lại dụ vương về đạo [thờ
nước lớn], Vương nên
phụng
thừa coi như đạo trời, khiến dân
Chiêm Thành yên với nghề nghiệp,
Vương giữ được lộc vị
truyền đến con cháu ; trời đất
soi xét sự cố gắng, Vương chớ
xem thường. Hổ Lao Man và đám tùy
tùng cũng được ban lụa là,
lụa ỷ hoa văn, có phân biệt.
“ Ban tỷ thư cho
Quốc-vương
nước Trảo Oa [Java] như
sau :
“ Rợ Hồ trộm chiếm
nước Trung Hoa chính thống hơn một
trăm năm, cương thường đọa
lạc, mũ nón điên đảo. Trẫm
khởi binh dẹp chúng suốt 20 năm, đất
nước bình định, bèn phụng
mệnh trời làm chủ Trung Quốc. Sợ
nơi xa xôi chưa biết tin này, nên
sai Đặc sứ báo cho Vương biết.
Khi Sứ giả sẵn sàng ra đi ; lại
được tin người của Vương
là Niết Chỉ Mổ Đinh đến cống
nhà Nguyên, lúc về đến Phúc
Kiến thì được tin nhà Nguyên
mất, bèn trở lại kinh sư. Trẫm
nghĩ y xa Trảo Oa đã lâu ngày,
tất nặng lòng tưởng nhớ, nên
sai người đưa trở về. Lại cho
một bản lịch Đại Thống để
Vương nhớ ngày Chính Sóc (5)
ban tại đây, tất phải
chuyên tâm
phụng thờ như đạo trời, để
giúp dân Trảo Oa yên ổn trong cuộc
sống, Vương được giữ lộc
đời đời, truyền đến con cháu.
Hãy gắng chăm lo, chớ coi thường.”
“ Ban cho Quốc vương
Nhật
Bản tỷ thư như sau :
“ Thượng đế hiếu
sinh, ghét kẻ bất nhân. Nhà Triệu
Tống xưa (6) chế
ngự sai lầm, để
rợ Hồ phương Bắc tràn vào,
truyền bá thói tục hôi tanh, đến
nỗi phong hóa trung thổ suy sụp, lòng
dạ muôn người ai mà không hưng
phẩn ? Từ năm Tân Mão [1351] đến
nay, Trung Quốc loạn lạc, bọn giặc Nụy
(7) các ngươi đến cướp
tại
Sơn Đông, bất quá thừa dịp
khi bọn Hồ [nhà Nguyên] suy đốn.
Trẫm vốn thuộc gia đình Trung Quốc
xưa, hổ thẹn vì vua trước chịu
nhục, hưng binh quét sạch rợ Hồ ;
ngày đêm quên ăn, lo tính đã
hai mươi năm nay. Từ năm ngoái đến
nay, bọn giặc phương bắc diệt hết,
lên làm chủ Trung Quốc. Sự việc
chưa báo rõ cho các Di bốn phương,
thỉnh thoảng Sơn Đông lại tâu
về rằng bọn Nụy mấy lần cướp
phá vùng duyên hải, kẻ chết lìa
vợ lìa con, làm tổn thương vật
chất và mạng sống. Nay soạn đặc
thư báo quyền chính thống và dụ
về việc quân Nụy vượt
biển
quấy phá. Khi chiếu thư đến nơi,
như muốn làm bề tôi thì hãy
dâng biểu đến triều đình ;
nếu không chịu thì hãy luyện
binh để tự giữ, lo đời đời
cho lãnh thổ được bình an để
đối phó với uy trời. Nếu còn
cướp phá, Trẫm sẽ mệnh các
đạo thủy quân dương buồm truy
bắt sạch tại các đảo, rồi
tiến thẳng vào trói Vương nước
này, há chẳng phải là thay trời
phạt bất nhân đó ư ! Vương
hãy lo tính lấy ! ” (Minh Thực Lục
v. 2 q. 39 t.0785-0787; Thái Tổ q. 39,t. 2a-3a).
Lúc này chiến tranh xẩy ra
giữa Việt Nam và Chiêm Thành. Chế
Bồng Nga bèn sai sứ sang tố cáo với
Trung Quốc, do đó vua nhà Minh sai sứ
giả mang thư đến Việt Nam và Chiêm
Thành để dàn hòa :
NGÀY MỒNG 1 THÁNG 12 NĂM
HỒNG VŨ THỨ 2 [30/12/1369]
“ Sai Hàn Lâm Viện Biên tu La Phục Nhân, Chủ sự bộ binh Trương Phúc mang chiếu thư dụ An Nam và Chiêm Thành rằng :
“ Trẫm vốn xuất thân từ bình dân, nhân thiên hạ loạn bèn khởi binh để bảo vệ làng xóm, không ngờ hào kiệt theo rất đông. Trẫm cầm binh vài năm, đất đai mở rộng, quân lính cường thịnh, được thần dân tôn lên làm vua trị thiên hạ, nối dòng chính thống, đến nay đã được 3 năm. Các nước ngoài đến triều cống thì An Nam là nước đầu tiên, thứ đến Cao Ly, rồi Chiêm Thành ; tất cả đều dâng biểu xưng thần, hợp với chế độ xưa, khiến Trẫm rất vui lòng.
“ Mới
đây Chiêm Thành
sai Bình chương Bồ Đán Ma Đô
đến cống, tâu rằng An Nam mang binh đến
xâm nhiễu, Trẫm xem tờ trình tâm
không được yên. Nghĩ rằng hai
nước các ngươi từ xưa đến
nay, cương vực đã định sẵn,
đó là ý trời không thể
cậy mạnh mà làm càn. Huống đất
đai các ngươi, cách Trung Quốc hết
núi đến biển, lời nói về
sự xâm nhiễu nhất thời khó mà
biết được để trình bày
rõ ràng cho Trẫm hay. Các ngươi
được truyền đời nối đời
đã lâu, việc giữ đất an dân,
trên phụng theo đạo trời, tôn kính
Trung Quốc ; những việc này Vương
trước của các ngươi chắc đã
để lại lời dạy bảo, không
đợi Trẫm dụ mới biết. Trẫm
làm chủ thiên hạ, việc đáng
làm là trị loạn dẹp nguy ; nay sai sứ
đi quan sát sự việc, hiểu dụ các
ngươi phải sợ trời, thủ phận.
Nếu như cả hai dùng binh, năm này
qua năm khác không ngừng, làm độc
hại sinh linh, thượng đế hiếu sinh
sẽ không bằng lòng ; e rằng trên
thì trời ghét, dưới thì lòng
dân oán hận, mối họa sẽ không
tránh được. Vương hai nước
hãy nghe lời Trẫm, tuân theo đạo
lý, yên phận mình, để con cháu
các ngươi được hưởng phúc
lâu bền, há lại không tốt đẹp
hơn ư ! Khi chiếu thư tới, hai nước
hãy tuân mệnh bãi binh.” (Minh Thực
Lục v. 3, q. 47, t. 0934-0935)
Tuy vua Minh đã cho Sứ giả đến hòa giải, nhưng sự việc không dừng tại đó. Vào tháng 3 năm Hồng Vũ thứ 4 (1371) Chiêm Thành đến cướp phá thành Thăng Long, vua Nghệ Tông phải đi thuyền sang lánh nạn tại Đông Ngàn, Bắc Ninh. Bấy giờ thái bình đã lâu, thành quách biên cương không phòng bị, giặc đến không có quân nào ngăn được. Chúng đốt trụi cung điện ; nhà cửa thư tịch, sổ sách do vậy sạch không. (8)
Vừa ăn cướp vừa la làng,
3 tháng sau biến cố này, vua Chiêm
Thành Chế Bồng Nga lại sai sứ sang
Trung Quốc dâng biểu, văn bản được
trân trọng viết trên vàng lá,
tố cáo An Nam xâm lấn ; xin được
viện trợ cho vũ khí, nhạc khí
cùng dạy cho âm nhạc để An Nam
không còn coi thường :
NGÀY 25 THÁNG 7 NĂM HỒNG VŨ
THỨ 4 [ 5/9/1371 ]
“ Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả [Chế Bồng Nga] sai bầy tôi Đáp Ban Qua Bốc Nông đến triều đình dâng biểu về việc An Nam xâm lấn đất. Biểu viết trên vàng lá, dài hơn 1 xích (9), bề ngang 5 thốn (10), bằng chữ nước này, dịch giả dịch văn bản, ý như sau : “ Hoàng đế Đại Minh lên ngôi cao quý, chức vị coi sóc bốn biển, như trời đất che chở ; mặt trời, mặt trăng soi sáng. Ha Đáp Ha Giả chỉ đáng là một cây cỏ mà thôi, được ơn Hoàng đế ban cho ấn vàng, phong làm Quốc vương ; lòng trung thành hân hoan đội ơn vạn bội. Duy việc An Nam dùng binh xâm nhiễu bờ cõi, giết bắt quan lại nhân dân ; nguyện được Bệ hạ nghĩ đến ban cho binh khí, nhạc khí, chuyên viên về âm nhạc ; khiến An Nam biết Chiêm Thành được trang bị thanh giáo, là nước triều cống Trung Quốc, thì An Nam không dám khinh thường.”
Thiên tử cảm động bởi lòng mong muốn, nên khi Đáp Ban Qua Bốc Nông từ giã bệ rồng bèn ra lệnh cho Trung Thư Tỉnh chuyển văn thư cho viên Quốc vương như sau :
“ Lân
quốc giao thiệp, đạo
lý là phương sách hay để
giữ đất, thờ nước lớn tận
lòng thành để làm trọn lễ
của bề tôi. Vả lại Chiêm Thành
và An Nam đã là bề tôi thờ
triều đình, cùng phụng thừa lịch
Chính Sóc, lại gây việc binh khiến
độc hại sinh linh, đã trái lễ
phụng sự bề trên, lại sai đường
giao hảo giữa lân bang. Đã báo
cho Quốc vương An Nam bãi binh ngay, bản
quốc cũng nên để hai bên tôn
trọng giữ gìn cương thổ. Việc
xin Thiên tử binh khí thì nào có
tiếc gì, nhưng Chiêm Thành và
An Nam đang tranh chấp, mà triều đình
lại cho riêng Chiêm Thành, là giúp
ngươi đánh nhau, rất trái với
đạo chiêu an. Việc xin nhạc khí
và chuyên viên âm nhạc, thì về
thanh luật Trung Quốc và nước ngoài
không khác, nhưng về ngữ âm thì
có sự sai biệt giửa Hoa và Di, như
vậy khó có thể điều khiển.
Nếu nước ngươi có kẻ tập
nói được tiếng Hoa, có thể
dạy cho âm luật ; hãy tuyển chọn
một số người đến kinh đô
học tập. Lại dụ Hành tỉnh Phúc
Kiến nếu thuyền bè Chiêm Thành
ghé bờ thì cho miễn thuế, để
tỏ ý mềm dẻo quyến luyến.”
(Minh
Thực Lục v. 3, q. 67, trang 1260-1261)
Quân đội Chiêm Thành kể từ thời Chế Bồng Nga, được cải cách rèn luyện nên khá hùng hậu. TOÀN THƯ nhận xét như sau :
“ Chiêm Thành từ thời Lê, Lý tới đây, quân lính hèn nhát, hễ quân ta đến là đem cả nhà chạy trốn hoặc họp nhau khóc lóc xin hàng. Đến đời Bồng Nga, La Ngai mới tập hợp dân họ lại bảo ban dạy dỗ, thay đổi dần thói cũ, trở nên can đảm, hăng hái, chịu được gian khổ, nên thường hay sang cướp, trở thành tai họa của nước ta.” (11)
Không chỉ cướp phá
Việt Nam mà thôi, hải quân của
Chiêm Thành còn vươn ra hoạt động
tận biển Đông, bắt dùm bọn
cướp biển cho Trung Quốc :
NGÀY 12 THÁNG 11 NĂM HỒNG
VŨ THỨ 6 [26/11/1373]
“ Quốc
vương Chiêm Thành
Ha Đáp Ha Giả [Chế Bồng Nga] sai bọn
bầy tôi Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích
Duyệt Văn Đán dâng biểu, cống
phương vật. Lại tâu rằng bọn
giặc bể Trương Nhữ Hậu, Lâm
Phúc tự xưng là Nguyên soái
cướp phá trên biển, bị Quốc
vương đánh bại. Bọn Nhữ Hậu
bị chết trôi. Bắt được 20
chiếc thuyền biển, 7 vạn cân tô
mộc, cùng tên giặc Ngô Đệ
Tứ đem đến hiến. Thiên tử vui
lòng, mệnh ban cho Vương nước này
40 tấm lụa là, văn ỷ ; cho Sứ giả
2 tấm lụa là, 4 tấm văn ỷ, 1 bộ
y phục, 1 vạn 2000 đồng tiền ; những
người đi theo được ban thưởng
có phân biệt.” (Minh Thực Lục
v. 4, q.
84, t. 1505)
Vết thương nhức nhối cho
các triều đại nhà Minh là nạn
cướp biển hoành hành, cầm đầu
bởi người Nhật mà sử Trung Quốc
gọi là “ giặc Nụy ”. Liên
hệ đến văn học nước ta, ngay
cuộc đời thực của anh hùng Từ
Hải trong truyện Kiều cũng đã từng
tham gia “ giặc Nụy”. Giặc Nụy
hoành hành tại biển Đông và
vùng duyên hải từ cuối đời
Nguyên cho đến triều Minh, bởi vậy
việc nước Chiêm Thành trực tiếp
tham gia vào việc đánh cướp biển,
phải được vua Minh Thái Tổ đặc
biệt o bế :
NGÀY 4 THÁNG 8 NĂM HỒNG VŨ
THỨ 7 [11/9/1374]
“ Thiên
tử phán bảo
quan Trung Thư Tỉnh rằng : “ Mùa thu năm
ngoái Quốc vương Chiêm Thành sai
sứ là Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích
Duyệt Văn Đán đến cống, chỉ
ban cho lụa văn ỷ, lụa là đáp
lại ; còn công bắt giặc thì chưa
thưởng. Nay gần ngày sứ trở về
nước, có thể sai người mang đồ
vật đem cho. Liền sai Tuyên sứ Kim Cừ
mang rượu Thượng Tôn, cùng 24 tấm
lụa văn ỷ dệt kim tuyến, lụa là,
đến Quảng Đông giao cho sứ nước
này là Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích
Duyệt Văn Đán mang về để tặng
Quốc vương.” ” (Minh Thực Lục
v. 4,
t.1607-1608; Thái Tổ q. 92,t. 4a-4b)
Lúc này Quốc vương Chế
Bồng Nga muốn Trung Quốc biết rõ hơn
về sức mạnh của Chiêm Thành, nên
đã sai sứ sang tâu về việc đánh
thắng Việt Nam :
NGÀY 12 THÁNG 11 NĂM HỒNG
VŨ THỨ 6 [26/11/1373]
Nước
Chiêm Thành sai sứ
tâu : “ An Nam dùng binh xâm lăng, nước
thần nhờ uy linh của thiên triều, đánh
bại chúng tại biên giới. Nay kính
cẩn sai sứ báo tin chiến thắng.”
Thiên tử nói với các
quan tại
Trung Thư Tỉnh (12) rằng
: “ Các nước
hải ngoại cách trở núi biển,
mỗi nước lo tự phòng thủ biên
giới, lâu lâu mới đến triều
đình. Năm ngoái An Nam dâng biểu
tâu rằng Chiêm Thành xâm phạm
biên giới, năm nay Chiêm Thành lại
tâu tiếp là An Nam quấy nhiễu biên
cương. Hai nước đều thờ triều
đình, không xét được hai bên
ai đúng ai sai. Nay sai người đến
dụ hai bên nên bãi binh để yên
dân, không được xâm lấn lẫn
nhau. Vẫn ban cho Quốc vương Chiêm Thành
cùng Sứ giả văn ỷ, rồi sai trở
về nước.” (Minh Thực Lục
v. 4, q. 86, t.
1524-1525)
Tình trạng quân Chiêm Thành
quấy phá tại Việt Nam khá trầm
trọng và lâu dài, đến nỗi
bọn Sứ thần nhà Minh mượn đường
nước ta đi sứ Miến Điện, phải
kẹt lại đến 2 năm trời :
NGÀY 18 THÁNG 11 NHUẦN NĂM
HỒNG VŨ THỨ 6 [1/1/1374]
“ Bọn Điền Nghiễm đi sứ nước Miến nhưng không đến nơi, bèn trở về.
Nước Miến tại vùng tây nam Vân Nam ; giáp giới với nước Bát Bách và nước Chiêm Thành, còn được gọi là Miến Điện. Đời Nguyên rất thịnh, sau khi bình Thịnh Lộc Xuyên, nước Miến bèn phụ thuộc.
Thiên
tử nghe rằng nước
này từng nạp cống cho nhà Nguyên,
nên sai Điền Nghiễm, cùng Trình
Đẩu Nam, Trương Vỉ, Tiền Cửu
Cung mang chiếu thư đi sứ. Bọn Nghiễm
đến An Nam, gặp lúc Chiêm Thành
mang binh đến tấn công, đường
trở ngại không lưu thông, phải lưu
lại 2 năm tại đây, không tiến
được. Ban chiếu gọi trở về,
chỉ con Nghiễm về được còn
những người khác chết trên
đường.” (Minh Thực Lục
v. 4, q.
1534)
Thời gian tương tự như sự
kiện được ghi trong Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư, Minh Thực Lục
chép về việc vua Trần Duệ Tông
nước ta tử trận tại Chiêm-Thành :
NGÀY 28 THÁNG GIÊNG NĂM
HỒNG VŨ THỨ 10 [8/3/1377]
“ Trần
Đoan [vua Trần Duệ
Tông] nước An-Nam mang
binh giao tranh với
Chiêm-thành, bị đại bại tại
đất Chiêm-Thành. Đoan tử trận.”
