Bạn đang ở: Trang chủ / Biên khảo / Về một bài thi ca

Về một bài thi ca

- Bùi Trọng Liễu — published 08/06/2007 11:07, cập nhật lần cuối 12/04/2016 22:17
Nhân bài "ballade" của François Villon...

Về một bài thi ca :

 « Ballade des Dames du temps jadis »

(Bài thi ca về những bà thuở xưa)

 

Bùi Trọng Liễu

 

Thời tôi mới tới Pháp, lần đầu mà tôi làm quen với văn học sử Pháp, do ngây ngô, trong đầu óc còn đầy dãy những thành kiến, tôi cứ nghĩ rằng : đã là thi sĩ tất là người có học, đã là người có học thì không thể nào lại ăn cắp, ăn trộm, giết người (!). Quen với môi truờng Việt Nam cũ , thuở ấy tôi cứ ngỡ là thi sĩ, văn sĩ phải là những nhân vật thanh cao, chả thế mà một số người hiểu biết chả mấy tí, nhưng cũng cố làm dăm ba câu thơ để tự nâng mình lên thành người « trí thức » đó sao ? Chính vì vậy mà tôi chú ý đến thi sĩ François VILLON của thế kỉ 15 (1431- mất sau 1463 nhưng không rõ năm nào). Cuộc đời của ông ta là cuộc đời trôi nổi : mồ côi từ thuở nhỏ, được một tu sĩ nuôi dưỡng nên theo « họ » ông ta ; con người này cũng có học, nhưng cuộc đời liên quan nhiều đến những vụ trộm cắp, đã từng bị tù đày, có lúc suýt bị tử hình. 

Năm 1950, vì đang phải học gấp, nên tôi có tự hứa khi nào có thì giờ sẽ tìm hiểu thêm về thi sĩ này. Vậy mà mãi hơn 50 năm sau, đã về hưu mới có thì giờ thanh thản đọc lại bài « Thi ca về những bà thuở xưa » của François VILLON, và… thấy hay, và hiểu hơn tại sao một thời, bài thơ này đã được Georges Brassens phổ nhạc và được tán thưởng.

  

Bài thi ca này nói lên sự trôi nhanh của thời gian, sự mỏng manh của cuộc đời, của kiếp người, đặc biệt là cuộc đời của những người duyên dáng yêu kiều, những phụ nữ nổi danh thời xa xưa : những bông tuyết của thời quá khứ, của năm xưa (nếu tôi không hiểu lầm tiếng Pháp : les neiges d’antan). Bài thi ca lại gợi cho tôi về phong cách được gán cho người Pháp : « galant », đối xử nâng niu người phụ nữ. 

  

Có một tài liệu dẫn việc Hồ Chủ tịch, nhân một sự cố chính trị xảy ra khoảng năm 1953 ở nước ta, có nói câu : « […] Người Pháp nói không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa » – (tôi không nhắc lại chi tiết sự cố đó ở đây, nó liên quan đến Cải cách Ruộng đất ; ai muốn rõ, xin xem báo Diễn Đàn số 123, tháng 11/2002, dẫn hồi ký của ông Hoàng Tùng kể việc cụ Hồ không đồng ý xử bắn bà địa chủ theo kháng chiến Cát Thành Long Nguyễn Thị Năm). Theo tôi thường nghe ở Pháp, thì người ta nói « bông » hoa (une fleur), chứ không nói « cành » hoa . Cũng có nguồn cho rằng câu nói khởi thủy là của Ấn Độ, nhưng người Pháp lâu ngày tưởng là của mình. Câu nói này, người sống ở Việt Nam ít biết, cho nên khi kể lại câu cụ Hồ nói, nguồn kể viết « bông hoa » thành « cành hoa » – giữa « cành » hoa và « bông » hoa cũng có sự khác nhau : đánh bằng « cành », thì có thể đau ; đánh bằng « bông » thì như sự vuốt ve. Cụ Hồ rất thấu văn hóa Pháp, cụ khó có thể nói nhầm. Người kể lại có khả năng đã dẫn nhầm, nhưng chính vì sự dẫn nhầm đó mà theo tôi, nó làm tăng thêm tính trung thực của lời kể : xác suất « cụ Hồ đã nói lời đó » là cao. Nếu quả vậy thì sự kiện đưa tới việc cụ nói câu đó, chứng tỏ đức độ của cụ.

Trở lại bài thi ca. Nguyên văn của nó như sau, (với chính tả xa xưa theo một bản cổ, vì có nhiều dị bản ; nguồn : François Villon, Œuvres complètes, Piaris Lemerre, 1873), tất nhiên tôi không có tài dịch lại ra tiếng Việt, mà chỉ xin bàn luận về các bà được dẫn trong nội dung bài.

  
Dictes moy ou, n’en quel pays
Est Flora la belle Rommaine,
Archipiades, ne Thais
Qui fut sa cousine germaine,
Echo parlant quand bruyt on maine
Dessus riviere ou sus estant
Qui beaulte ot trop plus qu’humaine.
Mais ou sont les neiges d’antan ?

 

Ou est tres sage Hellois,
Pour qui chatre fut et puis moyne
Pierre Esbaillart a Saint Denis ?
Pour son amour ot ceste essoyne.
Semblablement, ou est la royne
Qui commenda que Buridan
Fust geté en ung sac en Saine ?
Mais ou sont les neiges d’antan ?

 

La royne Blanche comme lis
Qui chantoit a voix de seraine,
Berte au grant pie, Bietris, Alis,
Haremburgis qui tient le Maine,
Et Jehanne la bonne Lorraine
Qu’Englois brulerent a Rouen ;
Ou sont ilz, ou, Vierge souvraine ?
Mais ou sont les neiges d’antan ?
 

 

Có nguồn chuyển ra tiếng Pháp ngày nay như sau :

 

Dites-moi où, en quel pays, 
Est Flora, la belle Romaine,
Alcibiade et Thaïs,
Qui fut sa cousine germaine;
Écho, qui parle quand on fait bruit
Sur la rivière ou sur l'étang,
Et qui eut beauté surhumaine.
Mais où sont les neiges de l'autre année?

 

Où est la très sage Héloïse,
Pour qui fut châtré puis moine
Pierre Abélard à Saint Denis?
Pour son amour il subit cette peine.
Semblablement où est la reine
Qui ordonna qui Buridan
Fût jeté en sac dans la Seine?
Mais où sont les neiges de l'autre année?

 

La reine Blanche comme lis,
Qui chantait à voix de sirène;
Berthe au grand pied, Béatrix, Aélis,
Eremberg, qui possédait le Maine,
Et Jeanne la bonne Lorraine,
Qu'Anglais Brûlèrent à Rouen,
Où sont-elles, où, Vierge souveraine?
Mais où sont les neiges de l'autre année?
 

