"Vốn xã hội" ở Việt Nam...
Vốn
xã hội Việt Nam,
nguy cơ phá sản
và triển vọng phát huy
Thái Kim Lan
Bài viết sẽ đi từ “vốn xã hội” như một khái niệm mới – một khái niệm “mốt” trong khoa học kinh tế xã hội –, nội dung, giới hạn và khả năng ứng dụng của nó, từ đó thử phân tích những hiện tượng hao vốn trong bối cảnh xã hội Việt Nam từ 1975. Phần thứ ba truy cập lại một “lý thuyết” được xem là mô hình “vốn xã hội” trong lịch sử tư tưởng Việt nam trong triển vọng phát huy vốn xã hội hiện đại.
Trong lúc phần 1 chỉ thuần phân tích khái niệm để tìm mặt sau của vấn đề, phần hai đi từ một thực trạng “vốn xã hội” tại Việt nam, những hiện tượng tiêu cực bao hàm trong khái niệm vốn xã hội. Phần ba đưa ra một luận đề có tính phản đề có tính khiêu khích hay gợi ý, đồng thời có tính tổng hợp : Bourdieu hay Putnam đã triển khai khái niệm và dự án “vốn xã hội”, phái tân tự do (hay tân phóng khoáng, neoliberalism) sử dụng khái niệm “mốt” này như một terminus technicus có khả năng phối hợp lý thuyết và thực hành chủ trương toàn cầu hoá, thế kỷ 13, Trần Nhân Tông cũng đã đưa ra trong dự án vốn xã hội “Cư trần lạc đạo” cho nước Việt Nam căn cứ vào điều kiện bản chất và hoàn cảnh con người Việt Nam trong thời dựng nước và phát huy vốn dân tộc.
1. Vốn xã hội : từ khía cạnh kinh tế đến ý nghĩa nhân bản xã hội
Vốn xã hội (VXH) thường được hiểu như tổng thể những tương quan đời sống con người trong cùng một xã hội, bao gồm những gia sản văn minh văn hoá (kinh tế, triết lý sống, đạo đức, phong tục tập quán v.v...) mà con người trong một cộng đồng hay xã hội đã tạo dựng và phát huy.
Trong những nghiên cứu về VXH, lý thuyết về vốn xã hội từ những thập niên 80, 90 với Bourdieu, Putnam được định hình cụ thể. VXH được sử dụng trong nghĩa đặc thù có tính xã hội kinh tế. P. Bourdeau xem VXH bao gồm tài nguyên hiện thời và tương lai liên quan đến tương quan xã hội con người căn cứ vào sự quen biết và truy nhận lẫn nhau. Khái niệm VXH được phân biệt với vốn nhân bản, vốn văn hoá và dĩ nhiên vốn kinh tế. Sự khác biệt hiển nhiên nằm trong cụm từ “xã hội” và “vốn”.
Trước hết khi nói đến “vốn” trong cụm từ “vốn xã hội”, những người đặt tên đã nghĩ đến ý nghĩa đặc thù kinh tế của khái niệm “vốn”. Đơn giản, ở đây có một sự đầu tư của cải hay một tài sản nào đó, với mục đích “kiếm lời”, tiền hay vốn sẽ được nhiều hơn nhờ vào đầu tư, nếu một vốn không đem lại kết quả nhiều hơn, nó sẽ là tiền quăng đi.
Nhưng “vốn” xã hội lại khác với những vốn khác như vốn nhân văn (cá nhân riêng lẻ), vốn vật chất tiền bạc, khác với những tài sản công cộng như bảo đảm giao thông và quyền lợi công cộng mà nhà nước phải lo, vốn xã hội do xã hội đem đến từ những tương quan liên lạc tự nguyện giữa người và người, chính mối tương quan này ấn định vốn xã hội, nó không có tính vật chất như chính khái niệm “vốn” gợi lên, mà có ý nghĩa tinh thần, đó là sự tin tưởng lẫn nhau và sự sẵn sàng tương thân tương trợ giữa người và người đang chung sống với nhau. Vốn xã hội là tổng thể những tương quan tin cậy và tự nguyện mà trong lúc chung sống những thành viên trong cộng đồng hay đoàn thể kiến tạo nên, nó bao hàm sự hỗ trợ tình thương, tính thân hữu, liên lạc. Chính mối giây tương quan tinh thần qua lòng tin cậy lẫn nhau có thể đem đến lợi ích mà một xã hội cần có: sự an lạc và phúc lợi cộng đồng, an sinh hạnh lạc, đồng thời nó đem lại những món lãi vật chất: chính nhờ vốn xã hội sẵn có, những phí tổn chuyển nhượng (Transaktionen) được tiết kiệm, những thiệt hại, tổn thất do xung đột quyền lợi được giải quyết căn cứ vào những quy định đã được thoả thuận giữa những người cùng chung quyền lợi.