(Minh
Thực Lục v. 5, t. 1842)
Chiêm Thành chiến thắng
càng lừng lẫy bao nhiêu, càng được
vua nhà Minh o bế bấy nhiêu. Tuy Thiên
tử Trung Quốc vẫn còn ban những lời
hòa giải lấy lệ, nhưng đặc
biệt tặng riêng cho vua Chế Bồng Nga y
phục dát vàng, chứng tỏ sự sủng
ái đặc biệt :
NGÀY 1 THÁNG 10 NĂM HỒNG VŨ
THỨ 12 [10/11/1379]
“ Sai sứ ban cho Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả [Chế Bồng Nga] lịch Đại Thống, y phục văn ỷ dát vàng, lụa là ; lại ban tỷ thư dụ rằng :
“ Đạo
của Đế Vương
đối xử cùng chung một lòng nhân,
nên cũng muốn nơi hải ngoại được
yên ổn vô sự. Chiêm Thành vị
trí tại phía tây nam, cách biển,
cách núi ; nhưng biết lấy lễ bầy
tôi phụng sự Trung Quốc, mấy lần
cống phương vật. Mới đây sai
sứ cống voi, lòng thành đáng
khen. Trong tờ biểu tâu rằng vẫn còn
giao tranh với An Nam, đến nay vẫn chưa
chấm dứt. Tuy nhiên Chiêm Thành và
An Nam cương giới đã định từ
xưa, mỗi nước nên giữ đất
an dân, chớ nên tranh giành, đạo
trời vốn ghét, không thể không
lấy làm răn. Nay ban cho khanh y phục thêu
rồng vàng, ngựa tốt. Khi vật đưa
đến, hãy nhận lấy.” (Minh Thực
Lục v. 5, t.2017)
Sự hợp tác giửa Trung Quốc
và Chiêm Thành có phần chặt
chẽ hơn, qua sự kiện vua Minh Thái Tổ
ra lệnh cho Quảng Đông, Phúc Kiến
chuẩn bị mấy trăm chiếc thuyền để
đến Chiêm Thành bắt bọn “giặc
Nụy”. Việc này chứng tỏ lúc
bấy giờ Chế Bồng Nga ngoài việc
xâm lăng nước ta, còn sử dụng
thuỷ quân vươn ra ngoài Biển Đông
gây hấn với cả Nhật Bản :
NGÀY 12 THÁNG 6 NHUẦN NĂM
HỒNG VŨ THỨ 20 [27/7/1387]
“ Sắc
cho Đô Chỉ huy Sứ
ty Phúc Kiến tạo 100 chiếc thuyền đi
biển; Quảng Đông chế tạo gấp
bội số này, trang bị đầy đủ
khí giới và lương thực tập
trung tại Chiết Giang để chuẩn bị
đến Chiêm Thành bắt bọn giặc
Nụy [người Nhật-Bản] ”. (Minh Thực
lục V. 6, t. 2752; Thái Tổ q. 182, t. 7b)
Sử dụng quân thuỷ, quân
bộ, gặt hái được nhiều chiến
thắng ; Chế Bồng Nga tỏ ra kiêu mạn
“ dọc ngang nào biết trên đầu
có ai ”, coi thường ngay cả Trung Quốc.
Qua một sắc dụ nhắm uốn nắn đứa
con kiêu của Thiên tử, Minh Thái Tổ
vạch cho biết Chế Bồng Nga nói một
đường làm một nẻo, giả làm
đảng cướp ăn chặn số voi nước
Chân Lạp cống Trung Quốc và cố
tình lơ là trong việc triều cống :
NGÀY 8 THÁNG 4 NĂM HỒNG VŨ
THỨ 21 [14/5/1388]
“ Sai Hành nhân Đổng Thiệu đến dụ Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả [Chế Bồng Nga] rằng : “ Ngươi sống tại nơi hải đảo, hiệu lệnh cho dân Di dưới quyền, nếu không dùng ân và tín để cai tri nuôi dạy dân chúng, thì làm sao có thể làm chủ một phương, truyền cho con cháu, giữ được không có mối lo. Mới đây ngươi sai con đến triều đình, ta sai Trung sứ đưa về nước ; rồi viên sứ này trở về trình rằng hành động của ngươi trái với điển lệ. Lúc đầu Trẫm chưa tin, đến lúc Ma Lâm Cơ trình bày việc trong nước ngươi, đem so sánh thấy lời trên thật đáng tin, không phải là vu cáo.
“ Tháng
4 năm nay lại được
An Nam tâu như sau : “ Hành Nhân Lưu
Mẫn trên đường ra khỏi Chiêm
Thành đưa 52 con voi do Chân Lạp cống ;
Chiêm Thành sai người giả làm kẻ
cướp đọat mất ¼ số voi cùng
bắt 15 tên quản tượng.” Ta
biết
rằng ngươi là Di phương nam ; nhưng
không nghĩ rằng ngươi vừa tôn
kính Trung Quốc, lại lấy việc cướp
cướp bóc làm nghề nghiệp. Dù
rằng hàng ngày ngươi cướp
bóc làm điều bất nghĩa, thì
cũng phải biết kẻ lớn người
nhỏ, kẻ trên người dưới ! Há
lại đứng đầu một nước
lại dám buông tuồng khinh lờn Thiên
tử. Như năm ngoái ngươi dâng
voi và 2 người quản tượng ; từ
khi cho con ngươi trở về, thì trốn
tránh không dâng tiếp ! Việc làm
của ngươi cứ tiếp tục như vậy
thì một đàng không có lòng
thờ nước lớn, một đàng thì
mất sự tín nghĩa để giao thiệp
với lân quốc ; ngươi phải suy nghĩ
sửa đổi, chớ để hối về
sau.” (Minh
Thực Lục v. 7, t. 2864-2865; Thái Tổ
q. 190, t. 1b-2a)
*
Cuối đời, tuy Chế Bồng
Nga chết trước họng súng của quân
nhà Trần, nhưng người chỉ điểm
là một viên quan nhỏ Chiêm Thành
chạy sang trại quân ta, cho biết chiếc
thuyền sơn xanh là thuyền của Quốc
vương hắn. Rồi Thủ tướng La
Ngai cho hỏa táng xác Chế Bồng Nga
bên bờ sông, mang quân Chiêm Thành
trở về chiếm nước, tự lên
làm vua. Con và em Chế Bồng Nga sợ bị
giết, phải chạy sang nước ta lánh
nạn.
Tấn bi kịch này được
dàn dựng bởi kẻ nội thù ; thủ
phạm chính là La Ngai, tên xưng với
nhà Minh là Các Thắng. Một văn
bản trong Minh
Thực Lục chép rằng sau
khi lên làm vua Các Thắng sai sứ sang
Trung Quốc dâng biểu bằng vàng tiến
cống, nhưng bị vua Thái Tổ nhà
Minh cự tuyệt bởi tội mưu giết
vương nước này để lên
làm vua :
NGÀY 7 THÁNG 11 NĂM HỒNG VŨ
THỨ 24 [2/12/1391]
Nước
Chiêm Thành sai viên
Thái sư Đào Bảo Gia Trực dâng
biểu bằng vàng, tiến cống tê
giác, nô tỳ, vải vóc. Thiên tử
bảo các quan bộ Lễ rằng : “ Đây
do viên quan soán nghịch ! Đồ tiến
cống đừng nhận. Trước đây
viên quan Chiêm Thành là Các Thắng
giết Vương nước này tự lập,
nên cự tuyệt.” (Minh Thực Lục
v. 7, t.
3157; Thái Tổ q.214, t. 1a)
CHÚ
THÍCH
:
1. Theo Từ Hải, nước thời Minh gọi là Tây Dương nay thuộc quần đảo Nam Dương.
2. Tỷ thư : thư của vua, có đóng dấu ấn tỷ.
3. Di : Trung Quốc gọi các nước lân bang bốn phương là “Tứ Di” ; nói chung các dân tộc không phải là Trung quốc gọi là Di.
4. Ỷ : Một loại lụa dệt sợi xiên, có hoa văn.
5. Chính Sóc tức ngày đầu năm, mồng 1 tháng giêng. Ngày xưa hàng năm Trung Quốc ban lịch Chính Sóc cho các nước lân bang, tượng trưng uy quyền Thiên tử.
6. Vua nhà Tống họ Triệu. Vua mở đầu triều đại là Tống Thái Tổ tức Triệu Khuông Dẫn.
7. Giặc Nụy tức giặc lùn, chỉ người Nhật.
8. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 2, trang 154 (Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1998)
9. Xích = 0.32 mét
10. Thốn = 1/10 xích
11. Toàn thư, tập 2, trang 169
12. Trung thư tỉnh : Đổng lý văn phòng của nhà vua.
Lịch sử Chiêm Thành :
thời
kỳ suy vong
Bảng tóm tắt các triều
đại
Các đời vua |
Thời gian trị vì |
Chú thích |
La Ngai |
1390-1400 |
Sau khi Chế Bồng Nga chết bèn giành ngôi vua |
Chiêm Ba Ðích Lại |
1400-1441 |
Ðược truyền ngôi từ cha |
Ma Ha Bí Cai |
1441-1446 |
Cháu Chiêm Ba Ðích Lại, bị quân vua Lê Nhân Tông bắt trong cuộc tấn công vào thành Chà Bàn |
Ma Ha Quí Lai |
1446-1449 |
Cháu Chiêm Ba Ðích Lại, bị em là Ma Ha Quí Do cướp ngôi |
Ma Ha Quí Do |
1449-1458 |
Bị bầy tôi Bàn La Duyệt cướp ngôi
|
Bàn La Duyệt |
1458-1460 |
Mất, em là Bàn La Trà Toàn kế vị |
Bàn La Trà Toàn |
1460-1471 |
Bị quân vua Lê Thánh Tông bắt tại thành Chà Bàn |
Bàn La Trà Duyệt ( Trà Toại ) |
1471-1475 |
Thay Trà toàn, bị quân vua Lê Thánh Tông bắt |
Nước
Chiêm Thành bị
chia làm ba
Chiêm Thành
Vị trí tại phía nam Qui Nhơn cho đến Bình Thuận ngày nay, gồm 3 châu 2 huyện |
Hoa Anh?
Vị trí tại vùng Qui Nhơn, gồm 1 châu 3 huyện |
Nam Bàn
Theo Cương Mục vị trí tại vùng Hỏa Xá, Thủy Xá thuộc tỉnh Gia Lai, Kôn Tum, Ðắc Lắc hiện nay |
Tề Á Ma Vật Yêm ( 1475-1481 ): Do nhà Lê đặt, sau khi chết em là Cổ Lai lên thay |
Ðề Bà Ðài Gỉả ( 1475-1486 ): Do nhà Lê đặt, bị con Cổ Lai giết vào năm 1486 |
|
Cổ Lai ( 1481-1499 ): có thời lưu vong sang Trung Quốc, nhường ngôi cho con là Sa Cổ Bốc Lạc |
|
|
Sa Cổ Bốc Lạc ( 1499- ) |
|
|
Công Sa Nhật Ðể Tề ( ? – 1543 - ? ) |
|
|
Bà Thấm ( ? – 1653 - ? ) |
|
|
Bà Tranh ( ? – 1693 - ? ) |
|
|
Nước Chiêm Thành mất ( 1697 ) |
|
|
Mãi cho đến nay, các bộ sử nước ta chép về lịch sử nước Chiêm Thành còn rất sơ lược ; ngay các đời vua kế tiếp trị vì, lý do thay đổi triều đại, lãnh thổ còn mất, cũng chưa đề cập được một cách rõ ràng. Bổ sung cho những thiếu sót đó, chúng tôi dùng những sử liệu trong Minh Thực Lục tham khảo với các bộ sử nước ta như Ðại Việt Sử ký Toàn Thư, Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Việt Nam Sử Lược cùng bộ sách địa chí Ðại Nam Nhất Thống Chí, để trình bày thêm về giai đoan suy vi của Chiêm Thành sau khi vị vua anh hùng Chế Bồng Nga tử trận.
Vào tháng giêng năm Quang
Thái thứ 3 [1390] sau khi Chế Bồng Nga bị
quân nhà Trần giết tại sông Hải
Triều (1), tướng La Ngai đưa tàn
quân về Chiêm Thành, rồi tự lập
lên làm vua. Năm sau La Ngai dùng tên
là Các Thắng, sai sứ dâng biểu
viết trên vàng lá tiến cống
Trung Quốc, nhưng bị vua Thái Tông nhà
Minh cự tuyệt vì cho rằng y đã
giết vua để cướp ngôi :
Ngày 7 tháng 11 năm Hồng Vũ
thứ 24 [2/12/1391]
Nước Chiêm Thành sai viên Thái sư Đào Bảo Gia Trực dâng biểu bằng vàng, tiến cống tê giác, nô tỳ, vải vóc. Thiên tử bảo các quan bộ Lễ rằng :
“ Đây do viên quan soán nghịch ! Đồ tiến cống đừng nhận.”
Trước
đây viên quan
Chiêm Thành là Các Thắng giết
Vương nước này tự lập, nên
cự tuyệt. (Minh Thực Lục
v. 7, tr. 3157;
Thái Tổ q.214, tr. 1a)
Phải chăng vua nhà Minh biết được sự việc tên tiểu thần Bà Lậu Kê chạy sang quân nhà Trần xin hàng, chỉ điểm chiếc thuyền sơn xanh của Chế Bồng Nga nên thuyền này bị bắn phá, là do âm mưu của La Ngai ?
Sau đó tại Trung Quốc vua Minh Thái Tổ mất, nước này trải qua thời gian nội chiến ; rồi Yên vương Ðệ giành được ngôi của cháu, lên làm vua tức Minh Thái Tông hay còn gọi là Thành Tổ. Vị vua này muốn gây ảnh hưởng với lân bang, bèn sai sứ đến báo tin lên ngôi và khuyến khích các nước đến triều cống.
Tại Chiêm Thành La Ngai đã
mất vào năm 1400, con là Chiêm Ba
Ðích Lại nối ngôi, vội sai sứ
đến triều cống nhà Minh và tố
cáo An Nam mấy lần đến xâm lăng.
Việc này được sử nước
ta chép (2) nội dung rằng năm Nhâm
Ngọ (1402) vua nhà Hồ sai Ðô tướng
Ðỗ Mãn sang đánh Chiêm Thành ;
Chiêm Ba Ðích Lại sợ, sai cậu là
Bồ Ðiền sang dâng đất Chiêm
Ðộng để xin bãi binh. Hồ Quý
Ly lại bắt dâng thêm đất Cổ
Luỹ ; chia đất này thành 4 châu
Thăng, Hoa (3) Tư, Nghĩa (4) rồi đặt
quan cai trị :
Ngày 22 tháng 7 năm Vĩnh Lạc
thứ 1 [9/8/1403]
Quốc
vương Chiêm Thành
Chiêm Ba Đích Lại sai sứ là bọn
Bà Phủ Tức dâng biểu văn viết
trên vàng lá, triều cống phương
vật. Lại nói rằng Chiêm Thành
giáp giới với An Nam, mấy lần bị
nước này xâm lược khổ sở ;
xin giáng sắc dụ để răn đe.
Thiên tử chấp thuận, lại ban cho Sứ
giả tiền giấy, bộ y phục hoa văn.
(Minh
Thực Lục V.10,tr. 0400; Thái Tông q.
21,tr. 12b)
Về phần Minh Thái Tông, sau
khi nhận được lời tâu, bèn
gửi sắc mệnh sang nước ta can thiệp.
Lúc này vua Hồ Hán Thương (tên
xưng với Trung Quốc là Hồ Ðê) trị vì nước ta, hứa sẽ không
mang quân sang xâm lấn Chiêm Thành
nữa, Thái Tông bèn sai sứ sang trấn
an nước này :
Ngày 15 tháng giêng năm
Vĩnh Lạc thứ 2 [25/2/1404]
Sai sứ mang sắc dụ Quốc vương nước Chiêm Thành Chiêm Ba Đích lại rằng :
“ Ngươi
tâu rằng mấy
lần bị nước An Nam xâm lấn. Ta đã
sai người đến dụ nước này
phải bãi binh, an dân. Nay Vương An Nam
là Hồ Đê ngỏ lời chịu tội,
không dám vượt qua xâm lấn nữa.
Người đã sửa sai thì không
sai nữa, ngươi nên hòa mục với
lân bang và bảo vệ người dưới.”
(Minh
Thực Lục quyển 27, v. 10, t. 0494-495; Thái
Tổ q. 27, t.2b-3a)
Ðáp lời, Quốc vương
nước Chiêm Thành lại tiếp tục
tố cáo An Nam chiếm thêm đất và
nặng nề hơn là tịch thu những đồ
vật do sứ giả Chiêm Thành từ
Trung Quốc mang về, và bắt phải dùng
những phẩm phục do An Nam ban cho :
Ngày mồng 1 tháng 8 năm
Vĩnh Lạc thứ 2 [5/9/1404]
Quốc vương Chiêm Thành Chiêm Ba Đích Lại sai sứ Bộ Cai Tự Bãi Ni đến triều cống tê giác, sản phẩm địa phương, và tâu rằng :
“ Trước đây đã tâu việc An Nam đánh phá, cướp bóc người và súc vật ; ngưỡng ơn triều đình giáng sắc dụ bắt bãi binh. Nhưng Quốc vương Hồ Đê nước này không tuân lời giáo huấn của thánh Thiên tử ; tháng 4 năm nay lại mang thủy quân xâm nhập biên cảnh, dân chúng chịu độc hại. Gần đây sứ giả [đi Trung Quốc] mang đồ vật được ban cho trở về, đều bị tước đọat ; lại áp bức thần phải nhận mũ, y phục, ấn chương ; bắt làm thuộc quốc, chiếm cứ các xứ Sa Li Nha ; nay lại đánh cướp Mộc Dĩ. Thần sợ không thể tự tồn được, nên phải nạp đất đai để họ cho người cai trị.”