 

Nhưng cũng phải nói là cho tới ngày nay, tung tích của các nhân vật dẫn trong bài thi ca còn bí ẩn ; các nhà nghiên cứu chưa thống nhất ý kiến về lý lịch của các nhân vật này (nhà thơ định nói ai?), và ngay cả khi nhân vật được xác định, thì lý lịch của nhân vật ấy là đúng hay là bị xuyên tạc ? Vậy tôi xin kể những gì tôi đọc thấy :

 

1/ Flora, trong bài thi ca, là bà Flora nào, vì có nhiều bà mang tên đó. Có một Flora, « courtisane » xứ La-mã. « Courtisane » là gì, thì cũng khó khẳng định. Có người dịch ra tiếng Việt Nam là « điếm thượng lưu » ; nhưng định nghĩa « điếm thượng lưu » là gì thì cũng lúng túng ; đây có lẽ là những phụ nữ xinh đẹp nhân tình nhân ngãi với những lãnh tụ trong giới cầm quyền và đôi khi có ảnh hưởng đến họ. Có thuyết cho rằng Flora trong bài thi ca này là một « điếm thượng lưu », đã từng dan díu với Pompeius (106-48 trước Công nguyên). Ông này là một trong bộ ba cầm quyền những năm 58-51 trước Công nguyên, thời đại cộng hòa La-mã : Pompeius (tiếng Pháp gọi là Pompée), CrassusCaesar (tiếng Pháp gọi là Jules César). Trước thì chia đất đai để cai trị, Pompeius lấy con gái Caesar để cầu thân, sau tranh quyền nhau. Khi Crassus đã chết, chỉ còn CaesarPompeius đấu nhau. Năm 49 trước Công nguyên, Caesar đánh bại quân của phe Pompeius đuổi Pompeius sang tận Ai-cập, vua Ai-cập là Ptolémée XIV muốn làm vừa lòng Caesar nên chặt đầu Pompeius nộp cho Caesar. Tương truyền là Caesar thấy đầu Pompeius thì tỏ lòng thương tiếc, sai đem chôn ở chân thành Alexandrie ; rồi cũng chẳng nhớ công nịnh của Ptolémée mà hạ bệ vua này để đặt vợ Ptolémée (đồng thời cũng chị/em ruột của ông ta – vua Ai-cập coi mình là dòng giống thần tiên, thần tiên thì không « chính thức » lấy người hạ giới) là Cléopâtre VII lên ngôi, rồi nhân tình nhân ngãi với bà này một thời gian, vv. Nếu Flora được nói tới, chắc cũng vì Pompeius. Cũng có thuyết nói tới việc một « điếm thượng lưu » Flora để lại cho dân La-mã nhiều của cải, và để vinh danh bà ta, mới chế biến ra các « cuộc triển lãm cây hoa » (tiếng Pháp là « Floralies », một tục còn tồn tại đến ngày nay). Cũng lại có một « điếm thượng lưu » Flora sống ở thời nhà thi sĩ La-mã Juvenalis (60-130) mà tác phẩm « Satira » (tiếng Pháp là « satires »), thơ trào phúng châm biếm dữ dội phong tục đồi bại của xã hội La-mã thời ông. Rốt cục cũng không ai dám chắc là Villon định nói Flora nào trong bài thi ca.

 

2/ Archipiades : có thuyết cho là đây là Alcibiade, (450-404 trước Công nguyên), là tướng và nhà chính trị xứ Athènes (Athinai, Hy-lạp). Thời Trung cổ, người ta cho rằng Alcibiade thực ra là một phụ nữ, vì vậy nên mới vinh danh trong bài thi ca. Sự nghiệp của vị này cũng lên bổng xuống trầm, chiến bại chiến thắng, sau bị ám sát ; kể ra thì dài và lỉnh kỉnh. Nhưng trong « lý lịch » của vị, người ta hay nhắc đến vị đã là học trò của nhà triết học Socrate (470-399 trước Công nguyên), mà ông này có cái đặc điểm là không viết gì cả, và được đời biết đến qua ba người cùng thời của ông : hai người thì chê, thậm chí giễu ông ; may nhờ của người thứ ba, tự nhận là học trò ông, là nhà triết học Platon (427-347 trước Công nguyên) có tác phẩm (« Đối thoại » - « Dialogues », được coi là khởi thủy của phép « biện chứng ») mà hậu thế biết đến ông Socrate. Phải chăng cái vế tri thức cũng đóng một vai trò quan trọng trong tiểu sử của một danh nhân như Alcibiade ?

 

3/ Thaïs : Có hai bà Thaïs nổi danh. Một bà Thaïs « điếm thượng lưu » Hy-lạp (thế kỉ IV trước Công nguyên), đã từng là bạn lòng của Ménandre (thi sĩ hài hước Hy-lạp 342-292 trước Công nguyên), và của đại hoàng đế Alexandre (356-323 trước Công nguyên, thoạt đầu là vua xứ Macédoine, sau chiếm được rất nhiều đất đai từ Hy-lạp phía tây, chiếm đất đai của đế quốc Ba-tư, rồi sang đến tận miền tây Ấn-độ, chiếm Ai-cập phía nam), và của vua Ptolémée I (367-283 trước Công nguyên, gốc Hy-lạp, vua Ai-cập và các xứ Palestine, Syrie, Chypre, bắc Libye). Nhưng có thuyết cho rằng bà Thaïs trong bài thi ca là « điếm thượng lưu » gốc Hy-lạp (sống ở Ai-cập thế kỉ IV), rất đẹp ; vì bà mà rất nhiều ông khuynh gia bại sản, các ông ghen tuông đâm chém nhau đến nỗi cổng nhà bà thường đầy máu. Sau bà được một tu sĩ Ki-tô (thánh Paphnuce) thuyết phục, bà hoàn lương, từ bỏ giàu sang, nhốt mình trong gian phòng gắn kín cửa trong ba năm để tự phạt, rồi tu hành đắc đạo, sau được phong thánh.