Được sử dụng trong những đề án phát triển xã hội kinh tế, khái niệm vốn xã hội giải thể những ám ảnh ý thức hệ thường mắc vướng trong các khái niệm về xã hội: ví dụ khái niệm về giai cấp, về ý thức hệ chính trị không bao hàm trong VXH theo nghĩa mới, ngược lại VXH là một khái niệm hàng dọc, nó nhấn mạnh một điểm mà lý thuyết tranh đấu giai cấp không chú ý đến: tương quan tương trợ lẫn nhau trong tự nguyện, người giàu giúp kẻ nghèo, người mạnh khoẻ giúp kẻ ốm, người thất học được bảo trợ, người đi tìm việc được giới thiệu hợp tác. VXH tạo nên một mạng lưới xã hội gồm tương quan giữa cá nhân và đoàn thể, giữa đoàn thể và đoàn thể. Nó là điều kiện cho một xã hội dân sự được phát triển trong hoà bình như đã nói ở trên.
Trường phái tân tự do nhìn thấy trong khái niệm này khả năng tích cực cho những hoạt động hỗ trợ phát triển trong tiến trình toàn cầu hoá
Bourdieu phân biệt VXH do những diễn viên (akteur), như là một nguồn cá nhân đến từ những tương quan xã hội với những cá nhân khác, trong lúc Putman nhấn mạnh đến mạng lưới xã hội bao gồm những tương quan giữa các nhóm hay đoàn thể. VXH là một nguồn quan trọng cho hiện trạng xã hội (Status) và an lạc cá nhân.
Tóm lại định nghĩa có tính hệ thống về VXH như sau: đó là tổng thể những yếu tố hỗ trợ cuộc sống cộng đồng và qua đó đẩy mạnh sự phát triển xã hội, còn gọi là mạng lưới xã hội.
Những nghiên cứu cho thấy rằng VXH càng tăng trưởng sẽ ảnh hưởng tốt cho hội viên của mạng lưới xã hội. Vì thế những tổ chức phát triển và ngân hàng thế giới nhận ra ưu điểm của sự cải thiện VXH, chính nó là yếu tố thiết yếu cho chiến thuật phát triển thành công.
Chính yếu tố tinh thần nền tảng “tin tưởng lẫn nhau” và sự tình nguyện hợp tác là điều kiện bảo đảm cho xã hội có khả năng phát triển về kinh tế, mà người Đức đã gọi là “hoà bình xã hội”. Thử lấy nước Đức làm ví dụ:
Sau thế chiến thứ hai, chính “hoà bình xã hội” đã đóng góp vào công cuộc xây dựng một nước Đức bị phá sản toàn diện do chiến tranh, trở thành một cường quốc trên thế giới. “Hoà bình xã hội” của một tập thể con người siêng năng, thông minh, có tinh thần khoa học và nhất là trung kiên và sẵn sàng hi sinh (chính những người phụ nữ Đức đã xây dựng nước Đức từ những đống gạch đổ nát, đã hi sinh tất cả cho công việc dọn dẹp tàn tích chiến tranh, và họ đã vực dậy tinh thần suy sụp của tù bình Đức, thanh niên Đức trở lại với niềm tin tương lai ), chính điểm tựa tình thương , tình thân hữu, tính tương liên – cơ sở căn bản của hoà bình xã hội, đã đem đến cho nước Đức trong những thập niên 60 sự tăng trưởng mạnh về mặt kinh tế, cụ thể là người dân có lương cao, hưởng được nhiều lợi tức và ít đình công, do đấy tăng trưởng được bảo đảm. Hoà bình xã hội bao gồm những biện pháp đem lại tin tưởng cho người dân: đó là quyền tự quyết và bảo đảm xã hội.
Chính trong tình trạng khủng hoảng kinh tế của nước Đức hiện nay, Koehler, Tổng thống đương kim của CHLB Đức, trong diễn văn ngày nhận chức, đã trở lại nhấn mạnh vai trò của vốn xã hội trong sự đóng góp phát triển kinh tế nuớc Đức.