Thiên
tử giận dữ, mệnh
bộ Lễ mang sắc dụ Hồ Đê,
cùng ban cho sứ Chiêm Thành tiền
giấy. (Minh Thực Lục
v. 10, t.0582-0583; Thái
Tông q. 33, t. 4b-5a)
Lúc này Minh Thái Tông
đang thực hiện chính sách kềm
chế An Nam, nên trong chiếu thư hạch
sách nặng nề, cùng nêu thêm cả
những lời tố cáo về việc chiếm
đất tại phủ Tư Minh :
Ngày mồng 3 tháng 8 năm
Vĩnh Lạc Thứ 2 [7/9/1404]
Sai sứ mang sắc dụ Quốc vương An Nam Hồ Đê rằng :
“ Trước đây ngươi mấy lần xâm lăng Chiêm Thành, ta đã dụ ngươi phải thành khẩn hòa mục với lân bang. Rồi nhận được tờ tâu của ngươi hứa rằng từ nay trở về sau dám đâu không bãi binh ! Ta vui vì ngươi chịu sửa sai lầm, nên giáng sắc dụ khuyến khích. Gần đây Chiêm Thành tâu rằng ngươi lại cho thủy quân đánh phá biên cảnh, cướp đoạt dân chúng ; sứ triều cống trở về, mang những đồ vật ban cho, đều bị tước đoạt ; lại cưỡng bách phải nhận mũ, áo, ấn chương của ngươi để bắt làm thần thuộc. Trái lễ, ngược ngạo tăng thêm không ngớt !
Phủ
Tư Minh Quảng Tây lại
tâu ngươi chiếm đoạt châu Lộc,
châu Tây Bình, trại Vĩnh Bình.
Những vùng này là đất của
Trung Quốc mà ngươi đoạt lấy,
phóng túng không kiêng kỵ, việc
làm như vậy thì nước mất
sớm đó thôi. Trẫm không nỡ
thảo phạt ngay bởi vậy lại dụ rõ
ràng quỷ thần hoạ phúc. Ngươi
phải sửa sai ngay đi, nếu không sẽ
không có lợi cho An Nam nữa ! ” (Minh
Thực Lục v. 10, t.0583; Thái Tông q. 33, t.
5a)
Rồi đến giai đoạn chuẩn
bị đánh nước ta, vua nhà Minh cho
điều một toán quân tinh nhuệ sang
giúp Chiêm Ba Ðích Lại ngăn chặn
tại vùng biên giới, sự kiện này
chứng tỏ Chiêm Thành chính thức
giúp nhà Minh trong việc xâm lăng :
Ngày 13 tháng 7 nhuần năm
Vĩnh Lạc thứ 4 26/8/1406
Sắc
ty Đô chỉ huy Quảng
Đông tuyển 600 quân tinh nhuệ, cùng
2 Thiên hộ, 6 Bách hộ có khả
năng đảm đang công tác ; lãnh
lương thực, khí giới, binh giáp
theo đường biển đến Chiêm
Thành phối hợp với quân mã để
phòng chặn giặc họ Lê. (Minh Thực
Lục v. 11, tr. 839; Vĩnh Lạc q. 57, tr. 3a)
Nhờ vậy sau khi cuộc chiến
kết thúc Chiêm Thành giành lại
được vùng đất Thăng, Hoa, Tư,
Nghĩa đã bị mất trước kia ;
Chiêm Ba Ðích Lại bèn dâng biểu
tạ ơn nhà Minh, cùng giải giao một
số tù binh người Việt bị nước
này bắt được :
Ngày 18 tháng 8 năm
Vĩnh Lạc thứ 5 [19/9/1407]
Quốc vương Chiêm Thành Chiêm Ba Đích Lại tấu :
“ Thần ngưỡng vọng thiên uy, tháng 5 năm nay đã lấy được đất bị xâm lấn, bắt đồ đảng giặc là bọn Hồ Liệt, Phan Ma Na, bèn sai Đầu mục Tế Mỵ đến kinh sư hiến tù và dâng biểu, tiến cống phương vật, tạ ân.”
Thiên-tử
khen, cho thu nạp. (Minh
Thực Lục v.11, tr. 0982; Thái Tông q. 70,
tr. 1b)
Ðáp lại Minh Thái Tông
sai viên Thái giám Vương Quí
Thông đến ủy lạo và ban thưởng :
Ngày 30 tháng 9 năm Vĩnh Lạc
thứ 5 [ 30/10/1407]
Sai
Thái giám Vương Quý
Thông mang sắc đến uỷ lạo Quốc
vương Chiêm Thành Chiêm Ba Đích
Lại. Ban cho Vương 300 lạng bạch kim, 20
tấm lụa quyên; khen về việc từng
mang binh giúp đánh An Nam. (Minh Thực Lục,
v.11, t. 999; Thái Tông q. 71,t. 7a)
Sự việc không dừng lại
tại đó ; sau khi Trương Phụ, Mộc
Thạnh dẹp tan được nỗ lực
kháng chiến của nhà hậu Trần
tại đất Hoá Châu ; với binh uy sẵn
có nhà Minh tiếp tục bành trướng,
cho thiết lập phủ Thăng Hoa bao gồm 4
châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa rồi giao cho
những người An Nam đã hàng nhà
Minh cai trị :
Ngày 27 tháng 3 năm Vĩnh Lạc
thứ 12 [16/4/1414]
Ngày
hôm nay lập 4 châu
Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa ; tất cả đều
lệ thuộc phủ Thăng Hoa. Phủ này ở
phía nam Hoá Châu, gồm 11 huyện bao
gồm cả Lê Giang. Vì giặc họ Lê
[Hồ Quí Ly] lấy đất này
của
Chiêm Thành, để cho bọn Nguyễn
Suý, Hồ Cụ, Đặng Cảnh Dị,
Đặng Dung trông coi. Đến lúc bọn
Nguyễn Suý làm phản, Chiêm Thành
lại sai người cai quản. Nay bọn nổi
loạn đã bị bắt, quan Tổng binh
Anh quốc công Trương Phụ cùng Kiềm
quốc công Mộc Thạnh bàn lập lại
4 châu, theo thể chế giao cho những người
xin hàng gồm Nguyễn Nhiêu, Dương
Mộng Tùng, Phạm Công Nghị, Nguyễn
Kiệm chức Tri châu ; Hồ Giao, Trương
Nguyên Chú, Vũ Chinh, Phạm Phưởng
chức Đồng tri ; lại gửi thư cho Sứ
giả Chiêm Thành biết về việc xếp
đặt này ; cùng tâu trình về
triều. Hoàng thái tử chấp thuận.
(Minh
Thực Lục v. 13, t. 1742-1743; Thái Tông
q. 149, t. 4b-5a)
Sách Ðại Nam Nhất
Thống
Chí cho rằng dưới thời thuộc Minh
các châu Thăng, Hoa [Quảng Nam] Tư
Nghĩa [Quảng Ngãi] tuy được đặt
tên, nhưng người Chiêm Thành vẫn
còn cai trị (5). Ðiều này không
đúng, bởi lẽ ngoài văn bản
nêu trên đã đề cập đến
việc dùng người nước ta làm
Tri châu, Minh
Thực Lục còn cho biết
hệ thống hành chánh phủ Thăng
Hoa được đặt xuống tận huyện
và những người được bổ
làm Tri Châu vào năm Vĩnh Lạc thứ
12 [1414] vẫn tiếp tục làm việc cho
đến sau năm Tuyên Ðức thứ nhất
[1426] :
Ngày 5 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 13 [13/5/1415]
...
Quy định phủ
Thăng Hoa gồm 4 châu Thăng, Hoa, Tư,
Nghĩa. Châu Thăng lãnh 3 huyện : Lê
Giang, Đô Hoà, An Bị. Châu Hoa lãnh
3 huyện : Vạn An, Cụ Hi, Lễ Đễ.
Châu Tư lãnh 2 huyện Trì Bình,
Bạch Ô. Châu Nghĩa lãnh 3 huyện :
Nghĩa Thuần, Nga Bôi, Khê Cẩm. (Minh
Thực Lục v 13, t. 1843-1844; Thái Tông q.
163, t. 1b-2a)
Ngày 15 tháng 2 năm Tuyên
Đức thứ nhất [23/3/1426]
Các thổ quan Giao Chỉ gồm những viên sau đây đến kinh đô khảo mãn, tiến cống y phục lụa quyên bản xứ, cùng hương liệu :
………………………………………………………………………….
Dương Mộng Tùng, Tri châu châu Hoa cùng Đồng tri Trương Nguyên Chú ;
Phạm Công Nghị, Tri châu châu Tư cùng Đồng tri Vũ Chinh ;
Phạm Phưởng Đồng tri châu Nghĩa ;
Nguyễn Sung, Tri châu châu Thăng ;
…………………………………………….
(Minh Thực Lục
v. 16, t. 382; Tuyên
Tông q. 14, t.5b)
Tại Chiêm Thành, Chiêm Ba
Ðích Lại làm vua trong thời gian dài
(41 năm) đến năm 1441 thì mất,
người cháu là Ma Ha Bí Cai sai sứ
sang triều Minh dâng biểu xin nối ngôi :
Ngày 14 tháng 6 năm Chính
Thống thứ 6 [2/7/1441]
Quốc
vương Chiêm Thành
Chiêm Bà Đích Lại mất ; cháu
là Ma Ha Bí Cai lãnh di mệnh lên
thay. Bèn sai người cháu của Vương
là bọn Thuật Đề Côn dâng
biểu, triều cống sản phẩm địa
phương cùng xin được nối ngôi.
(Minh
Thực Lục v. 25, t. 1591; Anh Tông q.80, t.
6a)
Vua Anh Tông nhà Minh bèn sai
bọn Chánh sứ Cấp sự trung Thư
Ðồng đi cùng với sứ Chiêm
Thành Thuật Ðề Côn đến phong
cho Ma Ha Bí Cai :
Ngày 12 tháng 7 năm Chính
Thống thứ 6 [29/7/1441]
Chiếu dụ Quốc vương Chiêm Thành :
“
Trước đây tổ
tiên ta được mệnh trời anh minh,
cho làm chủ thiên hạ. Trong nước
ngoài nước, bốn phương vạn
quốc, không kể xa gần đều đối
xử chung một lòng nhân. Muốn mọi
nơi an phận, toại nguyện cuộc sống,
bởi vậy bèn lập ra thống thuộc
để cai trị mọi vùng. Trẫm thừa
tiếp ngôi lớn, thể theo cựu chương ;
bởi vậy Quốc vương Chiêm Ba Ðích
Lại, kể từ thời tiền triều đến
ngày hôm nay cung kính thờ triều
đình, chăm lo chức cống, càng lâu
càng bền chặt, trước sau một lòng
thành. Nay hay tin mới mất, cần có
người kế tục. Người cháu là
Ma Ha Bí Cai, đôn hậu cẩn thận
cung kính, có thể nối gót tổ
tiên, trên biết thờ nước lớn,
dưới biết bảo vệ nhân dân.
Nay đặc cách sai Chánh
sứ Cấp sự
trung Thư Ðồng, Phó sứ Hành nhân
Ngô Huệ mang sắc phong Ma Ha Bí Cai làm
Quốc vương Chiêm Thành, để
làm chủ việc nước. Các ngươi
đầu mục lớn nhỏ hãy tuân
theo Trẫm mệnh, tận tâm phù trợ,
kính cẩn làm theo đường lành,
để trong nước hưởng được
phúc thái bình, đáp ứng lòng
nhân của Trẫm muốn che chở sinh dân.
Lại mệnh lai sứ là Thuật Ðề
Côn Bô Sa mang sắc dụ Ma Ha Bí Cai cố
gắng trong phận bề tôi, chăm lo chức
cống, khéo vỗ về dân, hoà mục
với lân bang. Lại ban cho Quốc vương,
Vương phi các vật như lụa trữ
dệt kim, tơ, lụa là. (Minh Thực Lục
v. 25, t. 1618-1619; Anh Tông q. 81, t. 5b-6a)
Tuy được lời khuyên là
hoà mục với lân bang, nhưng vua mới
Ma Ha Bí Cai không muốn yên phận, gửi
biểu văn sang Trung Quốc ngõ ý muốn
khôi phục lại đất đai bị mất.
Vua Anh Tông nhà Minh bèn ngăn cản :
Ngày 8 tháng 5 năm Chính
Thống thứ 8 [5/6/1443]
Sắc dụ Quốc vương Chiêm Thành Ma Ha Bí Cai rằng :
“ Trước đây triều đình Vương được ban tế lễ, Vương được phong tước, bèn sai cháu là Dương Lạc Thôi dâng biểu và cống những sản phẩm địa phương tạ ân ; thấy được lòng thành kính cẩn, mệnh quan ban thưởng và cho trở về. Từ nay về sau Vương nên kính trời, thờ nước lớn, che chở người dưới, theo ý đối đãi chung một lòng nhân của Trẫm.
Lời tấu của Vương muốn khôi phục đất đai bị An Nam xâm lấn, nhưng từ hai đời trước cha ông Vương không đòi lại, là có lý do nào đó. Nay Vương mới lên ngôi nên lấy sự hòa mục với lân bang và giữ gìn cương vực làm đầu ; hai bên tranh giành không phải là điều phúc cho người trong nước. Trẫm lấy những điều ân, tín, an bình để khuyên các nước ; Vương hãy suy xét, cư xử thể theo ý Trẫm.
Mệnh
Dương Lạc Thôi mang
lụa là, ngựa tốt thể theo lời
xin để ban cho Vương cùng Vương
phi (Minh Thực Lục
v. 27, tr. 2102-2103; Anh Tông
q. 104, tr. 3b-4a)
Không nghe lời khuyên của
vua Anh Tông, Ma Ha Bí Cai cho mang quân đánh
phá các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa.
Tại nước ta, vua Lê Nhân Tông bèn
sai sứ thần Trình Chân sang nhà Minh
trình bày sự việc Chiêm Thành
gây hấn :
Ngày 27 tháng 6 năm Chính
Thống thứ 11 [20/7/1446]
Sắc dụ Quốc vương Chiêm Thành Ma Ha Bí Cai rằng :
“ Gần đây Lê Tuấn Quốc vương An Nam sai Bồi thần bọn Trình Chân triều cống. Khi đến kinh đô tâu rằng Vương khinh lờn [Vương nước họ] nhỏ tuổi mồ côi, nên mang quân xâm lăng 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa ; nay lại đánh vây Hoá Châu mấy lần ; giết cướp người, súc vật, của cải. Vương và nước An Nam đều nhận triều mệnh, được phong đất đã lâu, cương vực hai bên đều có định giới, sao lại hưng binh gây oán, trái với ý nghĩa hòa mục giữa lân bang ! Người xưa nói rằng : “ Người quân tử không lấy lý do nuôi dưỡng người, để hại kẻ khác.” Vương từ nay hãy nghiền ngẫm ý này, giữ đúng lễ và bổn phận, nghiêm sức các Đầu mục giữ vững biên cương, nhưng không xâm nhiễu đất đai lân quốc, gây hoạn cho sinh linh rồi tự rước lấy hoạ. Đạo trời làm thiện gặp phước, làm ác gặp điều dữ ; đó là lẽ thường, Vương tuân theo lời Trẫm.
“ Lại
dụ Quốc vương
An Nam Lê Tuấn cũng nên cho phòng bị
nghiêm hơn, nhưng chớ ôm lòng báo
thù, để hai bên được yên
ổn, thể hiện ý cùng đối xử
chung một lòng nhân của Trẫm. (Minh
Thực Lục v. 28, t. 2818-2819; Anh Tông q. 142,
t.7b-8a)
Việc gửi sứ sang nhà Minh
là chỉ muốn làm sáng tỏ điều
chính nghĩa, thực ra vua Lê Nhân Tông
[tên xưng với nhà Minh là Lê
Tuấn] nước ta không mong chờ được
giải quyết ; vì ngày 6 tháng 2 năm
Bính Dần [1446] Sứ thần Trình Chân
khởi hành sang Trung Quốc, thì ngày
23 cùng tháng nhà vua sai Lê Thụ
mang quân đi đánh Chiêm Thành.
Quân ta tấn công thành Chà Bàn,
bắt sống Ma Ha Bí Cai. Người cháu
là Ma Ha Quí Lai đầu hàng, được
triều đình ta chấp nhận cho làm
vua ; sau đó y dâng biểu sang nhà Minh
xin cầu phong và trình bày sự việc :
Ngày 9 tháng 7 năm Chính
Thống thứ 12 [20/8/1447]
Cháu của cố Quốc vương Chiêm Thành Chiêm Ba Ðích Lại là Ma Ha Quí Lai sai bọn Sứ thần Bô Sa Phạ Chiêm Trì tâu rằng :
“ Khi tiên Vương thần ốm bệnh, đã phong thần làm Thế tử, muốn cho nối ngôi. Lúc bấy giờ thần tuổi còn nhỏ, chưa có thể trị nước được, nên nhường cho người cậu là Ma Ha Bí Cai. Sau đó Ma ha Bí Cai mấy lần mang binh đánh nước An Nam ; Quốc vương An Nam sai tướng đến các xứ Cựu Châu, Cổ Luỹ bắt giết trăm họ gần hết, Ma Ha Bí Cai cũng bị bắt. Thần dân trong nước cho rằng thần là cháu của tiên Vương, từ xưa đã có di mệnh, nên xin thần lên thay thế để coi việc nước. Thần từ chối, bị ép ba bốn lần đành phải làm việc tại phủ thần, riêng Vương vị thì không dám tự chuyên, cúi xin Thiên tử giáng chiếu rõ ràng để an ủi lòng ước vọng của kẻ xa xôi.”
Thiên
tử chấp nhận lời
thỉnh cầu, sai Cấp sự trung Trần Nghi
làm Chánh sứ, Hành nhân Tiết
Cán làm Phó-sứ, mang phù tiết
sách phong Ma Ha Quí Lai làm Quốc vương
Chiêm Thành. Ban sắc dụ phải cẩn
thận giữ tiết bề tôi, chăm lo chức
cống, khéo vỗ về người trong
nước, hoà mục với lân bang, ngõ
hầu vĩnh viễn hưởng phúc trạch,
cùng vui thái bình. Ban cho Ma Ha Quí Lai
cùng Vương phi các vật như nhung
dệt kim thêu hoa, gấm, trữ, lụa là.
Lại chiếu dụ Ðầu mục lớn nhỏ,
người trong nước lo phụ trợ Quốc
vương. (Minh Thực Lục
v. 29, t. 3040; Anh Tông
q. 156, t. 2b)
Sau khi phong Vương cho Ma Ha Quí
Lai, vua nhà Minh lại một lần nữa đưa
chỉ dụ hòa giải và yêu cầu
vua nước ta thả Ma Ha Bí Cai về nước :
Ngày 15 tháng 5 năm Chính
Thống thứ 13 [15/6/1448]
………………………………………………………..