4/ Berte : Berte au grant pie, nghĩa là bà Berthe với một bàn chân to, đây là mẹ của hoàng đế Charlemagne đã kể ở bài Hai chuyện lợn tây. Bà là công chúa con vua xứ Hung và hoàng hậu Blanchefleur, được đưa sang Pháp để lấy vua Pépin le Bref, thuở ấy chưa gọi là vua Pháp, mà là vua xứ những người Francs. Nàng bị người thị nữ Aliste, theo hầu, phản : sang đất lạ, người thị nữ này mạo nhận mình là công chúa, chiếm chỗ của Berthe. Hai nàng giống nhau nên chẳng ai nhận ra. Để việc khỏi bị lộ, Aliste sai thủ hạ giết Berthe. Và Aliste lấy vua. Mấy năm trôi qua, Aliste đẻ được hai người con trai, cả ba đều ác nên dân chúng ghét. Rồi đến một lúc, bà hoàng hậu Blanchefleur tới Pháp thăm con gái ; Aliste sợ, giả ốm, đóng của phòng không chịu gặp « mẹ ». Hoàng hậu Blanchefleur nghi, đòi gặp cho bằng được và phát hiện ra là không phải con gái mình. Để đưa bằng chứng cụ thể, bà tiết lộ với vua rằng Berthe con gái mình có một dị tật : một bàn chân to hơn bàn chân kia. Bị tra hỏi, Aliste thú ra tên người thủ hạ được sai giết Berthe. Người này mới kể rằng, vì thương hại nàng Berthe nên không giết mà thả cho nàng trốn đi trong rừng. Vua sai người tìm, lâu mà không thấy ; rồi tình cờ một lần đi săn trong rừng mới tìm thấy nàng : trong tám năm, nàng sống ấn náu trong gia đình vợ chồng một người tiều phu đã nuôi nàng. Vua đưa nàng về triều. Người con trai đầu mà nàng đẻ với vua Pépin le Bref, chính là hoàng đế tuơng lai Charlemagne. Phương đông hay phương tây, cũng thường có những loại huyền thoại về những bà mẹ sinh con « thánh ».

5/ Hellois : còn gọi là nàng Héloïse (1101-1164) là cháu gọi tu sĩ Fulbert là cậu/chú, nổi tiếng vì mối tình duyên với Abélard (1079-1142) nhà triết học và thần học có danh thời đó ở châu Âu. Tu sĩ Fulbert trao trách nhiệm cho Abélard dạy Héloïse học. Chàng và nàng yêu nhau đắm đuối, vụng trộm, đẻ ra một đứa con. Abélard bị Fulbert phạt, thuê người thiến. Héloïse vào tu trong một tu viện, và Abélard cũng trở thành một tu sĩ có tiếng. Còn tồn tại một số văn kiện trong đó thư từ trao đổi giữa hai người, nhưng là chính bản hay là được viết lại ? Theo một thuyết, thì câu chuyện « có thể » là như sau : khi chàng và nàng yêu nhau và nàng có mang, chàng mang nàng trốn đi, và rốt cục chàng chấp nhận cưới nàng theo yêu cầu của Fulbert. Chàng vì muốn « giữ danh » của mình, giữ chuyện cưới xin trong bí mật, và gửi nàng vào tu viện Argenteuil. Fulbert giận, sai người thiến chàng ; chàng trở thành tu sĩ, và ép nàng cũng đi tu. Vì yêu mà nàng phải nhận, nhưng nàng (ngây thơ ?) có phần trách chàng thờ ơ với mình sau khi bị thiến. Còn chàng thì – phải chăng nay ở tình trạng « thị vào chầu, thị đứng, thị trông, thị cũng muốn, thị không có ấy », thị đây là « quan thị/hoạn » trong cái vế đối của câu « vũ cậy mạnh , vũ ra, vũ múa, vũ bị mưa, vũ ướt cả lông » đó – chàng khuyên nàng nên vượt qua tình yêu đối với chàng, và cả hai tập trung vào tình yêu Chúa Trời, hẹn gặp nhau lại trên thiên đàng. Sau cả hai đều tu hành đắc đạo. Phải chăng câu chuyện cũng là một loại « tu là cõi phúc, tình là dây oan » ? Có nguồn kể rằng năm trăm năm sau, cải táng chôn cặp này chung trong một mộ ở nghĩa trang Père Lachaise ở Paris. Tôi chưa có thì giờ đi kiểm chứng.

6/ Haremburgis : Có lẽ còn gọi là bà Aremburge, sống ở thế kỉ XII, vợ hầu tước Comte d’Anjou Foulques V. Thời loạn li, năm 1127 bà là người sáng lập ra tu viện « Prieuré de Saint Jean du Grais ». Tương truyền nơi này có một cái giếng, nước giếng có thể làm cho người mù sáng mắt trở lại.

7/ Royne : tiếng Pháp ngày nay là « reine », nghĩa là hoàng hậu. Có thuyết cho rằng đây là bà Marguerite de Bourgogne (vợ Louis X, vua Pháp trị vì từ 1314 đến 1316). Bà này làm vợ ông lúc mới 15 tuổi (1305), khi ông còn là thái tử, (ông là con cả của vua Philippe le Bel ; vua này có 3 con trai và một con gái ; cả ba con trai sau này đều nối nhau làm vua là Louis X, Philippe VCharles IV, và người con gái là Isabelle là hoàng hậu vợ vua Anh Edward II). Đầu năm 1314 – do Isabelle tố cáo với vua Philippe le Bel – phát giác ra vụ Marguerite (vợ thái tử Louis) và Blanche (vợ hoàng tử thứ ba Charles) ngoại tình với hai anh em quí tộc d’Aulnay. Bà Jeanne (vợ hoàng tử thứ hai Philippe) bị nghi là đồng lõa, biết mà không tố giác, nhưng không có bằng chứng ngoại tình, nên chỉ bị giam một thời rồi được tha. Hai anh em d’Aulnay, bị xử cực hình : bị thiến, bị phân thây và bêu xác. MargueriteBlanche bị cạo trọc, giam ở Château-Gaillard, một lâu đài chiến luỹ. Mùa thu năm đó vua Philippe le Bel chết, thái tử Louis nối ngôi tức là vua Louis X, bà Marguerite trên danh nghĩa đương nhiên trở thành hoàng hậu – vì hôn nhân chưa được huỷ – chết vào mùa đông năm đó. Có nguồn cho rằng vì bà bị giam rất cực khổ trong phòng giam gió lùa lạnh lẽo. Có nguồn lại cho rằng bà bị vua sai người lén thắt cổ cho chết, vì giáo hội Thiên chúa giáo không coi ngoại tình là một lý do để các ông hoàng có thể bỏ vợ ; lại vướng việc đạo buộc một vợ một chồng, vua không thể cưới vợ mới. Nay, hoàng hậu Marguerite chết rồi, vua Louis X rộng đường cưới một bà vợ mới là Clémence de Hongrie. Bà em dâu cùng bị tội, Blanche, may mắn hơn, vì ông chồng thương, bị giam trong điều kiện khá hơn, nên không chết, và sau khi hôn nhân bị huỷ (sẽ kể dưới đây), được đưa vào một tu viện và chết năm 1326. (Thuở trẻ, vợ chồng tôi thường đi chơi vùng Normandie, và hay ghé Château-Gaillard. Trên đồi cao, khi leo lên những bức tường còn lại của Château-Gaillard nay đã đổ nát, tôi lại trạnh lòng nghĩ tới hai cô gái bất hạnh này, không phải vì cho rằng các cô cư xử đứng đắn, mà vì nghĩ tới thân phận các cô gái quyền quý cưới gả thuở xưa như một thứ hàng hoá được đổi chác vì đất đai và quyền lực, chẳng ai hỏi ý về tình yêu…)