Lúc
này An Nam và Chiêm
Thành cùng đánh phá lẫn nhau,
Tuấn thường sai tướng xâm lược
đất đai Chiêm Thành đến cửa
Châu Cảng [cảng tại Thị Nại],
giết dân, bắt Quốc vương
Ma Ha Bí
Cai đem về nước. Thiên tử đã
sai sứ sang lập cháu Vương cũ là
Ma Ha Quí Lai làm Vương để trông
coi việc nước. Nên đã dụ
Tuấn rằng nên làm ơn bỏ oán,
sai người đưa Ma Ha Bí Cai trở về. Đừng kết oán khiến di hại đến
sinh linh. (Minh Thực Lục
v.29, t.3212-3214; Anh Tông
q. 166, t. 3b-4b)
Kể từ khi thua trận dưới
thời Tuyên Ðức [1426], uy lực nhà
Minh đối với nước ta hoàn toàn
sa sút ; giải quyết việc Chiêm Thành
chỉ hoà giải lấy lệ, không trực
tiếp sai sứ sang nước ta sách hạch,
nên chỉ gửi sắc qua Sứ gỉả
Chiêm thành để trong trường hợp
Sứ giả nước ta đến thì trao
lại :
Ngày 22 tháng 3 năm Cảnh
Thái thứ nhất [3/5/1450]
Sắc dụ Quốc vương An Nam Lê Tuấn :
“ Trẫm nhận mệnh trời chúa tể Hoa Di, đối xử chung một lòng nhân, không phân biệt xa gần. Vì rằng trời có phép tắc, không dám trái nghịch ; đạo trời hết sức công bằng, không chút tơ tóc sai lệch. Phàm yên phận theo lẽ phải được khuyến khích bằng phúc thiện ; nếu cậy mạnh hiếp yếu, sự trừng phạt sẽ đến nơi bằng hoạ hoạn.
Mới đây nước Chiêm Thành tố cáo Vương mấy lần xâm hại, bắt người nước này kể cả nam lẫn nữ đến 33.500 ; lại dạy bảo Chiêm Thành không thuận theo đạo trời, chỉ theo điều lợi mà thôi. Có thể lừa Chiêm Thành, nhưng đối với trời thì lừa sao được !
Những điều tố cáo Vương như vậy, đúng hay sai Trẫm không đáng tin hết. Khi sắc đến, Vương hãy yên phận giữ lễ, hoà mục với lân bang ; việc trước nếu đã xảy ra thì sửa đổi, nếu không xảy ra thì cố gắng làm tốt thêm. Nếu quả có bắt số người Chiêm Thành kể trên, nên trả tất cả về nước, khiến mọi người đều an sinh lạc nghiệp ; ngõ hầu trên thì thuận với đạo trời, dưới thì thuận lòng người ; hai điều vẹn toàn, vĩnh viễn hưởng phúc thái bình.
Nay nhân Sứ giả Chiêm Thành về nước, bèn trao sắc này, đợi khi Sứ giả Vương tới nước này, sẽ nhận sắc mang về cho Vương. Vương nhớ tuân theo mệnh của Trẫm, chớ quên !
Lại dụ Quốc vương Chiêm-Thành Ma Ha Qui Lai :
“ Nhận được lời tâu của Vương rằng Quốc vương An Nam mấy lần sai quân đến xâm lăng, cướp 33.500 người, lại dạy Vương đừng thuận theo đạo trời, đừng kính trọng triều đình, việc gì có lợi thì làm. Thật sự chống trời, chống lẽ phải không gì lớn hơn ! Nhưng Vương vẫn giữ vững tiết bề tôi, không bị mê hoặc bởi lời dụ dỗ, vẫn đến triều cống như cũ ; Thấy rõ Vương trung thành, biết thuận theo lẽ phải. Phàm lẽ phải tức đạo trời , người xưa nói : “ Thuận với trời thì thịnh vượng, nghịch với trời thì tiêu vong ” ; kết quả đúng như vậy, không mảy may xê dịch !
Khi
sắc đến, Vương càng
thêm thuận đạo trời hơn, để
bảo tồn sự thịnh vương. Riêng
sắc dụ Vương nước An Nam, lệnh
cho Sứ thần của Vương mang về, đợi
Sứ An Nam đến Chiêm Thành thì
trao cho họ và cũng luôn thể để
Vương biết qua. (Minh Thực Lục
v.31,
t.3920-3921; Anh Tông q. 190, t.12b-13a)
Rồi trong nước Chiêm Thành
có biến, người em là Ma Ha Quý Do dành ngôi của anh ; vua nước ta gửi
thư khiển trách nặng nề (6) “
Các ngươi xin lập Quý
Lai làm
vua, chưa quay xong gót đã lại phế
đi và lập Quý Do. Các ngươi
là bọn phản phúc bất trung, xem vua
như con cờ, thế là đạo gì
vậy ? ”; riêng vua Anh Tông nhà Minh
thì coi như không biết, khen lao người
nối ngôi và sắc phong như thường
lệ :
Ngày 1 tháng 7 năm Cảnh
Thái thứ 3 [17/7/1452]
Mệnh Cấp sự trung Phan Bản Ngu, Hành nhân Biên Vĩnh làm Chánh Phó sứ đến điếu tế cố Quốc vương Chiêm Thành Ma Ha Quí Lai, lại phong cho người em là Ma Ha Quí Do làm Quốc vương Chiêm Thành. Chiếu rằng :
“ Trẫm ứng mệnh trời, chủ tể Hoa Di, phong các chư hầu xa gần như một ; đó là đại điển của quốc gia, hiến ước của tổ tông đã có sẵn.
Huống
nước Chiêm Thành
ở nơi góc biển chân trời xa xôi,
để sai khiến dân này há lẽ
không có người quân trưởng !
Vì vậy Quốc vương Ma Ha Quý Lai
được thế tập phong tước, kính
trời thờ nước lớn, trước sau
một lòng thành, cai trị nhân dân,
chăm lo chức cống ; nay mất cần có
kẻ thừa kế. Người em Ma Ha Quí Do
tính vốn trung thuần, dân trong nước
hướng theo, nay đặc cách phong làm
Quốc vương Chiêm Thành, kế thừa
làm chủ nước. Phàm dân chúng
tước vị lớn nhỏ trong nước,
ngày đêm lo tận tâm khuông phò,
không được lấn người trên,
giữ tấm lòng trung thuận để hưỏng
phúc thái bình mãi. (Minh Thực Lục
v. 33, t. 4695; Anh Tông q.218, t. 1a)
Tiếp đến việc Bàn La
Duyệt (7) (sử nước ta chép là
Bàn La Trà Duyệt) con nguời vú nuôi
giết chúa cướp lấy nước.
Thời xưa vua thông dâm với thị tỳ
là chuyện thường, ở đây có
thể hiểu là Bàn La Duyệt con riêng
của Ma Ha Quý Lai cướp ngôi. Rồi
viên Quốc vương này sai sứ dâng
biểu triều cống, cũng được vua
nhà Minh chấp nhận :
Ngày 11 tháng 6 năm Thiên Thuận thứ 2 [21/7/1458]
Quốc
vương Chiêm Thành
Bàn La Duyệt sai bọn Bồi thần Bô
Sa Phạ Bà Lợi Thủy đến triều
đình dâng biểu, cống các sản
vật địa phương như tê giác,
ngà voi. Ban yến, cùng mũ, dây đai,
y phục bằng lụa ; lại sai Bô Sa Phạ
Bà Lợi Thủy mang sắc cùng lụa
nõn trong ngoài ban cho Quốc vương và
Vương phi (Minh Thực Lục
v. 36, t. 6238; Anh
Tông q. 292, t. 4b)
Bàn La Duyệt làm vua chưa
được 4 năm thì mất, sứ giả
Chiêm Thành lại đến Trung Quốc
xin phong cho người em là Bàn La Trà
Toàn :
Ngày 13 tháng 9 năm Thiên
Thuận thứ tư [27/9/1460]
Chiếu dụ nước Chiêm Thành :
“ Từ xưa đến nay các Ðế Vương ngự trị thiên hạ, không ai là không cư xử chung với một lòng nhân ; vì vậy chốn hoang vu cõi ngoài được phổ cập giáo hóa. Nước Chiêm Thành các ngươi, vị trí nơi góc biển hoang tịch, đất riêng một phương tất phải lập người đứng đầu để thống trị dân chúng. Bởi vậy Quốc vương Ma Ha Bàn La Duyệt mới đây được phong tước Vương, nối nghiệp quản lý việc nước, chưa được 4 năm đã vội mất, cái lý kế thừa không thể thiếu. Người em là Bàn La Trà Toàn, tính tình đôn hậu, biết giữ lễ khiêm cung ; nên đặc cách sai Cấp sự trung Vương Nhữ Lâm làm Chánh sứ, Hành nhân Lưu Thứ làm Phó sứ mang chiếu thư phong chức Quốc vương Chiêm Thành. Phàm dân chúng trong nước đều phải thần phục, tuân theo lẽ phải sống yên ổn, không được tranh giành phạm pháp. Tất cả một lòng giúp dập, khiến đất nước hòa bình anh ninh, thấm nhuần phong tục nhân hậu, vĩnh viễn hưởng phúc thái bình.
Lại sắc dụ Bàn La Trà Toàn rằng :
“ Vương
các ngươi
đời trước, có nước nơi
góc biển xa xôi, hết lòng trung kính,
thuận theo trời thờ nước lớn,
càng lâu càng bền. Nay Vương lại
biết thừa kế, sai người trong họ
là Thả Dật Ðà Bằng mang sản
vật địa phương đến cống,
lòng thành khẩn đáng khen. Sứ
trở về đặc cách ban cho Vương
cùng Vương phi gấm lụa để đáp
lại ý tốt ; Vương càng kiên
định, vĩnh viễn giữ tiết bề
tôi, để đáp ứng sự ưu
đãi.”
(Minh
Thực Lục v. 37, t. 6648; Anh Tông
q.319, t. 4b)
Vua mới Bàn La Trà Toàn
lại dẫm vào vết chân của Quốc
vương Ma Ha Bí Cai, vị vua Chiêm Thành
bị quân vua Lê Nhân Tông bắt vào
năm 1446. Trà Toàn sai sứ gia tăng liên
lạc ngoại giao với Trung Quốc, tố cáo
An Nam xâm nhiễu, xin Trung Quốc can thiệp,
rồi đích thân mang quân đánh
úp châu Hóa :
Ngày 5 tháng 3 năm
Thiên Thuận thứ 8 [11/4/1464]
Quốc
vương Chiêm Thành
Bàn La Trà Toàn sai Sứ thần dâng
biểu viết trên vàng lá ; cống
voi thuần và các sản vật địa
phương. Ban cho Chánh Phó sứ dây
đai vàng có hoa văn, y phục dệt
vàng, các loại lụa là, lụa
đoạn có phân biệt. Nhân Thiên
tử mới lên ngôi, bộ Lễ thỉnh
cầu ban cho Vương và Phi nước này
2 tấm gấm ; 10 tấm lụa đoạn ; lụa
thường và lụa thượng hạng
mỗi thứ 7 tấm. Giao cho Sứ thần mang
về. (Minh Thực Lục
v. 39, t. 75; Hiến Tông
q. 3, t. 8a)
Ngày 7 tháng 3 năm
Thiên Thuận thứ 8 [13/4/1464]
Quốc-vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn sai sứ tâu rằng nước An Nam xâm lăng quấy nhiễu để đòi hỏi voi trắng. Xin căn cứ theo việc làm dưới thời Vĩnh Lạc [1403-1424] cử Sứ giả đến chiêu an, lập bia đá tại biên giới để khỏi xâm phạm ; chấm dứt thù hằn gây hấn. Lời xin được đưa xuống bộ Binh bàn, rồi phúc tấu :
“ Xin Thông sự bảo Sứ thần trở về nói với Quốc vương rằng hãy cẩn thận giữ lễ pháp, giữ vững biên cảnh chống lại ngoại xâm, đừng nông nỗi gây họa.”
Thiên-tử
chấp thuận. (Minh
Thực Lục v. 39, t. 76-77; Hiến Tông q. 3, t.
8b-9a)
Theo Toàn Thư (8) vào tháng 8 năm Canh Dần [1470] Quốc vương Chiêm Thành Trà Toàn thân hành đem hơn 10 vạn quân thủy bộ cùng voi ngựa đánh úp châu Hoá. Tướng trấn giữ biên thuỳ tại châu Hóa là Phạm Văn Hiển đánh không nổi, phải dồn dân vào thành rồi chạy thư cáo cấp.
Sự việc diễn tiến tiếp
theo cũng giống như cuộc chuẩn bị
tấn công Chiêm Thành thời vua Lê
Nhân Tông ; để dành lấy chính
nghĩa, trước khi ra quân vua Lê Thánh
Tông [tên xưng với nhà Minh là
Lê Hạo] sai sứ sang nhà Minh tâu việc
Chiêm Thành quấy phá biên giới.
Nhưng triều đình nhà Minh không
tin, cho rằng vua nước ta bề ngoài đặt
lời là bị xâm lăng, nhưng bên
trong muốn thôn tính Chiêm Thành, nên
ra sắc dụ ngăn cản :
Ngày 27 tháng 5 năm Thành Hóa thứ 7 [15/6/1471]
Quốc vương An Nam Lê Hạo sai bọn Bồi thần Quách Đình Bảo, Nguyễn Đình Anh đến triều đình tâu :
“ Nước thần và Chiêm Thành kế cận, từ triều trước đã bị xâm lăng. Thời Tuyên Đức [1426-1435] 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa bị mất ; từ đó châu Hóa bị vây mấy lần, khiến người một phương phải mệt nhọc chạy để cứu lấy mạng sống. Trộm nghĩ đất đai nhân dân nhận của triều đình, truyền cho con cháu đễ vĩnh viễn làm phiên thần. Nay Chiêm Thành phản lễ nghĩa, dối trời, dày xéo dân biên giới, không một năm nào yên ổn. Thần muốn mang binh đi đánh dẹp, lại sợ sai lời dạy bảo của Thánh Thiên tử, nhịn đi thì phụ tấm lòng ân nghĩa của bề tôi, tiến thoái lưỡng nan ! Nay kính cẩn sai Bồi thần đến kinh khuyết trần tấu.”
Bản tấu được đưa xuống bộ Binh bàn bạc, rồi được tâu lên rằng : “ Lòng tham của Hạo không cùng, âm mưu thôn tính [Chiêm Thành] lại dương ngôn là nạn nhân. Xin ban sắc văn để ngăn ngừa sự gian trá. Thiên tử bèn sắc rằng :
“ An Nam ngươi và Chiêm Thành đều được triều đình ban tước và đất, đời đời nạp cống làm phiên thần Trung Quốc nơi biên giới, há lại gây oán, hưng binh đánh lẫn nhau. Sách Xuân Thu (9) nêu trách nhiệm người hiền phải yên phận, thuận theo lý, giữ lãnh thổ, bỏ oán thù , dập tắt tranh giành. Ngươi trước hết phải làm trọn đạo hòa mục với lân bang, lại cấm đoán bọn đầu mục không sinh sự gây hấn. Nếu như có mưu kế thôn tính, thì không phải là phước cho nước ngươi, nên cẩn thận, cẩn thận !
Về
phần Chiêm Thành, đợi
khi Sứ nước này đến, xét kỹ
sự thực, sẽ có sắc ngăn ngừa.
Trẫm thay trời cai trị vạn vật, đối
xử chung một lòng nhân, không nỡ
để hai nước các ngươi vướng
vào họa binh đao ; nên đặc biệt
ra chỉ dụ khuyên răn để biểu
thị sự lo lắng. Ngươi hãy thừa
theo Trẫm mệnh, không được sơ
hốt.” (Minh Thực Lục
v. 43. t. 1771-1772;
Hiến Tông q. 91, t. 7a-7b)
Sau khi bị đánh, Sứ giả
Chiêm Thành đến cấp báo rằng
Bàn La Trà Toàn bị bắt, người
em là Bàn La Trà Duyệt [sử nước
ta gọi là Bàn La Trà Toại] tạm
thời lên nối ngôi, xin được
nhà Minh phân xử. Thượng thư bộ
Binh nhà Minh xin sai sứ sang nước ta trách
vấn, nhưng vua Hiến Tông thấy rõ
uy lực nước ta lúc này, nên e dè
không tỏ thái độ quyết liệt :
Ngày 21 tháng 5 năm Thành Hoá thứ 8 [27/6/1472]
Nước ChiêmThành sai Sứ thần Lạc Sa đến cáo cấp rằng :
“ Nước chúng tôi tiếp giáp với An Nam, mấy lần bị nước này xâm đoạt. Mới đây sai người đến đòi tê giác, ngà voi, đồ vật quý ; lại đòi hỏi phải phụng sự người An Nam đưa đến, nghi lễ giống như phụng sự Sứ thần Thiên triều. Nước chúng tôi nghĩ rằng đã cùng An Nam nhận lịch Chính Sóc của Hoàng triều, nên không chịu khuất tuân theo, vì lý do đó nên An Nam gây hấn.
Vào tháng 2 năm Thành Hoá thứ 7, quân An Nam đến đánh phá kinh thành, bắt Quốc vương Bàn La Trà Toàn cùng gia thuộc hơn 50 người, tịch thu ấn quý, phá huỷ nhà cửa, cướp giết quân dân nam nữ nhiều không kể xiết. Nay em của Vương là Bàn La Trà Duyệt tạm thời coi việc nước, cúi xin được phân xử.”
Tờ tâu giao xuống dưới, Thượng thư bộ Binh Bạch Khuê tâu rằng :
“ Vào năm Thành Hoá thứ 7, nhân An Nam tâu rằng “ Chiêm Thành vượt biên giới xâm lăng, cần ngăn cản sự tàn ngược”. Bọn thần đã dâng lời rằng Hạo [Lê Thánh Tông] có âm mưu thôn tính Chiêm Thành, nên dương ngôn bị tấn công. Rồi mấy lần đánh phá Chiêm Thành, lại bắt vua nước này. Nếu không có cách gì xử trí, thì mất lòng quy phụ của Chiêm Thành, lại dung dưỡng kẻ ngang ngạnh. Nên sai quan mang sắc dụ bắt phải trả lại ấn tín, Quốc vương cùng gia quyến bị bắt, để khỏi xẩy ra tai họa.”
Chỉ
dụ phán : “ Bất
tất phải sai quan đi, đợi Sứ thần
An Nam đến sẽ trao sắc dụ.” (Minh
Thực Lục v.43, t. 2045-2046; Hiến Tông q.
104, t. 8a-8b)
Chờ đến khi Sứ thần
nước ta đến cống và nhân
tiện trình bày việc đánh Chiêm
Thành, vua nhà Minh mới ngỏ lời
khuyên răn hòa giải lấy lệ :
Ngày 13 tháng 9 năm Thành Hóa thứ 8 [14/10/1472]
Sắc dụ Quốc vương An Nam Lê Hạo chớ xâm vượt lãnh thổ Chiêm Thành. Hạo sai Sứ thần Nguyễn Đức Trinh dâng thư tự trình bày rằng :
“ Mới đây Chiêm Thành xâm lấn đất Hoá Châu nên gửi binh đến tiếp viện ; vì người trong nước này tự làm phản, nên bị thua bại.”
Thiên tử bèn ra lệnh Đức Trinh, mang sắc về dụ Hạo :
“ Mới
đây Chiêm Thành
tâu rằng, vào tháng 2 năm Thành
Hoá thứ 7 [2-3/1471] ngươi
đánh
phá thành nước này, bắt Quốc
vương và thân thuộc hơn 50 người.
Lại cướp ấn, đốt nhà cửa,
giết người già và trẻ em không
kể xiết. Trẫm cho rằng lời riêng
của một bên chưa có thể tin được ;
nay nhận được tâu, lời nói
và ý đều khác. Nhưng nước
Vương với Chiêm Thành thế lực
lớn, nhỏ không cần phải biện
thuyết ; nếu bọn họ gây hấn trước,
thì thật không biết độ đức
lượng sức, nên gây ra sự bất
nghĩa ; nếu Vương vin vào việc họ
quấy phá nhỏ, rồi giận lên hiếp
kẻ yếu, gây hấn lớn , thì hợp
với đạo nghĩa ư ! Khi sắc đến,
Vương nên bỏ qua những mất mát
nhỏ, tăng điều đại nghĩa, trả
lại những người bị bắt, răn
đe quan lại nơi biên giới đừng
sinh sự lập công, hưng binh gây oán,
hoặc chuyên việc báo thù gây
nên sự đau buồn ; ngõ hầu trời
soi sáng, vĩnh viễn hưởng danh thơm.
Khâm thử.” (Minh Thực Lục
v. 44, tr.
2100-2101; Hiến Tông q. 108, t. 3b-4a)
Mấy năm sau phái đoàn
nhà Minh cầm đầu bởi Cấp sự
trung Trần Tuấn đi sứ Chiêm Thành
để phong Vương cho Bàn La Trà
Duyệt [Trà Toại ?], theo thông lệ ghé
đến cảng Tân Châu [gần thành
Chà Bàn, Qui Nhơn], thì được
biết vùng này đã bị An Nam
chiếm. Hàng hải tiếp đến Linh Sơn
thì được tin cả nhà Bàn La
Trà Duyệt bị An Nam bắt. Vì trên
thuyền chở nhiều hàng hoá nên
phải hành trình tiếp đến Mãn
Thứ Gia thuộc vùng đất Mã Lai
hiện nay để bán hàng, rồi mới
trở về Trung Quốc :
Ngày 14 tháng 12 năm Thành Hóa thứ 10 [21/1/1475]
Công khoa Cấp sự trung Trần Tuấn đi sứ Chiêm Thành không vào được, bèn nạp trở lại những thứ đã mang đi như chiếu sắc, ấn mạ vàng bạc, các vật như lụa, đoạn. Bọn Tuấn đi sứ Chiêm Thành để phong cho Quốc vương Bàn La Trà Duyệt, khi hàng hải đến cảng Tân Châu, Chiêm Thành, quân phòng thủ từ chối không cho vào, người Thông dịch cho biết đất này đã bị An Nam chiếm, còn Quốc vương Chiêm Thành tỵ nạn tại Linh Sơn. Khi đến Linh Sơn thì được biết cả nhà Bàn La Trà Duyệt bị An Nam bắt và đất Chiêm Thành bị đổi tên thành châu Giao Nam. Bọn Tuấn không dám ghé vào ; nhưng thuyền chở hàng hóa tư, cùng nhiều thương nhân, nên giả lấy cớ bị gió bão rồi hàng hải tiếp đến Mãn Thứ Gia (10) buôn bán, lại dụ Vương nước này sai sứ đến triều cống. Đến nay trở về tâu đầy đủ việc An Nam chiếm cứ Chiêm Thành, cùng việc Quốc vương Mãn Thứ Gia cung cấp thức ăn và các nhu yếu phẩm khác, đối đãi lễ nghi rất đầy đủ.
Sự việc được đưa xuống cơ quan hữu trách, bộ Lễ tâu nên đợi Sứ thần Mãn Thứ Gia nhập cống, lúc trở về giáng sắc khen thưởng Vương nước này. Bộ Binh cũng tâu nước An Nam cậy mạnh, thôn tính nước được triều đình phong tước, sự việc quan hệ thật không nhỏ, nên giao cho các Công Khanh bàn luận một cách rộng rãi. Lúc đó bọn Anh quốc công Trương Mậu tâu rằng An Nam cường bạo vốn nên hài tội thảo phạt ; nhưng Đế vương đối với Di địch lấy bất trị để trị ; nay chưa biết được nguyên do Chiêm Thành diệt vong, không nên khinh động. Chờ năm sau vào kỳ An Nam triều cống, đợi Bồi thần đến, sai Thông dịch đem việc này ra hỏi, mới bắt đầu khu xử. Lại lưu ý thêm Vân Nam, Quảng Tây, cùng Quỳnh, Liêm, Quảng Đông tiếp giáp với đất này nên ra lệnh cho các quan Trấn thủ, Tổng binh đôn đốc thuộc cấp cố thủ để đề phòng xâm lấn.
Thiên
tử đều chấp
thuận. (Minh Thực Lục
v. 45, t. 2553-2554; Hiến
Tông q.136, t. 6a-6b)
Căn cứ lời tường trình
của Sứ giả Trần Tuấn tại văn
bản nêu trên thì vào thời điểm
năm 1475 vùng đất Quy Nhơn bị nước
ta chiếm ; nhưng theo nội dung hai biểu văn
của vua Lê Thánh Tông trình bày
với nhà Minh dưới đây thì
nguyên nhân sự loạn lạc tại Chiêm
Thành là do người trong nước
tranh giành lẫn nhau. Có lẽ để
hợp thức hoá lập luận nêu trên
và nhắm làm suy yếu Chiêm Thành,
căn cứ theo sử nước ta, nhà vua đã
chia nước này thành 3 nước nhỏ :
Chiêm Thành, Hoà Anh, Nam Bàn
Ngày 25 tháng 8 năm Thành Hóa thứ 11 [24/9/1475]
Quốc vương An Nam Lê Hạo [Lê Thánh Tông] tâu :
“ Năm trước nhân Quốc vương Chiêm Thành Bàn La Trà Toàn xâm phạm đạo Hóa Châu, bị người em là Bàn La Trà Toại giết. Toại tự lập lên làm vua, sắp xin cầu phong ; lại bị con Bàn La Trà Duyệt là Trà Chất Đài Lai giết, từ đó nước trong nước này loạn lạc nỗi lên, không có một ngày yên ổn. Việc đó không phải là lỗi của nước thần. Nay tuân theo chỉ dụ của Thiên tử dẹp binh đao, hòa mục với lân bang ; số người nước này bị bắt gồm 740 trai gái đều cho trở về nước.” (11)
Đưa lời tâu xuống dưới, bộ Binh trình rằng :
“ Lời của Hạo sơ lược, không nói đến việc xâm chiếm Chiêm Thành ; so với lời tâu của bọn Hữu Cấp sự trung Trần Tuấn thì không giống nhau ; thực tình hoặc gian trá không quyết được.”
Thiên tử nhân Bồi thần Lê Hoằng Dục về nước bèn ban sắc dụ Hạo rằng :
“ Trước đây nhân Bàn La Trà Duyệt tâu rằng Vương nước này là Bàn La Trà Toàn bị nước ngươi bắt, Chiêm Thành hiện nay không có chủ, nên đến xin phong tước. Trẫm thể theo đức hiếu sinh của trời đất, chấp nhận lời trần tình, sai sứ đến phong. Đến lúc sứ trở về tâu rằng đất nước Chiêm Thành quả bị nước ngươi chiếm đoạt, đổi thành châu ấp. Trẫm nghi nhưng chưa tin, nay được ngươi tâu rõ ràng rằng Chiêm Thành dùng binh gây oán, xâm nhiễu biên cảnh lân bang, đến nỗi bản thân chết, nước bị phá ; tất cả đều tự gây ra. Sự việc chưa rõ ràng, nhưng lý có thể như vậy ; huống lời và ý của Vương khẩn khoản, chắc không phải dùng lời lẽ để che giấu lỗi lầm. Nhưng Chiêm Thành là nước truyền từ lâu đời, trước kia há không có một lực lượng nào mạnh có sức thôn tính nước này, nhưng sử sách chưa từng nghe, vậy bài học được mất có thể thấy được. Nay nếu nước này thình lình bị tiêu diệt, không những trái với chiếu chỉ của triều đình ; mà lại còn e bị các nước Phiên tại hải ngoại sinh nghi sợ, rồi gây sự tranh giành, như vậy đối với Vương có lợi ư !
Sắc
đến Vương nên
sửa đổi, cho người trong họ vua
Chiêm cùng dân chúng trở về,
khôi phục đất đai, để cho
không tuyệt nòi giống. Làm được
vậy thì việc nối dòng bị đứt,
kính trời thờ nước lớn của
Vương vẹn cả hai đường. Vương
hãy gắng cho được. (Minh Thực Lục
v. 45, t. 2660-2661; Hiến Tông q. 144, t. 3b-4a)
Ngày 26 tháng 3 năm Thành Hoá thứ 14 [28/4/1478]
Quốc vương An Nam Lê Hạo tâu rằng :
“ Đầu mục Chiêm Thành Ba Lung Ma Ha trước đây thông hiếu với nước thần. Vào năm Thành Hoá thứ 11 [1475-1476] nước y thu hoạch được nhiều thuyền của nước Lưu Cầu, do gió thổi trôi dạt đến ; bèn mang quân đến nước thần xâm lược, bị quân tại biên giới đánh bại. Nay Bồi thần Lê Hoằng Dục từ Thiên triều trở về dâng đặc dụ trách thần chiếm đọat đất đai Chiêm Thành, đổi thành châu ấp. Vì việc này, thần không thể không lọc máu viết lời trần tình để đoan chắc rằng không có.
“ Phàm đất đai mà Chiêm Thành được phong rất cằn cỗi, nhà thì nghèo nàn, vườn không có tơ dâu, núi không có của báu, biển thiếu lợi về cá muối ; chỉ có ngà voi, tê giác, tô mộc, trầm hương mà thôi ; mà nước thần sản xuất những thứ đó nhiều, nên không cho là quý. Lấy được đất đó không thể ở được, lấy được dân đó không thể dùng được, được sản phẩm đó không đủ để giàu, được cái thế đó cũng không trở nên mạnh được. Giữ gìn đất đó rất khó, mà lợi thì ít. Phàm mất nhiều, mà lợi thì ít, họa thì rõ ràng, mà danh thì mờ mịt ; đó là lý do tại sao thần không chiếm đoạt đất đai Chiêm Thành để biến thành châu quận.
“ Nay triều đình lại dụ thần trả lại đất đai cho Chiêm Thành, để nước đó không mất chỗ thờ tự. Thành thực thần cho rằng Thiên sứ trong lúc vội vã, hỏi han điều tra không rõ ràng ; mà dân Chiêm Thành chạy loạn thì có mối thù với nước thần nên lời nói không đáng tin. Vậy xin đặc sai Sứ giả Thiên triều đích thân đến xem đất đai, và phục hưng dòng bị tuyệt, khiến cho nước Chiêm Thành trên dưới được an tập ; nơi biên thùy của thần được yên ỗn để làm phiên Trung Quốc, có ích cho người phương xa, đó là ý nguyện của thần vậy. Kính cẩn sai Bồi-thần Nguyễn Đạt Tế tâu lên.”
Thiên-tử
mệnh đem tấu
chương này xuống dưới bàn
luận. (Minh Thực Lục
v. 46, t. 3185-3186, Hiến
Tông q. 176, t. 11a-11b)
Tìm hiều về nước Chiêm
Thành mới, có thể căn cứ theo
lời tâu của Quốc vương Chiêm
Thành Cổ Lai, rằng sau khi An Nam bắt Bàn
La Trà Duyệt [Trà Toại], sợ bị
rắc rối với nhà Minh, nên cho anh Cổ
Lai là Tề Á Ma Vật Yêm lên làm
Vương ; lãnh thổ phía nam từ nước
Chiêm Lạp [Chân Lạp] phía bắc
đến Ha Mộc Thứ Bố gồm 5 xứ,
trong khi đất cũ của Chiêm Thành
có 27 xứ. Tham khảo sử nước ta (12) thì lãnh thổ nước Chiêm
Thành chỉ bằng 1/5 đất cũ như
Minh
Thực Lục xác nhận và tên
viên Quốc vương dùng để xưng
với An Nam là Bồ Trí Tri :
Ngày 26 tháng 9 năm Thành Hóa thứ 17 [18/10/1481]
Chiếu dụ Quốc vương An Nam Lê Hạo trả lại đất cho Chiêm Thành. Lúc bấy giờ Cổ Lai nước Chiêm Thành sai sứ tâu :
“ Vào tháng 4 năm Thiên Thuận thứ 5 [1461](13) Giao Chỉ hưng binh xâm lăng nước thần, bắt Quốc vương, phá hủy thành trì, cướp ấn quý rồi đi. Em Vương là Bàn La Trà Duyệt trốn chạy đến Phật Linh Sơn. Vào năm Thành Hóa thứ 6 [1470] tấu xin ấn và thỉnh phong, Thiên sứ đến nơi ; nhưng trước đó Bàn La Trà Duyệt đã bị Giao Chỉ bắt (13). Thần cùng anh là Tề Á Ma Vật Yêm trốn trong rừng ; sau đó người Giao sợ Thiên triều, tự sai người tìm kiếm con cháu người nước thần, cho trở về đất cũ. Giới hạn từ quốc đô tới Chiêm-Lạp [Chân-Lạp?] gồm 5 xứ, lập Tề Á Ma Vật Yêm làm Vương. Chẳng bao lâu Tề Á Na Vật Yêm chết, nay thần đang tạm giữ chức nhưng không dám tự tiện ; thỉnh cầu triều đình sai Thiên sứ mang ấn quý đến, phong chức Vương. Xin dụ người Giao trả toàn lãnh thổ nước thần gồm 27 xứ gồm 4 phủ, 1 châu, 22 huyện ; phía đông tới biển đông, phía nam tới Chiêm Lạp, phía tây tới núi Lê Nhân, phía bắc tới Ha Mộc Thứ Bổ gồm hơn 3500 dặm, ngưỡng ơn Thiên tử vì tiểu quốc chủ trì việc này.”
Thiên tử mệnh hội các quan bàn định. Thượng thư bộ Binh Trần Nhung, Anh quốc công Trương Mậu, Thượng thư bộ Lại Duẫn Mân bàn rằng Chiêm Thành bị An Nam xâm đoạt đã lâu, triều đình thường răn dụ, An Nam chỉ trả lại 5 xứ. Nay Cổ Lai không ngại xa xôi đến tố cáo, nếu không chấp nhận lời xin, thì không có gì an ủi người xa xôi có lòng ngưỡng vọng. Nên sai 2 cận thần có uy vọng, giỏi về văn từ lý lẽ, đi sứ An Nam, dụ Vương nước này trả lại đất cũ của Chiêm Thành.
Chiếu dụ rằng không cần sai quan đi, đợi khi Sứ thần An Nam trở về bèn sắc dụ Hạo rằng :
“ Trẫm phụng mệnh trời, coi dân như con; suốt biển trong ngoài đều đối xử chung một lòng nhân. Mà các ngươi An Nam và Chiêm Thành thời Tần Hán trở xuống đều là quận huyện của Trung Quốc ; cũng không quá xa kinh đô. Mới đây Chiêm Thành tố cáo rằng ngươi hưng binh bắt sống Quốc vương nước này, giết nhân dân, đoạt thành trì đất đai. Trẫm động lòng trắc ẩn, hai lần xuống chiếu lệnh ngươi trả lại những thứ đã lấy, để hợp với nghĩa lớn. Ngươi tâu rằng số đàn ông đàn bà bị bắt đã trả về, lại nói lãnh thổ đã yên, há lại có việc xâm tranh. Trẫm tin lời ngươi, không nghi ngờ. Nay Cổ Lai sai người đến thỉnh phong, hỏi lý do mới biết rằng đất này bị nước ngươi chiếm cứ, số lượng trả lại chỉ bằng một phần năm. Xét việc này thì ra ngươi âm mưu thôn tính, nhưng bề ngoài thì nói rằng hòa mục lân bang thực hiện việc đại nghĩa ; phải như vậy chăng ?
Trẫm sở dĩ một mực sắc dụ ngươi, không phải có ý tư vị Chiêm Thành ; muốn ngươi thể theo ý Trẫm, đối xử cùng một lòng nhân, hòa mục lân bang, thương xót nhân dân, đó là phúc cho hai nước. Nếu không thèm nghe, không thèm biết, há không xem đến việc đời trước Chiêm Thành phục thù nước ngươi ư ! Hãy soi kỹ việc này, những người già cả tại nước ngươi chắc còn nhớ điều đó, đáng xét và suy nghĩ. Người xưa nói rằng một nước có đạo lý cậy đức chứ không cậy sức. Ngươi từ khi thụ phong đến nay không chỉ xâm đọat Chiêm Thành, mới đây giết Sứ thần tiến cống của Mãn Thứ Gia, xâm đen bọn tuỳ tùng bắt làm nô bộc ; gây oán với lân quốc, họ khống tố đến nơi, ngươi tự cho là phúc đấy ư !