 Trong bài thi ca, tiếp sau câu thơ nói về hoàng hậu Marguerite, có 2 câu tiếp theo kể việc ông Buridan, bị bỏ vào bao ném xuống sông Seine. Sự việc thế nào, cần kể thêm một số chi tiết, vì sử và dã sử xen kẽ. Có một nhân vật trong sử là Buridan (sinh 1295 hoặc 1300 (?), chết khoảng 1360), triết gia Pháp, recteur (giám đốc) Đại học Paris (1317). Tương truyền là một bà hoàng hậu hoang dâm, sai kẻ hầu mỗi ngày tuyển một chàng trai trẻ đẹp, đêm mang vào gian dâm trong lầu, rồi gần sáng đem nhốt chàng trai đó vào bao tải, rồi vứt từ trên lầu cao xuống sông Seine cho mất tích, và Buridan là một trong những chàng trai bị/được như vậy nhưng tình cờ thoát chết. Villon viết vậy trong bài thi ca, nhưng người sau nghi ngờ, vì mấy câu hỏi sau đây : Bà hoàng hậu nào đây ? Nếu bà hoàng hậu trong bài thi ca là bà Marguerite kể trên thì sử chỉ nói tới vụ ngoại tình của hai bà với hai anh em d’Aulnay. Ông Buridan có lẽ bị gán oan vào huyền thoại này chăng ? Lầu nào đây ? Người đời sau gán việc hoang dâm này ở cái lầu « Tour de Nesle » (nay không còn nữa), ở bờ sông Seine, nhưng bài thi ca không nói tới ; sử chỉ nói là năm 1319, vua Philippe V (nối ngôi anh là Louis X), tặng cho vợ là hoàng hậu Jeanne tòa nhà Hôtel de Nesle, đời sau gọi là Tour de Nesle ; bà Jeanne chính là cái bà con dâu của vua Philippe IV le Bel không bị tội trong cái vụ án ngoại tình năm 1314. Có giai thoại – mà Jean-Joseph Jullaud, cũng kể trong cuốn Histoire de France pour les nuls, nxb First 2004 – cho rằng Jeanne rằng chính bà Jeanne này (goá từ năm 1322, nghĩa là 3 năm sau khi đuợc vua cho cái Hôtel de Nesle) mới là cái bà hoàng mỗi đêm sai tuyển một chàng sinh viên trẻ đẹp để gian dâm, rồi tảng sáng bỏ vào báo vứt xuống sông Seine ; Buridan cũng được tuyển một đêm, may đoán trước được diễn biến, nhờ có bạn bè sửa soạn sẵn một cái thuyền chứa đầy rơm dưới chân lầu, nhờ thế bao nhốt chàng vứt từ lầu cao xuống sông, lại rơi trúng vào cái đống rơm trong thuyền nên chàng thoát chết. Thực hay hư ?

Dù sao, hơn năm trăm năm sau, nhà văn Alexandre Dumas mới phỏng theo chuyện ngoại tình này để viết cuốn dã sử La Tour de Nesle (1832) ; và hơn bảy trăm năm sau, Maurice Druon , trong bộ sách Les Rois maudits (tạm dịch thoát nghĩa là « Những Vua bị nguyền rủa, trời tru đất diệt ») gồm 7 cuốn (viết từ 1955 đến 1960) cũng kể tới chuyện này. 

Tại sao lại có « những vua trời tru đất diệt » liên quan đến câu chuyện ngoại tình này ? Có lẽ cũng đáng kể ở đây (tuy tôi đã có dịp kể lướt qua một chút trong cuốn Tự sự của người xa quê hương, nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2004):

Dưới thời trị vì của vua Philippe IV le Bel (đã kể trên) Dòng đạo Ordre des Templiers (một dòng đạo Thiên chúa giáo) quá giàu và có ảnh hưởng kinh tế và chính trị quá lớn, vua sợ cho uy quyền của mình, mới sai bắt Dòng trưởng (grand maître) Jacques de Molay và đồng đạo của ông ta, đổ tội phản vua và phản đạo, kết án tử hình (đó là vào năm 1314). Giáo hoàng Clément V (người Pháp, là giáo hoàng đầu tiên chuyển Toà Thánh từ Roma sang Avignon ở Pháp) muốn làm vừa ý vua Philippe Le Bel nên cũng vào hùa, kết tội và giải thể Dòng đạo Ordre des Templiers. Tương truyền rằng khi Jacques de Molay bị thiêu, khi lửa đã bén, ông ta có hô to lời nguyền rủa : hẹn rằng trước cuối năm, sẽ gặp lại vua Philippe IV Le Bel và giáo hoàng Clément V tại « Toà án của Chúa Trời » (Tribunal de Dieu) để phân xử, và nguyền rủa « trời tru đất diệt » con cháu vua Philippe IV Le Bel. Dòng trưởng Jacques de Molay chết rồi, mấy tháng sau vua Philippe IV le Bel và giáo hoàng Clément V cũng chết. Việc thiêu Jacques de Molay, cũng như việc ba người cùng chết trong năm 1314, là những việc có thật ; năm đó cũng là năm đã xảy ra vụ án ngoại tình đã kể trên.