Phàm
sợ trời, giữ nước,
sợ kẻ lớn, thương người nhỏ
; các bậc hiền triết đều làm, sao ngươi không lo làm việc đó.
Khi sắc tới ngươi nên nghĩ đến
việc đoàn kết, hữu nghị với
lân quốc, trả hết đất đai cũ
cho Chiêm Thành, đời đời nối
dõi, không đến nỗi tuyệt tự ;
không những sinh linh hai nước không bị
vướng vào họa binh đao, mà tiếng
tốt của ngươi được để
lại trong sử sách, con cháu mãi
hưởng ân trạch vô cùng. Hãy
thực hành kỹ việc này, đừng
để hối hận về sau. (Minh Thực Lục
v. 48, trang 3795-3798; Hiến Tông q. 219, t. 6a-7b)
Khi nhà Minh được yêu
cầu đến phong vương cho Tề Á
Ma Vật Yêm, theo thông lệ Sứ giả
đến kinh đô Chà Bàn thì
không thấy viên này tại đây,
bèn phong vương cho một người khác
tên là Ðề Bà Ðài Giả
do An Nam lập nên. Phe Ðề Bà Ðài
Giả tâu với Sứ giả rằng Tề
Á Ma vật Yêm đã bị Cổ Lai
giết ; trong khi đó Cổ Lai xác nhận
rằng y là em của Tề Á Ma Vật
Yêm và được truyền ngôi sau
khi anh chết. Ai đúng ai sai không cần
đi sâu vào, duy qua sự kiện có
thể khẳng định rằng phần đất
thuộc nước Chiêm Thành mới nằm
ở phía nam ; riêng tại Quy Nhơn An Nam
đã lập một nước khác mà
người đứng đầu là Ðề
Bà Ðài Gỉả. Chiếu theo sử
nước ta, phải chăng tên của nước
này là Hoa Anh, một trong ba nước mà
vua Lê Thánh Tông đã lập. Riêng
nước thứ 3 được gọi là
Nam Bàn thì Cương Mục (14) cho biết
tại đất Hoả Xá, Thuỷ Xá
tức thuộc các tỉnh Gia Lai, Kôn Tum,
Ðắc Lắc hiện nay :
Ngày 15 tháng 10 năm Thành Hoá thứ 17 [6/11/1481]
Hành
nhân Trương Cẩn,
thuộc Hữu phó ty, đi sứ Chiêm
Thành ; mắc tội bị hạ ngục. Trước
đó Cẩn cùng Cấp sự Phùng
Nghĩa phụng mệnh mang sắc ấn phong Vương
cho cháu Quốc vương Chiêm Thành
Tề Á Ma Vật Yêm. Bọn chúng mang
nhiều hàng hóa để bán kiếm
lời ; khi đến Quảng Đông nghe tin Tề
Á Ma Vật Yêm đã chết, người
em là Cổ Lai sai bọn Cáp Na Ba đến
xin phong. Nghĩ rằng về không sẽ mất
lời, bèn đi vội đến Chiêm
Thành.Người Chiêm Thành cho biết
sau khi người cháu xin phong bị Cổ Lai
giết, An Nam ban sắc ngụy lập Đề
Bà Đài Giả nắm quyền quốc
sự. Bọn Cẩn không đợi mệnh
của triều đình, mang ấn trao cho Đề
Bà Đài Giả, phong làm Vương.
Bọn chúng được hối lộ hơn
100 lạng vàng, rồi đi qua Mãn Thứ
Gia [Melaka] bán
hết hàng hóa để
trở về. Nghĩa chết trên đường
vượt biển. Cẩn trình sự việc
và nạp sắc ngụy lên triều đình.
Bộ Lễ hặc tội Cẩn tự tiện
phong tước, đáng tội hình, bèn
ra lệnh giam tại vệ Cẩm Y để điều
tra, biết được lời khai như trên.
Quan tòa kết vào tội đại thần
tự tiện tuyển quan, xử chém. Lúc
bấy giờ Sứ giả Chiêm Thành Cáp
Na Ba tại quán dịch bộ Lễ, trả
lời qua Thông dịch rằng Cổ Lai chính
là em của Vương, Tề Á Ma Vật
Yêm chết vì bệnh không phải bị
giết, người được gọi là
Đề Bà Đài Giả thì không
biết đó là ai. Bèn ra lệnh Cáp
Na Ba tạm trở về Quảng Đông, lệnh
quan chức địa phương lấy lễ ưu
đãi. Đợi sứ tạ ơn của
Đề Bà Đài Giả đến ;
thẩm xét phải trái rồi có cách
đối xử riêng. (Minh Thực Lục
v.
48, q. 3807-3808; Hiến Tông q.220, tr. 4a-4b)
Vua Hiến Tông nhà Minh muốn
làm sáng tỏ việc hai nước Chiêm
Thành xin phong tước, nên lưu giữ
Sứ giả của Cổ Lai trên một năm
nhắm chờ Sứ giả của Ðề Bà
Ðài Giả đến để đối
chất. Nhưng chờ lâu không gặp, bèn
cho tạm trở về nước :
Ngày 16 tháng 9 năm Thành Hóa thứ 18 [27/10/1482]
Mệnh
cấp cho Sứ thần Ha La
Sa của Cổ Lai nước Chiêm Thành
thuyền đi biển để trở về
nước. Bọn Ha La Sa trú tại Quảng
Đông đợi Sứ thần Đề Bà
Đài đến tạ ân, để đối
chứng việc Trương Cẩn tự tiện
phong tước. Đợi đã hơn một
năm, lại không chịu được rét
nên trình lên Giám sát Ngự sử
Vương Biện, rồi viên này tâu
lên, bộ Lễ lại tấu tiếp. Lệnh
cho tạm trở về nước này, đợi
khi Đề Bà Đài sai người đến
tạ ơn, lại đến kinh đô để
đối mặt làm chứng; nên có
mệnh này. (Minh Thực Lục
v. 48, t. 3962;
Hiến Tông q.232, t. 3b)
Vì không muốn có hai nước
Chiêm Thành do An Nam lập nên, nên vua
Hiến Tông mệnh Cổ Lai khuyến dụ
Ðề Bà Ðài Giả trả lại
ấn :
Ngày 7 tháng 7 năm Thành Hoá thứ 20 [28/7/1484]
Sắc dụ Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai hãy phủ dụ Đề Bà Đài ; lệnh nạp ấn Quốc vương Chiêm Thành trước kia đã trao cho y. Tha tội cho Đề Bà Đài đã nhận sắc phong ngụy của An Nam ; lệnh cho làm Đầu mục của nước này. (Minh Thực Lục v. 49, t. 4289-4290; Hiến Tông q. 254, t. 2a-2b)
Cuối cùng thì Sứ giả
của Ðề Bà Ðài Giả đến
Trung Quốc. Nhân dịp này nhà Minh sắp
xếp một kế hoạch mới, cho sứ giả
của Ðề Bà Ðài Giả về
trước báo tin sẽ phong Vương cho Cổ
lai, rồi sai Cấp Sự trung Lý Mãnh
Dương làm Chánh sứ chuẩn bị
sang phong :
Ngày 5 tháng 8 năm Thành
Hóa thứ 20 [25/8/1484]
Ban
cho người Đề Bà Đài
sai đến gồm bọn cháu là Ba La
Chất, Phó sứ Man Đê, Thông sự
Mai Giả Lượng, lụa thải, đoạn
có sai biệt. Trước đó Đầu
mục Đề Bà Đài được
phong nhầm làm Quốc vương, sai bọn
Ba La Chất đến tạ ơn ; biểu văn
và sản vật địa phương đã
được lệnh trả lại. Bọn Ba La
Chất [Bọn Sứ giả] dâng
biểu
rằng cô độc, nghèo, xin ban cho y phục.
Bộ Lễ tâu rằng kẻ từ hải
ngoại xa xôi đến, xin xét được
gia ơn. [Thiên tử] chấp
nhận. (Minh
Thực Lục v. 49, t. 4305-4306; Hiến Tông q.
255, t. 1a-1b)
Ngày 17 tháng 8 năm Thành Hoá thứ 20 [6/9/1484]
Sai Hộ Khoa Cấp sự trung Lý Mãnh Dương sung Chánh sứ ; Hành nhân Diệp Ưng thuộc ty Hành nhân sung Phó sứ mang chiếu thư cùng lễ vật phong cho em Quốc vương Chiêm Thành Tề Á Ma Vật Yêm là Cổ Lai làm Quốc vương Chiêm Thành. Bọn Mãnh Dương tâu rằng :
“ Chiêm Thành bị Đề Bà Đài chiếm cứ lâu rồi, vậy trước khi làm lễ phong nên cho Sứ giả của Đề Bà Đài trở về nước, loan báo việc triều đình định phong cho Cổ Lai, để dân chúng yên lòng ; người cháu của Vương cũ do Đề Bà Đài đưa đến tạ ơn, rồi bị lưu lại làm con tin tại Quảng Đông cũng nên cho về luôn. Bọn thần định khi thuyền làm xong, thuận gió, sẽ đến nơi Cổ Lai trú đóng để tuyên đọc sắc văn.”
Thiên
tử họp đình thần
bàn bạc và chấp thuận. (Minh Thực
Lục v. 49, t. 4308-4309; Hiến Tông q. 255, t.
2b-3a)
Nhân nhờ lời khai của các
Sứ giả Chiêm Thành, nên Hành
nhân Trương Cẩn trước kia phong nhầm
cho Ðề Bà Ðài Giả được
xét tha tội chết rồi biếm trích
làm lính thú tại Quảng Tây :
Ngày 5 tháng 10 năm Thành Hóa thứ 20 [24/10/1484]
Tha cho Ty phó thuộc ty Hành
nhân Trương Cẩn tội chết ; đày
làm lính thú tại vệ biên giới
thuộc Quảng Tây. Cẩn đi sứ Chiêm
Thành, tự tiện phong Đề Bà Đài
làm Quốc vương, bị xử chém.
Bèn 5 lần dâng lời tâu lên để
biện minh, nên được xét tha cho
tội chết, biếm trích làm lính
thú. (Minh
Thực Lục v. 49, t. 4341; Hiến
Tông q. 257, t. 3a)
Rồi một biến cố xảy
ra, con Cổ Lai giết Ðề Bà Ðài
Giả. Có lẽ hành động này
phá hư kế hoạch chia nhỏ nước
Chiêm Thành của vua Lê Thánh Tông,
nên An Nam mang quân đến biên giới
đòi cho được mạng sống của
Ðề Bà Ðài Giả. Lời đe
dọa như là một tối hậu thư,
Cổ Lai lâm vào bước đường
cùng phải đem hơn 1000 bộ hạ đến
lưu vong tại Trung Quốc :
Ngày 12 tháng 11 năm Thành Hóa thứ 22 [7/12/1486]
Bọn Giám sát Ngự sử Tuần Án Quảng Đông Từ Ðồng Ái tâu :
“ Con Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai đánh giết ngụy vương Đề Bà Đài, do Giao Chỉ đặt lên. Giao Chỉ giận, mang binh đến biên giới đòi cho được mạng sống của Đề Bà Đài. Cổ Lai sợ hãi, mang Vương phi, cháu Vương, bộ lạc hơn 1000 người, cùng sản vật địa phương vượt biển đến Nhai Châu, Quảng Đông.”
Sự việc đưa xuống bộ Lễ bàn, rồi Thiên tử phán :
“ Cổ Lai trong lúc tàn bại, còn chút hơi thừa, vượt qua vạn dặm, mang quyến thuộc đến quy phụ Trung Quốc ; tình cũng đáng thương. Nay lệnh cho các quan Tổng binh, Trấn thủ, Tuần phủ lưu tâm an ủi, ban cho lương thực, chọn chỗ thích hợp để cư trú, không để đến chỗ đói khát. Vẫn ra lệnh nghiêm nhặt canh phòng biên giới.” (Minh Thực Lục v. 50, t. 4806; Hiến Tông q. 284, t. 3b)
Nhà Minh không muốn Cổ Lai cùng bộ hạ lưu tại Trung Quốc lâu, nên chưa đến một năm sau sai Hữu Ðô Ngự sử Ðồ Dung đến Quảng Ðông thu xếp. Sau khi thương lượng, Dung tâu lên rằng Cổ Lai xin được phong chức tại Quảng Ðông rồi hộ tống về nước. Về lãnh thổ Cổ Lai xác nhận nguyên có 8 châu 25 huyện bị An Nam chiếm tất cả [1471] sau đó Chiêm Thành tố cáo với triều đình nhà Minh nên An Nam trả lại 4 châu 5 huyện, sau đó lấy ra 1 châu 3 huyện giao cho Ðề Bà Ðài Giả [Hoa Anh? ] ; nay Chiêm Thành [nước Chiêm Thành mới] chỉ còn 3 châu, 2 huyện. Có lẽ vì lý do này nên khi Hành nhân Trương Cẩn đến thành Chà Bàn phong vương [1481], đã phong nhầm cho Ðề Bà Ðài Giả.
Ngoài ra để việc hộ
tống Cổ Lai về nước khỏi bị
An Nam cản trở, vua Hiến Tông đã
gửi văn thư trách vấn việc làm
của An Nam :
Ngày 13 tháng 10 năm Thành Hoá thứ 23 [29/10/1487]
Phong Vương cho con Quốc vương Chiêm Thành, Cổ Lai, tại Quảng Đông rồi hộ tống về nước và sắc cho nước An Nam trả đất xâm chiếm. Trước kia sai Cấp sự trung Lý Mãnh Dương, Hành nhân Diệp Ưng làm Chánh Phó sứ đến Chiêm Thành sắc phong. Nhưng chưa tới nơi thì Cổ Lai bị An Nam xâm đoạt nên bỏ nước, hàng hải đến Quảng Châu và định đến triều đình tố cáo. Tuần phủ, Đô ngự sử trình lên, bèn sai Đô sát viện Nam Kinh Hữu Đô ngự sử Đồ Dung đến Quảng Đông để thu xếp việc nên làm. Dung đến nơi, rồi tâu lên rằng :
“ Theo lời xưng của Cổ Lai, thì nước đó nguyên có 8 châu, 25 huyện, bị An Nam thôn tính tất cả. Vào năm Thành Hóa, người Chiêm Thành đến tố cáo với triều đình, nên được An Nam trả lại các xứ Bang Đô Lang, Ma Na Lý, 4 châu, 5 huyện. Sau đó Đầu mục Chiêm Thành Đề Bà Đài làm phản theo An Nam ; An Nam bèn cho y 1 châu, 3 huyện ; Chiêm Thành chỉ còn 3 châu, 2 huyện. Nay Đề Bà Đài đã chết, An Nam đòi cho được mạng sống của y, ý đồ lấy hết đất như Bang Đô Lang và lập con của Đề Bà Đài làm Vương. Sau đó Lũ Ma, con Cổ Lai, cùng Đầu mục Vạn Nhân Phương cố thủ để đợi. Ý của Cổ Lai muốn được thụ phong tại Quảng Đông, xin bộ binh tống về nước, lại xin văn thư công nhận cương thổ để được an toàn. Bọn Thần muốn lời xin được chấp thuận, xin mệnh bọn Mãnh Dương đến nơi này sắc phong, đến mùa đông sai quan võ hộ tống trở về nước. Bọn Mãnh Dương không cần phải thân hành đến đó. Lại xin sắc cho An Nam trả lại đất đã xâm lấn.”
Bộ Binh phúc tấu đồng ý theo ; bèn ban cho Quốc vương An Nam Lê Hạo sắc văn như sau :
“ Mới đây được các quan coi giữ Quảng Đông tâu rằng con Quốc vương Chiêm Thành, Cổ Lai, tố cáo rằng nước này nguyên có 8 châu, thành Ban Nhược Ban [Chà Bàn ?] và 25 huyện. Vào năm Thành Hóa thứ 7 [1472] nước ngươi mang binh chiếm hết số đất nêu trên. Vào tháng 3 năm Thành Hóa thứ 13 [1477] trả lại 4 châu, 5 huyện trong đó có Bang Đô Lang, Mã Na Lý. Rồi đem 1 châu 3 huyện trong đó có Mai Đả Lý, Bôn Để Ba Để cho tên Đầu mục phản phúc Đề Bà Đài. Sau đó lại ngầm ra lệnh Đề Bà Đài mang binh tìm giết Cổ Lai ; nên bị Cổ Lai bộ hạ giết chết. Bọn ngươi lại sai Đầu mục mang quân bức phải trả lại Đề Bà Đài sống. Vì lý do đó Cổ Lai quẫn bách, mang gia thuộc vượt biển từ xa đến tố cáo. Lại tra xét lời các ngươi trước đây tâu rằng đất đai Chiêm Thành do Thổ tù nước đó tranh giành cát cứ ; nay xét lại lời tố cáo của Cổ Lai thì ra các ngươi chiếm đoạt rồi đuổi họ đi. Nếu không vậy thì làm sao Cổ Lai lâm vào cảnh lưu ly đến như vậy. Nhưng nước ngươi vốn xưng lễ nghĩa, há lại ngoài mặt làm vẻ thiện, nhưng ngầm trong chứa điều ác, chỉ trang sức trên văn từ, trên thì thiếu lòng trung thờ nước lớn, dưới thì mất nghĩa hòa mục với lân bang. Hoặc giả Vương không biết, nhưng ở dưới quan phòng thủ, Đầu mục, đảng nghịch gây oán ; che giấu mọi điều đến như vậy ư ! Ty Bố chánh Quảng Đông đã thông báo cho nước ngươi, nhưng vẫn chưa nhận được phúc đáp. Nay nhân sứ trở về, đặc mệnh ban sắc cho Vương hãy đem lòng giúp đỡ kẻ hoạn nạn để đáp ứng với ý muốn phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt của triều đình ; nghiêm khắc cấm chỉ những người phòng giữ biên giới cậy mạnh hiếp người yếu, gây điều độc ác ; lấy 8 châu, 25 huyện, phía ngoài núi Mao Lãnh trả lại cho Cổ Lai, tạo nên sự hòa mục giửa lân bang, cùng chung hưởng thái bình.
Chẳng
phải riêng việc Chiêm
Thành, quan trấn thủ Vân Nam cũng mấy
lần tâu rằng tên Thổ quan nước
ngươi tên là Đèo Chúc, đánh
phá 5 bang và các trại tại Man My,
giả xưng danh hiệu chủ nhân châu
Ninh Viễn, nhiễu hại biên dân, đã
bị quan binh đánh đuổi. Nhưng niềm
lưu luyến của nó chưa dứt, rồi
sẽ có ngày trở lại. Vương
nên gia tâm kiểm soát ; sai người
bắt Đèo Chúc và gia thuộc câu
lưu ; phải đem chúng ra pháp luật,
không được che chở. Nếu nó
còn bí mật đến, xưng danh hiệu
giả, thì cái mà ngươi tự
cho là trung nghĩa không còn nữa.
Những sự việc này người hãy
hồi tấu để thấy được
lòng thành của ngươi. Nếu không
ngay thẳng, vu khống, thì đạo trời
làm phúc được thiện, họa
đến cho kẻ ác ; Vương hãy nên
lo xét. Khâm thử ! (Minh Thực Lục
v.
51, t. 79-82; Hiếu Tông q. 4, t. 13a-14b)
Sau khi được về nước
an toàn, Cổ Lai lại sai em sang tố cáo
An Nam. Nhưng lần này thì nhà Minh từ
chối không muốn can thiệp thêm, lấy
lý do rằng An Nam đã chịu để
yên không mang quân đánh lại Cổ
Lai :
Ngày 13 tháng 10 năm Hoằng Trị thứ 2 [5/11/1489]
Quốc vương Chiêm Thành trở về nước, lại sai em là bọn Bốc Cổ Lang thông báo cho quan Đại thần coi giữ Lưỡng Quảng rằng :
“ An Nam vẫn còn chiếm cứ, không có chỗ để ở. Xin như thời Vĩnh Lạc [1403-1424], mang binh che chở.”
Trấn thủ Thái giám Vi Tái, Tuần phủ Đô ngự sử Tần Huyền hợp tấu thỉnh ý. Sự việc đem xuống bàn, bộ Binh tâu tiếp như sau :
“ An Nam và Chiêm Thành vị trí nơi bờ biển hoang tịch, đời đời triều cống, tổ tiên có di huấn là những nước không nên chinh phạt. Mới đây Cổ Lai mang gia quyến đến Quảng Đông ; triều đình đã giáng sắc cho An Nam lệnh xem xét xót thương, nhưng đến nay chưa nhận được lời tâu trở lại. Còn việc thời Vĩnh Lạc sai tướng mang quân đi chinh phạt là do Lê Quý Ly thoán đoạt giết vua, không phải là do sự xâm lấn nước láng giềng. Mới đây Lê Hạo lo việc triều cống rất cẩn trọng, nhưng Cổ Lai tố cáo nặng nề ; như vậy cũng có phần quá đáng. Nếu chỉ căn cứ lời một bên, rồi mang binh mạo hiểm vượt biển để đánh kẻ không đáng đánh, thì sai với đạo mềm dẻo với nước xa xôi. Nên lệnh các quan Trấn thủ báo lại cho Cổ Lai rằng :
Trước đây Quốc vương đến tố cáo với triều đình, đã mệnh quan Đại thần giúp đỡ săn sóc đầy đủ. Bây giờ hộ tống người của Vương trở về xong. Sự tình được biết người Giao giết con của Vương là Cổ Tô Ma, Vương mang binh đánh bại chúng, sự rửa thù đã xong ; sau đó không thấy An Nam mang quân đến đánh nước của Vương. Đất của Vương trước kia mất nay đã lấy lại được ; bộ lạc của Vương đã tan nay đã tụ lại được ; đó là nhờ uy của Thiên triều mới được như vậy. Nay lại kêu An Nam muốn chiếm đoạt đất trước kia ; An Nam vốn xưng là nước biết lễ nghĩa ; há lại hôn ám chuốc lấy sự sai trái. Nay viên quan phòng thủ nước ta trình lời của Vương lên triều đình, mà lời hồi tấu của An Nam thì chưa đến, sự kiện chưa rõ ràng minh bạch ; lại e Vương oán xưa chưa bỏ được, nói quá sự thực ; ta không thể chỉ nghe riêng một bên mà quyết định.
Khi
lời tâu của An Nam đến,
ta sẽ xem xét, rồi báo cho ngươi
hay. Vương hãy tự tín, điều
hành quản trị, an ủi nhân dân và
bảo vệ đất đai. Vương cũng
nên tìm cách nối lại bang giao tốt
với An Nam, quên hết đi những sự
nghi ngờ. Từ xưa đến nay, không có
một nguyên tắc nào cho nhà cai trị
không tự tin ở mình, lại cầu xin
triều đình mang quân đi đến
từ miền xa xôi để bảo vệ họ.
Sắc dụ của Thiên tử sẽ giao cho
Bốc Cổ Lang, y cũng được thưởng
quà, rồi mang về nước. (Minh Thực
Lục v. 52, tr. 694-696; Hiếu Tông q. 31, tr. 7b-8a)
Cổ Lai lại tiếp tục tố
cáo An Nam xâm chiếm đất đai, tịch
thu đồ vật do triều đình ban cho
nên xin mang quân cứu giúp ; nhưng triều
đình nhà Minh cũng không có phản
ứng rõ rệt :
Ngày 21 tháng 5 năm Hoằng
Trị thứ 3 [8/6/1490]
Quốc
vương Chiêm Thành
Cổ Lai sai người em là Bốc Cổ
Lang cống sản vật địa phương,
cùng tâu Quốc vương An Nam xâm
chiếm đất đai, cho người chặn
lấy những đồ vật như lụa nõn
trong ngoài do triều đình ban cho, xin đưa
quân đến cứu giúp. Mệnh đưa
xuống các ty có trách nhiệm hay
biết. (Minh Thực Lục
v. 53, tr. 812; Hiếu
Tông q. 38, tr. 6b)
Từ địa vị một người
lưu vong tại Trung Quốc, lại được
trở về nước an toàn, không bị
An Nam hăm dọa tiêu diệt, như việc
trước kia đã đòi hỏi phải
trả lại người sống của Ðề
Bà Ðài Giả ; nên Cổ Lai cho Sứ
thần sang tạ ơn triều đình nhà
Minh và cả Hữu Ðô Ngự sử Ðồ
Dung :
Ngày 26 tháng 7 năm Hoằng Trị thứ 3 [11/8/1490]
Đô sát viện Hữu Đô ngự sử Đồ Dung phụng mệnh đến Quảng Đông sắp xếp sự việc về Chiêm Thành đã trở về. Quốc vương nước này, Cổ Lai, sai Sứ thần bọn Ban Bả Để đến tạ ơn triều đình ; lại còn mang phẩm vật tặng Đồ Dung. Có chỉ dụ bảo Dung nhận, Dung từ chối, nhưng không được chấp thuận. Dung bèn dâng sớ rằng :
“ Thần trước đây quyền nghi xử trí công việc, tuy hết sức làm, có được chút hiệu quả bởi tuân theo chỉ thị của triều đình, do sự tính toán của Hoàng thượng. Nay Chiêm Thành từ chổ diệt vong mà phục hưng, đều do uy đức của Hoàng thượng, còn Thần thì chẳng có sức lực gì ! Đáng cho Cổ Lai và con cháu đời đời báo đền công đức của triều đình, sao lại phải tạ ơn Thần ! Vả lại Thần ở địa vị đứng đầu hiến quan, phong cách đòi hỏi phải trọng kỷ luật ; nếu cẩu thả nhận đồ tặng, sau này sự việc sẽ đưa ra thiên hạ, truyền xuống hậu thế. Việc này không phải là điều vinh cho Thần, mà lại lụy đến danh tiếng của triều đình, nên đồ lễ vật này Thần không dám nhận. ”
Thiên
tử chấp nhận lời
tâu, lúc bấy giờ Sứ thần Chiêm
Thành trở về chưa xa ; bộ Lễ xin
sai người đuổi theo mang đầy đủ
lễ vật trả lại cho Chiêm Thành,
để vua tôi nước ngoài biết
được phong cách tự xử của vị
Đại thần. Thiên tử chấp thuận.
(Minh
Thực lục v. 53, tr. 845. Hiếu Tông q.
40, tr. 9a)
Cổ Lai vẫn tiếp tục đòi
hỏi nhà Minh can thiệp. Sự việc trải
qua những cuộc bàn cãi sôi nổi,
cuối cùng đành phài chấp nhận
lời phân tích đầy tính thuyết
phục của Ðại học sĩ Từ Phổ
Cảnh “ Nay nếu nếu
giáng sắc,
sai quan đến nước xa xôi này cũng
chỉ phí lời, khó mà thi triển
uy lực của triều đình, mặt khác
hải đảo rộng mênh mang không có
cách gì khám xét đất đai ;
hơn nữa làm sao An Nam có thể tự
động cải hối, bỏ cả mối lợi
hàng mấy chục năm của chúng !
Nhỏ thì che giấu lỗi lầm, lớn thì
chống cãi lại ; như vậy Sứ thần
không thể thi hành lệnh của triều
đình, tướng không thể dương
oai nơi cõi ngoài, chỉ làm giảm
quốc thể, gây sự nguy hại cho địa
phương. Đến lúc đó, thì
xử sự ra sao đây ? Nếu bỏ qua mà
không hỏi đến, thì tổn thương
uy danh ; đem sự việc ra hạch hỏi thì
phải hưng binh , mối lo lại càng lắm !
”. Vua Hiếu Tông đành chấp nhận
bỏ qua :
Ngày 28 tháng 10 năm Hoằng Trị thứ 8 [14/11/1495]
Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai tâu rằng nước này bị An Nam chiếm đất, giết người. Tuy được triều đình giáng sắc dụ phải hòa mục, nhưng An Nam ngoài mặt ra vẻ thuận tòng, còn âm mưu thì ác độc không ngừng. Nên sai cháu là Sa Cổ Tính đến kinh khuyết xin Đại thần đến nơi để giảng hòa, lời tâu rất bi ai. Sự việc đưa xuống để đình thần tập hợp bàn bạc, lời bàn cho rằng từ xưa chưa có lệ sai quan Đại thần ra nước ngoài để hòa giải giửa các Di. Xin giao Lưỡng Quảng gửi văn thư cho An Nam, dụ phải hòa mục với lân bang, hoàn lại đất đã xâm chiếm. Cùng sắc dụ Cổ Lai chăm sóc nhân dân, tu luyện võ bị, để làm kế lâu dài. Khi sự việc đã yên, lệnh hai nước trình bày đầy đủ sự thực rồi tâu lên.
Lời bàn được dâng lên, ý Thiên tử muốn sai quan Đại thần đi xem xét. Đại học sĩ Từ Phổ Cảnh tâu :
“ Nước Chiêm Thành xin sai Đại thần đến nước họ, bảo An Nam trả lại hết tất cả đất đai đã xâm chiếm ; các nha môn hai lần hội nghị đều cho rằng không nên làm như như vậy. Bộ Lễ được yêu cầu nêu rõ vấn đề rằng Thánh Thiên tử muốn sai quan đến dụ ; nhìn lên thấy được Thánh ý đối xử chung một lòng nhân không phân biệt Di Hạ (15) ; tuy nhiên bọn Thần phân tích bằng sự lý, thấy sách Xuân Thu (9) dạy “ không cai trị Di” (bất trị Di) ; vì rằng sự chế ngự Di Địch và cai trị trong nước không giống nhau. An Nam tuy tuân phụng theo lịch Chính Sóc, làm tròn chức cống, nhưng vốn là ngoại Di ; cậy hiểm và sức mạnh, thường làm chuyện xâm nhiễu ngoài vòng trật tự ; các triều đại trước cũng thường bỏ qua. Còn nước Chiêm Thành kia thì quá nhỏ mà sơ viễn ; bọn Thần kính cẩn xem xét lời dạy của tổ triều Minh rằng Chiêm Thành và một vài nước khác triều cống lại đưa hàng đến bán, có nhiều sự gian trá nên từ năm Hồng Vũ thứ 8 (1375-1376) bị cấm, mãi đến năm Hồng Vũ thứ 12 (1379-1380) mới được triều cống trở lại. Sau đó vào năm Thành Hóa thứ 7 (1471-1472) bị An Nam xâm chiếm, mấy lần đến tố cáo. Hiến Tông Hoàng đế mấy lần sắc Tổng trấn Lưỡng Quảng, Đô ngự sử khu xử. Nhưng An Nam khẳng định rằng họ đã trả lại đất ; thực ra thì chúng không khai thực và không chịu nhận tội.
Nay nếu nếu giáng sắc, sai quan đến nước xa xôi này cũng chỉ phí lời, khó mà thi triển uy lực của triều đình, mặt khác hải đảo rộng mênh mang không có cách gì khám xét đất đai ; hơn nữa làm sao An Nam có thể tự động cải hối, bỏ cả mối lợi hàng mấy chục năm của chúng ! Nhỏ thì che giấu lỗi lầm, lớn thì chống cãi lại ; như vậy Sứ thần không thể thi hành lệnh của triều đình, tướng không thể dương oai nơi cõi ngoài, chỉ làm giảm quốc thể, gây sự nguy hại cho địa phương. Đến lúc đó, thì xử sự ra sao đây ? Nếu bỏ qua mà không hỏi đến, thì tổn thương uy danh ; đem sự việc ra hạch hỏi thì phải hưng binh, mối lo lại càng lắm. Hãy nghiền ngẫm những lời giáo huấn của tổ tiên :
“ Di Địch bốn phương, cách núi ngăn biển, riêng biệt một góc trời ; có được đất đó không đủ cung cấp cho nhu cầu, có được dân đó không đủ để sai khiến. Nếu chúng đến quấy phá biên giới của ta, tự nó sẽ gặp điều không lành ; nếu nó không làm hại đến Trung Quốc, mà ta khinh suất mang quân đi chinh phạt cũng là làm điều không lành vậy. Ta sợ con cháu sau này, ỷ thế Trung Quốc cường thịnh, tham chiến công nhất thời, mang quân đi đánh gây thương tổn thất chết chóc ; điều đó không được phép làm.”
Lời Thánh Thiên tử đáng làm khuôn phép vạn đời. Cho dù hiện nay kế hoạch quốc gia hư thực như thế nào, binh lực mạnh yếu ra sao; thì việc hao phí tài nguyên không kể hết, để tranh dành mảnh đất cằn cỗi cây cỏ không mọc được, là việc làm vô ích, càng không thể làm ! Như việc Cáp Mật (16) bị Thổ Phiên xâm đọat trong hai ba mươi năm ; mang quân khiển tướng, giành đi giành lại đến nay vẫn chưa yên. Bọn Thổ quan các xứ thù nghịch nhau, không thể lấy Vương pháp mà cấm đoán được ; vì thế việc bọn chúng đánh nhau là sự thường tình.
Nay Chiêm Thành danh hiệu vẫn như xưa, triều cống cũng không khác ; việc bị xâm đọat có hay không, thực hay dối trá, vẫn chưa biết rõ. Tuy tình cảnh đáng thương, nhưng về lý không nên can thiệp đến cùng. Nay quan ty chỉ dùng văn thư hiểu dụ cũng được rồi ; hà tất phải nhân danh Thiên tử sai quan Đại thần đi khám. Huống việc đại sự của triều đình không thể không hỏi quần thần. Nay mọi người đều một lòng tâu là không nên, nhưng chỉ nói chung về sự lý, chưa trình bày hết về lợi hại được mất. Bọn Thần ở địa vị thân cận, là kẻ tâm phúc, nếu không trình bày hết, vạn nhất việc xấu nảy sinh, thì đến chết cũng không chuộc hết tội. Bởi vậy không nề rờm lời khó nghe ; trình bày những vấn đề liên quan đến Hoàng thượng, xã tắc, sinh dân ; chứ không phải muốn về hùa với đám đông. Nếu như thời thế có thể làm được, sự việc không gây tai hại, bọn Thần đáng phải giúp Hoàng thượng ; đâu dám dâng lên những lời trái tai này.”
Thiên
tử nghe lời, bèn theo
lời bàn của quần thần. (Minh Thực
Lục v. 55, tr. 1922-1925; Hiếu Tông q. 105, tr.
6b-8a)
Tiếp đến qua một biểu
văn khác, Cổ Lai xin cho con trưởng thay
chức và xác nhận chưa lấy được
cảng Tân Châu [Thị Nại]. Trong khi đó
An Nam khẳng định rằng “ ngoài
4
châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đều do
Thổ tù cát cứ, nước tôi
hoàn toàn không can thiệp ” ; như
vậy có thể hiểu vùng cảng Tân
Châu vẫn do con cháu Ðề Bà Ðài
Giả trông coi, An Nam chỉ kiểm soát
theo lối ky my (17) :
Ngày 21 tháng 6 năm Hoằng Trị thứ 12 [28/7/1499]
Quốc vương Chiêm Thành Cổ Lai tâu rằng :
“ Vùng cảng Tân Châu của bản quốc đã bị An Nam xâm đoạt từ lâu, chúng cướp giết nhân dân, mối lo chưa hết. Nay Thần già lão, khi chưa chết muốn cho con trưởng là Sa Cố Bốc Lạc được nối ngôi, mong ngày sau có thể giữ được đất tại cảng Tân Châu.”
Thiên tử mệnh bộ Lễ, bộ Binh họp lại để bàn bạc, rồi cả hai bộ đều trình lên rằng :
“ An Nam gây hại tại Chiêm Thành không phải mới xẩy ra trong một ngày, triều đình thường nhân Chiêm Thành tố cáo bèn gửi tỷ thư chỉ dạy, lại sai Thủ thần lấy đại nghĩa trách vấn, giảng điều họa phúc ; nhưng An Nam trước sau tâu lên đều xưng rằng :
“ Đã tuân theo mệnh lệnh của triều đình, trả lại hết tất cả đất đai và nhân dân ; ngoài 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đều do Thổ tù cát cứ, nước tôi hoàn toàn không can thiệp.”