 Tiếp theo đó, là thái tử Louis nối ngôi, tức là vua Louis X, và vụ việc bà hoàng hậu ngoại tình Marguerite chết ở nơi giam, cũng xảy vào năm 1314, như đã kể trên. Vua Louis X cưới bà vợ mới là Clémence de Hongrie như đã kể trên; khi bà này có mang, thì vua Louis X chết (1316), trúng bệnh sau khi uống một cốc rượu lạnh, năm đó mới 27 tuổi. Với bà vợ truớc là Marguerite, vua Louis X chỉ có một người con gái cũng tên là Jeanne. Tuy rằng thuở ấy, ở Pháp con trai con gái đều có thể nối ngôi, nhưng vì vụ ngoại tình nên có sự nghi vấn (chưa có ADN để kiểm !), vả lại hoàng hậu mới là Clémence de Hongrie đang có mang, triều đình mới tạm trao quyền giám quốc (régent) cho hoàng tử Philippe, em trai vua, để đợi kết quả. Mãn kỳ, hoàng hậu Clémence sinh ra một con trai, lẽ ra là người nối ngôi, nhưng đứa bé chỉ sống được mấy ngày. Lại một dịp để nghi ngờ. Hoàng tử giám quốc Philippe và thân cận, mượn cớ đạo luật « salique » cổ, diễn giải lại cho phù hợp với tình thế : phụ nữ không thể nối ngôi vua nước Pháp, và như vậy gạt được công chúa Jeanne, con của cố hoàng hậu Marguerite, ra khỏi việc lên ngôi – cũng là cách ta thường nói : « cả vú lấp miệng em » vậy. Vì thế Hoàng tử giám quốc Philippe lên ngôi, đó là vua Philippe V. Vua này trị vì được sáu năm, đến 1322 thì chết, lúc ấy mới 29 tuổi. Vua này chỉ có 3 người con gái. Vì chính cái lệ ông ta đưa ra, nên con ông ta không thể lên ngôi – cũng là « gậy ông lại đập lưng ông »! Vì thế nên em trai ông ta là hoàng tử Charles nối ngôi, tức là vua Charles IV. Vua này trước đây có vấn đề với bà vợ ngoại tình Blanche còn đương bị giam : Giáo hội không cho ly dị, vậy phải tìm cái cớ gì để « hủy cuộc hôn nhân » (tiếng Pháp là « annulation du mariage »), thí dụ như cái cớ « có họ hàng với nhau » mà lấy nhau, do đó « nhầm » thì có thể « sửa sai ». Có điều là vua Charles IV và bà Blanche không có họ hàng máu mủ gì cả ; nghĩ mãi mới lòi ra được một cái cớ : đó là bà hầu tước Mahaut, mẹ bà Blanche, thuở trước là « mẹ đỡ đầu » (tiếng Pháp là « marraine ») của ông Charles. Vậy thì chẳng tìm được cớ họ hàng máu mủ thì đưa cớ họ hàng tinh thần vậy : « mẹ tinh thần » cũng là mẹ ! – đúng là « lưỡi không xương trăm đường lắt léo ». Có cớ rồi, thì Giáo hội cho ly dị. Bà Blanche thì vào tu viện, vua Charles IV cưới vợ mới Marie de Luxembourg, nhưng bà này đang có mang thì chết ; vua lại cưới bà vợ khác là Jeanne d'Evreux (tuy là em họ của vua ; nhưng đây là « cưới » chứ không là « bỏ », nên không cần căn cứ vào việc có họ hàng hay không !), nhưng bà này chỉ đẻ ra hai người con gái đều chết yểu. Năm 1328 vua Charles IV chết mới 33 tuổi, không con nối dõi, ngôi vua chuyển sang người em họ là vua Philippe VI. Vậy là dòng vua Philippe IV le Bel tuyệt tự. Đấy là số phận của ba người con trai của vua Philippe IV le Bel. 

Còn lại bà Isabelle con gái của vua Philippe IV le Bel. Bà này lấy vua Edward II nước Anh ; nhưng vua này lại là người đồng tính, tuy ông này đã « có với » bà này một người con trai. Bà ngán ngẩm việc vua mê trai, nên bà kiếm được ông nhân tình là nam tước Mortimer, rồi « đồng minh » với em vua trai vua, hạ bệ vua, nhốt vào một nơi và ép thoái vị ; sau đó vua chết : tương truyền là vua bị ám sát bằng cái dùi dài nung đỏ, đút vào hậu môn để đốt cháy ruột, mà thi thể bề ngoài vẫn nguyên vẹn. Đó là vào năm 1327. Con trai của vua và của bà Isabelle lên nối ngôi, đó là vua Edward III, còn nhỏ tuổi. Bà Isabelle và ông nhân tình Mortimer cùng nhiếp chính. Năm 1330, vua Edward III tự cầm quyền, giết Mortimer và đày mẹ đi nơi khác ; 28 năm sau bà ta chết. Tương truyền là lúc sau, bà ta đã ân hận là đã tố giác hai người em dâu : thuở trước, bà là người « phải đạo » nên không chấp nhận tình yêu ngoài hôn nhân. Người Pháp có câu : « Hãy làm những gì mà tôi nói; đừng làm những gì mà tôi làm » (« Fais ce que je dis ; ne fais pas ce que je fais ») ; phải chăng thay chữ « đừng » bằng chữ « cấm » có lẽ phù hợp hơn ? 

Vậy là số phận của cả bốn người con của vua Philippe IV le Bel ngẫu nhiên trùng hợp với lời nguyền của Dòng trưởng Jacques de Molay trước khi chết vì lửa thiêu.

Những thảm kịch xảy ra trong cho con cháu vua Philippe IV le Bel không chỉ ngưng ở đó. Vua Pháp Philippe VI không phải là hậu duệ trực tiếp của Philippe IV le Bel – ông chỉ là con của em út vua Philippe IV le Bel – cho nên vài năm sau, vua Anh Edward III, lấy tư cách là cháu ngoại của vua Philippe IV le Bel, đòi quyền lên ngôi vua Pháp, gây ra cuộc « Chiến tranh một Trăm năm » (« la Guerre de Cent ans ») giữa Pháp và Anh. Gọi là một trăm năm cho gọn, thực ra là dài hơn thế ; gọi là giữa Pháp và Anh, nhưng không phải là đất Pháp bây giờ và đảo Anh ngày nay, mà thuở ấy vua Anh có những đất đai trên lục địa xen kẽ với đất đai của vua Pháp ; gọi là chiến tranh trăm năm, nhưng không phải lúc nào cũng đánh nhau, lúc đánh lúc hoà, vv. Mãi đến năm 1475, với hoà ước Picquigny giữa hai vua Louis XI (Pháp) và Edward IV (Anh), vua Anh – trừ thành phố Calais – không còn đất trên vùng đất đai của Pháp, « Chiến tranh một Trăm năm » mới thực sự chấm dứt.

Dù sao tai hoạ xảy ra không chỉ cho con cháu vua Philippe IV le Bel, mà cho cả dân của hai nước. Ai cả tin, thì bảo là tại lời nguyền « trời tru, đất diệt ». 

8/ Jehanne : Đây là cô Jeanne d’Arc, cuối thời « Chiến tranh Trăm năm ». Chuyện Jeanne d’Arc (1412-1431), trong khung cảnh nước Pháp, tóm tắt như sau : Khởi đầu là thời của ông vua điên Charles VI (trị vì từ 1380 đến 1422), bắt đầu điên từ 1392, lúc tỉnh lúc mê. Triều đình rối loạn ; em vua và hai chú vua tranh quyền, mang quân đánh nhau, có lúc còn nhờ quân Anh giúp sức, vì thuở ấy nước Pháp chưa là một khối thuần nhất, nhiều tỉnh còn thuộc vua Anh là Henry V. Con trai vua Charles VI là thái tử cũng mang tên Charles (sau gọi là Charles VII ) lại bị nghi là con bất chính của hoàng hậu Isabeau và em trai vua Charles VI. Năm 1420, vua Charles VI, dưới sức ép của hoàng hậu và của một hoàng thân phe Bourguignon, ký một hiệp ước công nhận vua Anh là Henry V, con rể vua Charles VI, sẽ là người nối ngôi vua Pháp, và thái tử Charles VII do bị coi là con bất chính không được nối ngôi (con bất chính của chính hoàng hậu !). Năm 1422, vua Charles VI chết, vua Anh Henry V cũng đã chết, nhưng con nối ngôi vẫn đòi kiêm làm vua Pháp. Tình cảnh của thái tử Charles (lẽ ra phải được coi là vua Charles VII ) lúc đó rất là nguy ngập, bị lấn khắp nơi, hầu như chỉ còn giữ được một tỉnh (Bourges), cho nên thuở đó ông còn bị gọi mỉa là ông vua tí hon của tỉnh Bourges (« le petit roi de Bourges »). Giữa lúc đó thì xuất hiện một cứu tinh : Jeanne d’Arc, một cô gái quê ngoan đạo 16 tuổi. Đó là vào mùa đông năm 1428, cô này « nghe thấy » tiếng gọi của ba vị thánh, thúc giục cô ta ra giúp thái tử Charles đánh đuổi quân Anh ra khỏi nước Pháp. Cô ta thuyết phục được một võ quan, dẫn cô ta đến gặp thái tử Charles mà cô ta chưa bao giờ nhìn thấy. Thái tử muốn thử cô ta. Trong phòng lớn của lâu đài Chinon, trong đám 300 quần thần, cô ta nhìn rồi bước tới quỳ trước mặt một người, gọi người đó là thái tử. Người này chối, chỉ sang người bên cạnh, nhưng cô ta không đổi ý, tâu việc cô ta nghe tiếng gọi của ba vị thánh. Quả đúng người cô ta nhận ra là thái tử ; và sau một giờ đồng hồ đàm đạo riêng, cô ta tiết lộ những điều bí mật (?) chứng tỏ thái tử là con chính thống để nối ngôi, không phải là con bất chính. (Sau này, người tin thì bảo đó là mệnh trời do Chúa Trời sắp đặt, người không tin thì bảo là chuyện đồng loã dàn dựng). Dù sao, ít ngày sau, quân của thái tử, với sự tham gia trận mạc của cô Jeanne d’Arc thắng nhiều trận, lấy lại được nhiều thành ; cô dẫn được thái tử đến Reims, nơi mà nhà thờ có truyền thống làm lễ đăng quang của các vua Pháp. Ở nơi này, tháng 7 năm 1429, thái tử làm lễ đăng quang, lúc ấy mới chính thức là vua Charles VII. Nhà vua thì ưa điều đình với đối phương (phe Bourguignon đồng minh với vua Anh) để củng cố quyền lực, cô Jeanne d’Arc ưa chiến trận ; cô trở thành một mối chướng ngại. Năm 1430, cô trở nên đơn độc khi đang tấn công một thành. Cô bị đối phương bắt ; nhà vua bỏ rơi. Năm 1431, cô bị cánh đối phương đem xử, với sự đồng loã của giáo hội dưới quyền viên giám mục Cauchon, với lý do là cô là kẻ phản đạo, phù thuỷ, và kết án bị đốt chết, tro vứt xuống sông Seine. Năm năm sau, vua Charles VII hoà hoãn với phe Bourguignon đối phương, đuổi được quân Anh ra khỏi kinh đô Paris … Năm 1456, do ý của vua Charles VII, giáo hội mới xét lại và phục hồi cô. Năm 1920 cô được phong thánh. Trong bài thi ca của Villon, hai câu : « Et Jehanne [Jeanne] la bonne Lorraine, Qu’Englois [Anglais] brûlèrent à Rouen », chính là nói về cô Jeanne bị phe thân người Anh đốt ở Rouen. Jeanne d’Arc đã trở thành một tượng trưng của tinh thần dũng cảm chống ngoại xâm. 

 

Chuyện bên lề bài thi ca : 

Nhân dịp nói đến cô Jeanne d’Arc, tôi cũng muốn kể thêm câu chuyện cô « lạc » vào nước Việt Nam ta, do một sự gán ghép kỳ lạ. Dài dòng và bên lề một chút, nhưng cũng đáng kể ; vả lại, nhân dịp vinh danh mấy bà nước ngoài, tôi nghĩ cũng nên vinh danh một cách chính đáng Hai Bà nước ta. Đó là Lễ kỉ niệm Hai bà TrưngJeanne d’Arc năm 1942.

Nhắc lại bối cảnh. Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai, bùng nổ, (rồi sẽ kéo dài đến 1945). Đây là chiến tranh giữa 2 phe : phe « Đồng minh » và phe « Trục ». Phe « Đồng minh » gồm Anh và thuộc quốc Commonwealth, và Pháp, Ba-lan, Đan-mạch, Hà-lan, Bỉ, Nam-tư, Hy-lạp, và tiếp theo đó là Liên Xô, rồi Hoa Kỳ, Trung quốc (chế độ « Quốc dân đảng » của Tưởng Giới Thạch, sau ta gọi nôm na là Tàu Tưởng) và phần lớn các nước châu Mỹ la-tinh. Phe « Trục » gồm Đức (chế độ quốc-xã của Hitler), Ý (chế độ phát-xít của Mussolini), Nhật (chế độ quân phiệt chủ trương khối Đại Đông Á), và một số nước Đông Âu (Áo, Hung, Slovaquie, Ru-ma-ni, Bun-ga-ri, vv. do Đức chiếm hoặc ép làm chư hầu). Ở châu Âu, 1940, Pháp thua trận, phải xin ký đình chiến với Đức. Nghị viện Pháp (Thượng nghị viện và Quốc hội) họp ngày 10/7/1940 bỏ phiếu (569 phiếu thuận trên 669 phiếu) trao toàn quyền cho thống chế Pétain. Chế độ cộng hoà bị bỏ, thống chế Pétain trở thành « quốc trưởng » của « Quốc gia Pháp », và tiến tới cộng tác với Đức. Lúc đó Pháp vẫn duy trì chính quyền ở các thuộc địa, đặc biệt là ở Đông Dương. 

Nhắc lại là từ 1867 Pháp chiếm Nam kỳ, triều đình nhà Nguyễn phải ký hiệp ước năm 1874 nhường đứt đất này làm thuộc địa của Pháp do Pháp cai trị trực tiếp, rồi hiệp ước năm 1883 rồi năm 1884 nhận nền bảo hộ ở Trung kỳ và Bắc kỳ. Nhưng với thời gian, Pháp dần dần lấn quyền, tiến tới cai trị trực tiếp Bắc kỳ, nhưng vẫn để tồn tại chế độ quan lại người Việt Nam ; ở Trung kỳ, tuy còn vua và triều đình, nhưng chỉ là hình thức, mọi quyết định đều do Pháp. Năm xứ thuộc Pháp (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Cao Mên và Lào), gọi là Đông Dương thuộc Pháp, còn gọi tắt là Đông Pháp, do một viên toàn quyền người Pháp cai trị chung – từ 1940 đến 1945, viên toàn quyền là thủy quân đô đốc Decoux – vẫn phụ thuộc vào chính quyền của thống chế Pétain. 