Nhưng An Nam vừa mới đưa lời biện bạch thì Chiêm Thành lại tố cáo ; khó biết được đâu là thật tình. Xin lệnh Thủ thần gửi văn thư nghiêm khắc dụ An Nam chớ tham dân và đất đai sẽ gây nên họa hoạn, nếu không tuân sẽ bàn định mang quân đi hỏi tội. Về việc con trưởng của Vương Chiêm Thành, thì khi cha còn sống không có lý được phong thế tập, hãy lập lên làm Thế tử để coi việc quốc sự ; sau này như lệ định sẽ phong thế tập.”
Điều này được chấp thuận. (Minh Thực Lục V. 27, tr. 2674-2675; Hiếu Tông q. 151, tr. 8b-9a)
Năm 1505 con Quốc vương Cổ
Lai lại sai sứ sang nhà Minh xin phong, lần
này xác nhận địa điểm Sứ
giả đến tại Tân Châu [cảng
Thị Nại], như vậy nước Chiêm
Thành mới đã lấy lại được
phần đất của nước Hoa Anh. Tuy
nhiên nhà Minh lấy cớ Chiêm Thành
chưa sai sứ đến cáo ai (18), nên
viện cớ từ chối :
Ngày 17 tháng 6 năm Hoằng Trị thứ 18 [17/7/1505]
Con Quốc vương Chiêm Thành Sa Cố Bốc Lạc sai sứ Sa Bất Đăng Cổ Lỗ đến cống sản vật địa phương, xin Đại thần đến nước này, vẫn tại các xứ cảng Tân Châu, phong tước ; nhưng không tâu rõ về việc cha y đã mất, lại nói qua về số đất bị chiếm đọat. Bọn Cấp sự trung Nhiệm Lương Bật tâu rằng :
“ Việc thỉnh phong cần phải xem xét kỹ. Lời di huấn của Hoàng tổ (Minh Thái Tổ) cho rằng Chiêm Thành triều cống mang thương nhân đi theo, nhiều trí trá, cần ngăn cấm. Đến thời Thái Tông có việc tại An Nam, nước này với Chiêm Thành như môi với răng, nên bắt đầu đi lại phong tước. Tuy nhiên thời gian triều cống so với Triều Tiên, An Nam thì không giống. Mới đây nước này suy nhược ; nên mượn việc cống tiến, sắc phong để báo động lân quốc rõ ; kỳ thực Quốc vương nước này lập hay không, không lệ thuộc vào việc phong tước, hay không phong của triều đình. Trước đây Cổ Lai đã xin phong cho Sa Cố Bốc Lạc nhưng chưa được chấp thuận, nay lại xưng Cổ Lai đã mất, thực hư khó biết. Vạn nhất nếu Sứ giả đến, Cổ Lai vẫn còn sống, lại phong cho người con ư ? Hoặc xét điều nghĩa không thể được, nên từ chối, rồi xẩy ra hiếp bách ; nếu sự việc đến thì thật khó xử ! Như trước đây Cấp sự trung Lâm Tiêu đi sứ, vua Mãn Thứ Gia [Melaka] không chịu hướng về phương bắc quì lạy, bắt Sứ giả giam đói ; nhưng không thể mang quân đi hỏi tội ; mệnh vua, quốc thể, thực lấy làm đáng tiếc !
Xét về đại thể, những nước nơi biển xa nếu vô sự thì phế triều cống, tự lập ; có việc thì mượn việc triều cống xin phong. Nay Chiêm Thành đến không phải vì việc cầu phong cấp thiết, mà thực ra muốn được An Nam trả lại đất, muốn ta trả lại những người đã trốn sang Quảng Đông. Về việc An Nam xâm chiếm đất, trước đây từng ban tỷ thư, lệnh phải trả lại đất, nếu không trả sẽ làm rõ tội. Bọn họ đoán tình thế khó xẩy ra, nên dù lời của Thiên tử đinh ninh, nhưng vẫn xâm chiếm như trước, nếu chỉ dụ tiếp đến thì họ cũng coi thường, mà uy tín của Thiên tử bị tổn thương. Nay nếu không xử trí được vấn đề lãnh thổ, lại đến phong, nếu Sứ giả bị câu lưu để chờ phân xử, không biết triều đình xử trí thế nào ? Số người chạy trốn đến Quảng Đông, bộ Binh đã gửi văn thư cho quan trấn phủ lệnh điều tra, đến nay chưa nhận được báo hồi. Nếu nhân việc này, bọn chúng câu lưu sứ giả của ta để đòi cho được người bỏ trốn, như vậy thì hóa ra Sứ giả Thiên triều bị bắt làm con tin vì những tên Di vô danh vậy. Nên đối xử như lệ trước đây, Cổ Lai đến Quảng Đông tựu phong, sai sứ đưa đến biên giới Quảng Đông, rồi mang sắc trở về nước. Bộ Hộ gửi cho quan trấn phủ Lưỡng Quảng trách vấn An Nam dụ điều họa phúc, lệnh trả hết đất xâm chiếm. Còn bọn dân Phiên bỏ trốn, nên sai quan trấn thủ phủ dụ cho trở về nước, ngõ hầu toàn vẹn chính sách nhu viễn, không tổn thương uy tín Trung Quốc.”
Sự việc đưa xuống dưới, bộ lễ họp bàn rồi tâu lên :
“ Theo lệ Quốc vương mất trước hết phải sai người trong họ đến cáo ai, nay không làm như thế. Vả lại trong tờ tấu xin phong của Sa Cổ Bốc Lạc không nói rõ năm tháng Cổ Lai mất ; vậy nên sai ty Bố chánh Quảng Đông gửi văn thư để nước này trình báo, rồi bàn xét sau.”
Thiên
tử chấp thuận. (Minh
Thực Lục v. 61, tr. 72-74; Vũ Tông q. 2, tr.
18b-19b)
Chiêm Thành lại tiếp tục
xin sai sứ đến phong, viên quan được
cử đi là Cấp sự trung Lý Quán
tìm cách thoái thác, xin phong tại
Quảng Ðông để giao cho Sứ giả
Chiêm Thành mang về. Nhưng triều đình
sợ viên Sứ giả đưa sắc phong
cho người khác, nên đòi hỏi
Lý Quán phải đi :
Ngày 13 tháng 12 năm Chính Đức thứ 7 [19/1/1513]
Trước kia Lễ khoa Cấp sự trung Lý Quán, Hành nhân Lưu Mật nhận sắc để phong cho Quốc vương Chiêm Thành Sa Cổ Bốc Lạc. Đến Quảng Đông Mật bị bệnh mất. Sai Hành nhân Lưu Văn Thụy đi thay. Thụy chưa đến, Quán tâu rằng Chiêm Thành có những năm vào đầu triều đại đã không đến cống, mới đây các quan bàn không nên đi xa để phong ; vậy xin tuyên sắc phong tại quán dịch Hoài Viễn tại Quảng Thành, cùng ban thưởng cho Vương và Phi những đồ vật ; lệnh cho Sứ giả là bọn chú Vương, Sa Hệ Bả Ma, lãnh mang về. Sự việc đưa qua bộ lễ bàn rằng Sa Cổ Bốc Lạc nước Chiêm Thành xin phong đã hơn 2 năm rồi, nay vô cớ dừng lại không phong, là sai với chế độ phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt. Nếu trong muôn một Sa Hệ Bả Ma không tuân theo, hoặc phong người khác, rồi đi đến tranh chấp, thì xử sự làm sao đây ? Xin như cũ, sai bọn Quán đến sắc tại nước này, để khỏi thất tín Di bên ngoài, mà thể chế của Trung Quốc cũng không bị tổn thất. Thiên tử chấp thuận. (Minh Thực lục v. 65, tr. 2007-2008; Vũ Tông q. 95, tr. 3a-3b)
Cuối cùng được viên
Tuần Án Quảng Ðông tâu thêm
cho Lý Quán, viện cớ rằng Thế
tử Sa Cổ Bốc Lạc con Quốc vương
Cổ Lai hiện sống trong rừng núi không
thể đến được, nên triều
đình nhà Minh quyết định ban sắc
phong tại Quảng Ðông rồi sai sứ giả
mang về :
Ngày 16 tháng 7 năm Chính Đức thứ 10 [25/8/1515]
Sứ thần Chiêm Thành bọn Lực Na Ba lãnh sắc sách phong trở về nước.
Trước đây Sa Cổ Bốc Lạc sai sứ đến thỉnh phong, sai Cấp sự trung Lý Quán mang sắc đưa đi. Quán đến Quảng Đông, xin theo lệ năm trước đây sách phong cho Cổ Lai, cho Sứ thần lãnh sách phong trở về. Đình thần bàn rằng :
“ Đã sai sứ đi trên hai năm, nay nếu dừng lại nửa chừng, thì không hợp với đạo phục hưng nước bị diệt, nối dòng bị đứt ! Nếu Sứ thần không chịu lãnh sắc phong, hoặc lãnh sắc rồi lúc trở về không trao đúng người nhận, thì lại một lần nữa gây mối tranh chấp, lấy cách gì để xử đây ? Vậy nên lệnh Quán đi gấp.”
Quán lại tâu :
“ Đi sứ nơi xa cần có hướng đạo biết đường, Thông dịch viên biết ngôn ngữ và chữ viết ; nay tất cả đều không có, xin bàn và phân xử.”
Đình thần bàn lại :
“ Lệnh các quan Tuần Phủ địa phương, bằng mọi cách tìm cho được người hướng đạo và thông dịch. Nếu không có được, chấp nhận theo lệ cũ thi hành.”
Rồi Quán lại tâu thêm :
“ Phụng mệnh đã hơn 5 năm, mấy lần dâng sớ lên nhưng chưa quyết định được cách đi. Ai mà chẳng biết rằng sóng gió nguy hiểm đáng sợ ; nhưng đáng lưu ý là đất Chiêm Thành từ đời Cổ Lai, sau khi bị An Nam thôn tính, thì vị trí không rõ ràng. Y chạy trốn đến Xích Khảm bang, Đô Lang quốc [Phan Rang?] ; không còn ở chỗ cũ, xét không thể đi được. Huống Cổ Lai là Đầu Mục của vua Chiêm Thành Tề Á Ma Vật Yêm, đã giết vua đoạt ngôi, vua có 3 con, hiện còn một người. Theo đạo nghĩa hành động của y không đúng ; xét theo sử Xuân Thu nếu không mang quân đi hỏi tội thì cũng nên chấm dứt con đường triều cống. Thần cho rằng cho họ lãnh sắc phong mà đi, còn giữ được điều lễ nghĩa ; thì cần gì phải tìm kiếm hướng đạo, thông dịch, rồi đình thần họp bàn vô ích ! ”
Gặp dịp Tuần Án Quảng Đông Ngự sử Đinh Giai tấu tương tự như lời của Quán ; bèn đem xuống họp phủ, bộ, khoa đạo ; bàn như sau :
“ Trung Quốc đối với các Di Địch, đến thì vỗ về, không đến thì cắt đứt. Nay Thế tử (con Cổ Lại) ở nơi rừng núi bưng biền không đến được; vậy nên ra lệnh Tuần Án Quảng Đông triệu Chánh sứ Lực Na Ba đến dụ rằng Sứ thần không thể đi xa được, rồi lấy sách phong cùng lễ vật từ Quán trao cho Sứ thần mang về ; như vậy không mất lòng nước Di xa xôi, mà toàn vẹn thể chế của triều đình.”
Chiếu chấp nhận, rồi lệnh Quán trở về. (Minh Thực Lục v. 67, tr. 2546-2547; Vũ Tông q. 127, tr. 6b-7a)
Ðến đời vua Gia Tĩnh triều
Minh, Quốc vương Sa Bất Ðăng Cổ
Lỗ [không rõ có liên hệ huyết
thống với Quốc vương Sa Cổ Bốc
Lạc hay không] cho sứ dâng biểu văn
viết trên vàng lá triều cống
nhà Minh, cùng tố cáo bị An Nam đánh
phá không trở về được :
Ngày 21 tháng 6 năm Gia Tĩnh thứ 22 [22/7/1543]
Nước
Chiêm Thành Công
Sa Nhật Ðể Tề sai chú là Sa Bất
Ðăng Cổ Lỗ dâng biểu văn khắc
trên vàng lá, cống sản vật địa
phương. Ban yến, thưởng lụa là,
sa, quyên như lệ ; lại ban gấm vóc
cho Vương này. (Minh Thực Lục
v. 83,
tr. 5395; Thế Tông q. 275, tr. 6a)
Ngày 11 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 22 [11/8/1543]
Sứ-thần
nước Chiêm
Thành bọn Sa Bất Đẳng Cổ Lỗ
viện dẫn lệ cũ, tấu xin cấp cho mũ
và dây đai. Lại than rằng nước
này mấy lần bị An Nam đánh phá,
đường sá trở ngại không về
được, xin cho người hộ tống
xuất cảnh. Chấp nhận. (Minh Thực Lục
v. 83, tr.5407; Thế Tông q. 276, tr.2a)
Kể từ thời điểm nêu trên [1543] cho đến năm nhà Minh mất [1664] Minh Thực Lục không ghi thêm văn bản nào về Chiêm Thành. Có lẽ lúc bấy giờ trong nước Chiêm Thành nội bộ chia rẽ, lại thường bị An Nam đánh phá, hoàn cảnh quá suy yếu nên không còn liên lạc ngoại giao với Trung Quốc Riêng sử nước ta chép thêm những sự kiện sau đây (19) :
Năm Tân Hợi [1611] chúa Nguyễn Hoàng vào đánh nước Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên, chia ra 2 huyện Ðồng Xuân và Tuyên Hoà.
Năm Quý Tỵ [1653 ]vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần sai Cai cơ Hùng Lộc sang đánh ; Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang [Phan Rang] trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lập phủ Thái Ninh, sau đổi thành phủ Diên Khánh [tức Nha Trang], đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm Thái thú.
Năm Quí Dậu [1693] vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai quan Tổng binh Nguyễn Hữu Kính đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh và bọn bầy tôi là Tả Trà Viên, Kế Bà Tử, cùng thân thuộc là Bà Ân đem về Phú Xuân. Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành thành Thuận phủ, cho Tả Trà Viên, Kế Bà Tử làm chức Khám lý, con của Bà Ân làm Ðề đốc giữ Thuận phủ, lại bắt phải đổi y phục như người Việt Nam. Qua năm sau lại đổi Thuận phủ làm trấn Thuận Thành , cho Kế Bà Tử làm Tả Ðô đốc.
Năm Ðinh Sửu [1697] chúa
Nguyễn đặt phủ Bình Thuận lấy
đất Phan Lý, Phan Lang làm huyện Yên
Phúc và huyện Hòa Ða. Kể từ
đó nước Chiêm Thành mất.
Hồ Bạch Thảo
CHÚ
THÍCH :
1. Sông Hải Triều : tức khúc sông chảy qua huyện Phù Tiên, Hải Hưng và huyện Hưng Hà, Thái Bình.
2. Toàn Thư, N.X.B. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1998, tập 2, tr. 202.
3. Thăng, Hoa : đất thuộc các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam hiện nay.
4. Tư, Nghĩa : đất thuộc các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Ðức, Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi hiện nay.
5. Ðại Nam Nhất Thống Chí, tập 2, tr. 387, tr. 468.
6. Theo Toàn Thư, q. 2, t. 374 vào năm Kỷ Tỵ [1449] vua Lê Nhân Tông nước ta gửi thư trách Chiêm Thành phế Ma Ha Quí Lai lập Ma Ha Quí Do. Sự kiện xảy ra trước sắc phong của nhà Minh 3 năm.
7. Bàn La Duyệt : xin lưu ý Bàn La Duyệt sử nước ta gọi là Bàn La Trà Duyệt ; riêng người thừa kế Trà Toàn sử Trung Quốc gọi là Bàn La Trà Duyệt, thì sử nước ta gọi là Bàn La Trà Toại.
8. Toàn Thư, s.đ.d., tập 2, tr. 440-441.
9. Xuân Thu : tên bộ sử Khổng Tử viết cho thời đại từ Chu Bình Vương thứ 49 [ -723] đến Chu Kính Vương [ -481] gồm 242 năm ; nên thời đại này được gọi là Xuân Thu.
10. Mãn Thứ Gia : tức Melaka, một tiểu bang của nước Mã Lai
11. Theo Toàn Thư Bàn La Trà Toàn bị nhà Lê bắt năm 1471, sau đó bị bệnh chết. Bàn La Trà Toại bị bắt vào tháng 8 năm 1471.
12. Toàn Thư, s.đ.d., tập 2, tr. 450.
13. Lời tâu của sứ gỉả Chiêm Thành sai năm tháng. Theo Toàn Thư sự việc vua Lê Thánh Tông đánh bắt Quốc vương Trà Toàn vào năm Thành Hóa thứ 7 [1471] ; ngoài ra Minh Thực Lục trong văn bản đề ngày 27/6/1472 cũng khẳng định Sứ thần Chiêm Thành đến triều đình nhà Minh, cáo cấp việc An Nam chiếm nước, bắt Quốc vương vào tháng 2 năm Thành Hóa thư 7 [1471]. Riêng việc Sứ thần nhà Minh đến phong, nhưng không thực hiện được phải bỏ đi, xảy ra vào năm Thành Hóa thứ 10 [1475 ], chứ không phải vào năm Thành Hóa thứ Thành Hóa thứ 6 [1470 ]
14. Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Chính biên, quyển 12, tr. 524.
15. Di Hạ : Hạ là tên một triều đại xưa của Trung Hoa, nên họ tự gọi là Hoa Hạ. Di là tiếng dùng có tính cách kỳ thị chủng tộc, gọi các nước ngoại quốc xung quanh.
16. Cáp Mật : một bộ tộc tại vùng Tân Cương ngày nay.
17. Ky my : một cách cai trị uyển chuyển thời xưa, chỉ bắt nạp cống hàng năm, không khống chế chặt chẽ nội bộ.
18. Cáo ai : tâu việc vua trước đã mất.
19. Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, bản trên mạng của Viện Việt Học, trang 136.
Các thao tác trên Tài liệu