Ở châu Á, từ 1931, Nhật chiếm Mãn châu của Trung quốc. 1937-1938, Nhật chiếm đông bắc, rồi toàn miền duyên hải của Trung quốc, nhưng bị sa lầy trong cuộc chiến tranh xâm lược này. Tháng chạp 1941, không quân Nhật bất thình lình tấn công Pearl Harbour (Trân Châu cảng) của Hoa Kỳ ; sau đó, 1942, Nhật chiếm phần lớn Đông Nam Á. Ở Đông Dương, Nhật tấn công Pháp ở biên thuỳ phía bắc Đông Dương (Lạng Sơn, tháng chín 1940). Pháp thua. Không những Nhật cắt được đường tiếp tế vũ khí và vật dụng mà Trung quốc tiếp nhận qua con đường hỏa xa Hải Phòng - Côn Minh (Vân Nam), mà Nhật còn dần dần buộc còn Pháp phải để quân Nhật vào Đông Dương, sử dụng những căn cứ quân sự (sân bay, cảng, vv.), cung cấp của cải, nguyên liệu vật chất mà Nhật cần dùng. Khuynh huớng của một số người Việt Nam, từ đầu thế kỉ 20, đặt hy vọng vào Nhật để giải phóng nước ta khỏi ách thực dân Pháp, nay cũng không còn cơ sở, vì Nhật duy trì chính quyền thực dân Pháp, và những yêu sách của Nhật đối với Pháp, rốt cục cũng dội xuống đầu người dân Việt Nam. Cho nên thuở ấy mới có khẩu hiệu « một cổ hai tròng ». 

Dưới thời Pháp cai trị Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, người bản xứ không được hưởng những quyền lợi tương đương như người Pháp. Thí dụ, theo hồi ký của toàn quyền Decoux (A la barre de l’Indochine, nxb Plon 1949), lương một ông quan tổng đốc hạng nhất (bậc quan cao nhất người Việt Nam) không bằng lương một anh cai đoan (thuế quan) người Pháp ở Đông Dương (sous-brigadier des douanes), trước khi viên toàn quyền này nhậm chức. Viên này cũng « khoe » những cải cách của mình, trước những đòi hỏi của « tầng lớp khá giả bản xứ », như chấp nhận nguyên tắc tiến tới việc : « Ngang bằng cấp, thì ngang chức vụ ; ngang chức vụ, thì ngang lương », vv. Nhưng đấy là do sức ép của thời cuộc. Cũng vì vậy mà chính quyền Pháp ở Đông Dương bày ra một số chuyện nhằm giảm bớt những bất mãn của những người Việt Nam thuộc tầng lớp khá giả : mỗi sáng có lễ chào cờ Pháp và Việt ở trường Pháp ; cho in những hoạ báo tán dương những công lao của người gốc Việt đóng góp cho nước Pháp như đại úy không quân Đỗ Hữu Vị trong đại chiến 1914-1918 ; in những con tem mang hình hoàng đế Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương ; lệnh cho các quan cai trị người Pháp, khi giao dịch với các quan đầu tỉnh người Việt, phải dùng chữ « Ngài » (Excellence) vv. và tổ chức buổi lễ chung kỷ niệm Hai bà Trưng và cô Jeanne d’Arc, do viên sĩ quan hải quân Ducouroy, cũng là người phụ trách tổ chức phong trào thể dục thể thao Đông Dương thuở đó (trường thể dục Phan Thiết, đua xe đạp quanh Đông Dương, vv.) thực hiện.

Việc có sự kỷ niệm chung Hai Bà Trưng và cô Jeanne d’Arc, có thể hiểu như sự cố tình so sánh coi như tương đương, tự nó đã là kỳ. Nhưng đã nói tới cô Jeanne d’Arc mà không nói tới Hai Bà Trưng thì lại kỳ hơn. Vì vậy tôi nhắc lại ít điều về Hai Bà.      

Cuốn Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, (tựa và dẫn của Hoàng Xuân Hãn, nxb Sông Nhị, Hà Nội 1949) kể :

Bà Trưng quê ở châu Phong, 
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.
Ngàn Tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định dẹp tan biên thành.
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục hai là bá vương.
Uy thanh động đến Bắc phương,
Hán sai Mã viện lên đường tiến công.
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao ?
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo.
Chị em thất thế cùng liều với sông.
Phục Ba mới dựng cột đồng,
Ải quan truyền dấu biên công cõi ngoài.
Trưng vương vắng mặt còn ai ?
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.
 

      

Nói thêm là hai ông Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái không « viết chung » cuốn này : nói tóm tắt, thoạt đầu là ông Lê Ngô Cát (1827-1876) vâng lệnh soạn ra, và ông Phạm Đình Toái (1817-1901) sửa lại.

Lời thơ tuy hay, nhưng có thể khó hiểu cho những ai không đọc sử ta. Vậy tôi nhắc tóm tắt đoạn sử này như sau. Đầu thế kỉ 1 sau Công nguyên, lúc đó là thời « Bắc thuộc lần thứ nhất » (nghĩa là nước ta bị phụ thuộc vào nhà Hán, Trung quốc, và bị chia ra làm các quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam : từ 111 trước Công nguyên đến năm 39 sau Công nguyên). Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định tàn ác, lòng dân oán giận. Tô Định giết Thi Sách, chồng bà Trưng Trắc. Bà cùng với em gái là Trưng Nhị khởi binh đánh Tô Định. Tô Định chạy trốn. Hai bà chiếm Long Biên và 64 thành khác, rồi xưng làm vua, đóng đô ở Mê Linh (thuộc tỉnh Vĩnh Phú, ngày nay). Ba năm sau, vua Hán sai tướng giỏi là Phục Ba tướng quân tên là Mã Viện đem quân sang đánh. Mấy lần giao chiến ở gần Hồ Tây, hai Bà không địch nổi, rút về Cấm Khê. Mã Viện đánh Cấm Khê, quân hai bà tan vỡ, hai Bà chạy đến Hát Môn (thuộc Hà Tây ngày nay), gieo mình xuống sông Hát giang tự tử. Đó là vào năm 43 sau Công nguyên. Nước ta lại bị thuộc vào nhà Hán. Mã Viện dựng cột đồng để ghi võ công của mình, tương truyền với lời nguyền « Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt » (Cột đồng ấy gẫy thì Giao Chỉ bị diệt : cũng có người viết « Đồng trụ chiết, Giao chỉ tuyệt »). Trong ký ức người Việt Nam, Hai Bà là tượng trưng của trí bất khuất, của lòng yêu nước, độc lập tự chủ, đồng thời lại là trường hợp rất hiếm hoi trong lịch sử nước ta mà phụ nữ làm vua – (ngoại trừ Lý Chiêu hoàng, nhỏ tuổi làm vua bù nhìn (1224-1225), trước khi bị ép nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh ; và tất nhiên là khác với trường hợp các bà thái hậu nhiếp chính. Ngay cả trong sử Trung quốc, theo tôi biết, cũng chỉ có một trường hợp, là Vũ Tắc Thiên là phụ nữ làm vua).

Nhân nói về đoạn thơ về Hai Bà Trưng trong Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái nói trên, tôi xin trích vài dòng của một bài của ông Lê Văn Nghi đăng trong mục « Bạn đọc và Tòa soạn » của tạp chí « Xưa và Nay » số 258, tháng 4/2006, trang 42. Ông ta viết : [Trích] : « […] Tôi hoàn toàn không có ý định phê phán quan điểm của hai đồng tác giả mà chỉ rất băn khoăn vì sao sau mấy chục năm giải phóng đất nước mà ta còn cho lưu hành trong sách giáo khoa (cũng như trong Quốc Sử Diễn Ca ) của chúng ta những quan điểm phi xã hội chủ nghĩa một cách tệ hại như :

- Mã Viện, kẻ thù xâm lược nước ta, sao lại được suy tôn là anh hùng (của ai ?).

- Từ « Nữ Nhi » ở đây là một sự mỉa mai miệt thị khá thâm độc (dù là vô tình hay cố ý).

- Hai Bà Trưng tuẫn tiết là một hành động anh hùng (Thà chết không bao giờ hàng giặc) chứ đâu phải thất thế tự tử một cách khiếp nhược như những kẻ phàm phu.

- ¼ phần còn lại của bài thơ chỉ dành cho ca ngợi chiến công của Mã Viện (mà thực chất là những cuộc tẩm máu đồng bào ta !).

- « Hồ Tây vắng mặt còn ai » … gieo vào lòng người đọc nỗi tuyệt vọng nặng nề !

Nếu bài thơ này hiện nay còn được xem là bài Quốc Sử Diễn Ca thì đề nghị nên xóa đi, nếu không nó đã, đang và sẽ còn xúc phạm nghiêm trọng vong linh của Hai Bà Trưng đồng thời đả kích nặng nề lòng tự tôn dân tộc của đồng bào Việt Nam. [Hết phần trích]. 

Tôi (Liễu) xin miễn không bàn về mấy dòng viết này của ông Lê Văn Nghi.

Lại có bài thơ « Vịnh hai Bà Trưng » ở cuộc thi thơ do đền Hai Bà ở Hà Nội tổ chức (có lẽ vào cuối thập niên 30 đầu thập niên 40 của thế kỉ 20 ?), của ông Hoàng Thúc Hội (còn gọi là cụ cử Cót), một thời được khá nhiều người biết:

Ngựa Gióng đã lên không.
Voi Thanh còn chửa lồng.
Một chồi hoa nụ Lạc.
Muôn dặm nước non Hồng.
Giăng sáng gương Hồ Bạc.
Mây tan dấu Cột Đồng.
Nén nhang lòng cố quốc.
Xin khấn một lời chung.

Câu đầu nói việc Thánh Gióng dẹp giặc Ân đã xảy ra trước Hai Bà (truyền thuyết Phù Đổng thiên vương, thời vua Hùng thứ sáu); câu thứ nhì nói sự việc vua Quang Trung phá quân nhà Thanh còn chưa xảy ra (1789) ; câu thứ ba và thứ tư nói tới Lạc Hồng; vv.).

Lại nhắc chuyện thời nhà Minh, một sứ ta sang Tàu, bị vua Tàu ra câu đối : « Đồng trụ chí kim đài dĩ lục » (Cột đồng tới ngày nay rêu đã xanh), để nhắc lại tích Mã Viện sang chiếm lại nước ta thời hai Bà Trưng (năm 43) rồi dựng cột đồng, chủ ý là để hạ nhục ta. Sứ ta đối lại : « Đằng giang tự cổ huyết do hồng » (Sông Bạch Đằng từ thuở xưa, máu còn đỏ) để nhắc lại hai chiến công : Ngô Quyền phá quân Nam Hán (938) và Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên (1288). Câu đối thật là hay. Theo cuốn Từ điển Văn hoá Việt Nam, nxb Văn hóa-Thông tin 1993, thì tác giả vế đối là thám hoa Giang Văn Minh, đi sứ, vì câu đối này mà bị vua nhà Minh sai giết năm 1638, sau mới cho mang xác về nước.

Lại liên tưởng đến một giai thoại. Thuở thịnh thời chế độ ông Ngô Đình Diệm, một bức tượng hai bà Trưng được xây dựng ở Sài Gòn, do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vẽ kiểu và Nguyễn Văn Thế điêu khắc. Tượng bằng đồng nặng 3 tấn, cao 5,2m , đặt trên bệ 3 chân bằng xi-măng cốt sắt có gạch men xám bên ngoài, cao 10,6m. Tượng đặt ở quảng truờng Mê Linh, khánh thành ngày 11/3/1962 nhân dịp lễ kỷ niệm hai bà Trưng. Đến ngày 1/11/1963, do đảo chính, ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu bị giết, tượng đài bị phá hủy ; có thuyết cho rằng tại nhà điêu khắc dùng hai chị em bà Nhu (Trần Lệ Xuân và Trần Lệ Chi) làm kiểu mẫu để tôn vinh bà Nhu. Có thuyết khác cho rằng mẫu mặt tượng hai bà Trưng là bà Nhu và con gái là Lệ Thủy . Nhưng cũng có thuyết cho rằng kỳ thật ra mẫu mặt tượng hai bà Trưng là bà Nhu và … bà Nhu. Cũng lưu ý là đời nay thường vẽ hình hai bà Trưng đội khăn vành dây như mấy bà công chúa triều Nguyễn. Nhưng đã gần hai nghìn năm qua, đâu còn dấu vết gì để biết y phục thời Hai Bà ra sao !

Bùi Trọng Liễu

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
VIETNAM, DEUX DOCUMENTAIRES sur France 2 et France 5 05/03/2024 - 01/06/2024 — France 2 et France 5
France-Vietnam : un portail entre les cultures 17/05/2024 10:00 - 11:30 — via Zoom
CONFÉRENCE DÉBAT 24/05/2024 19:00 - 23:00 — la Médiathèque JP Melville (Paris 13e)
Ciné-club YDA: Bố già / Papa, pardon. 25/05/2024 16:00 - 18:15 — cinéma le Grand Action, 5 rue des Ecoles, 75005 Paris
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us
Kênh RSS
Giới thiệu Diễn Đàn Forum  

Để bạn đọc tiện theo dõi các tin mới, Diễn Đàn Forum cung cấp danh mục tin RSS :

www.diendan.org/DDF-cac-bai-moi/rss