“Hoà bình xã hội” là mạng lưới xã hội trong đó yếu tố tín cẩn, chuẩn mực (Normes) hỗ trợ lẫn nhau và những định chế thoả thuận hợp tác được thiết lập, nó tạo điều kiện hạ tầng cơ sở có thể nâng đỡ và phát huy tương quan xã hội đem đến lợi ích cho cá nhân và tập thể. Vốn xã hội từ đó có thể xem như một bảo đảm chữ tín với cộng đồng hay những đoàn thể khác, từ đó chữ tín là đặc tính tương quan giữa cá nhân hay đoàn thể.Trên bình diện quốc gia và kinh tế, vốn xã hội tạo nên một điều kiện không thể thiếu cho một hợp tác có ý nghĩa lâu dài và xây dựng trong ý hướng an lạc cộng đồng
Koehler muốn nhắc nhở cộng đồng Đức nên sẵn sàng ĐÓNG GÓP hợp tác tự nguyện trong công cuộc vực dậy nền kinh tế của Đức, cho thấy tương quan giữa vốn xã hội và phát triển kinh tế không thể tách rời nhau.
Sự kêu gọi này phải được hiểu như một thú nhận “vốn xã hội” Đức hiện nay đang thiếu hụt, bởi vì hiện nay người Đức không sẵn sàng bỏ “vốn xã hội” mà chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng lẻ, cá nhân. Trong trường hợp này Koehler chỉ nhìn khía cạnh “tiết kiệm” những phí tổn quốc gia nhờ vào vốn xã hội đã có sẵn, mà không nghĩ đến phí tổn đầu tư ban đầu cho vốn xã hội, những người phê bình ông nói rằng, vốn xã hội trước hết là một đầu tư, và nó cũng tốn của, không bao giờ không có đầu tư một vốn gì mà đòi có lãi được. Nếu nhà nước không đầu tư xây dựng, vốn xã hội càng ngày càng thu hẹp.
Từ những thành tựu của những nghiên cứu của Putnam (từ 1993) về vốn xã hội, ngân hàng thế giới giúp đỡ phát triển đã chú trọng đến yếu tố “vốn xã hội” như một trong những tiêu chuẩn đánh giá khả năng mang đến thành quả tốt cho mỗi dự án phát triển của quốc gia nhận lãnh dự án.
Vốn xã hội tăng thêm một khi cách giao tiếp giữa những cá nhân càng chặt chẽ và có uy tín, nhờ đó vô tình hay chủ ý những bổn phận xã hội thường xuyên của một hay nhiều đối tác được phát huy thêm, từ đó khả năng trung tín càng được thực thi. Đó là điều kiện hợp tác cá nhân cũng như đoàn thể trong một xã hội và trong tương quan quốc tế.
Trong tương quan đối tác, vốn xã hội trở nên một tiêu chuẩn đánh giá cho sự hợp tác kinh tế thay vào những khác biệt về quan điểm chính trị. Nó là ngõ tránh cho những mâu thuẫn quan điểm chính trị, trung lập hoá những lập trường tư tưởng dị biệt, để chỉ tập trung vào lãnh vực phát triển kinh tế. Với khái niệm VXH các nhà lý thuyết xã hội nhấn mạnh vai trò quan trọng của yếu tố kinh tế trong những liên hệ xã hội.
Theo P. Bourdieu, VXH cho ta xâm nhập vào những tài nguyên của đời sống xã hội như tương trợ, giúp đỡ, truy nhận, tri thức và quan hệ với những nhóm khác từ việc đi tìm chỗ làm, nơi học. Nó sản xuất và tái sản xuất những tương quan trao đổi, như tặng quà, làm đẹp lòng nhau, thăm viếng vv. Trong một xã hội, VXH nhỏ thì thế lực pháp lý và cảnh sát trị đóng vai trò quan trọng để bảo vệ tư hữu và điều hành nhà nước, bởi vì sự tin tưởng và sẵn sàng họp tác không đủ để giải quyết những vấn đề xã hội và mâu thuẫn giữa những cá nhân và đoàn thể.
Cường độ của VXH quan hệ đến sự tăng trưởng hay giảm thấp của tăng trưởng kinh tế. Hội nhập thành công có nghĩa là giúp những người bên lề xã hội gia nhập vào VXH (qua những phuong tiện đào tạo học đường, để có thể phát triển và gia tăng VXH).
VXH nhỏ làm tăng những chi phí chuyển giao (transaktion) và làm giảm năng suất sản xuất. VXH tích cực có ảnh hưởng kinh tế lên chính trị, nơi chốn, tăng trưởng và tạo nên công ăn việc làm, đẩy mạnh phát triển.
2. VXH trong tình trạng nguy cơ phá sản tại Việt Nam
Với vụ PMU 18 vấn đề tham nhũng tại Việt Nam
trở nên một vấn đề quốc tế. Những cơ quan đầu
tư giúp vốn phát triển nghi ngờ khả năng đáng
tin cậy của những người thực hiện dự án, và
đàng sau đó là cái “VXH”, điểm
tựa của người làm dự án. Không những
người thực hiện dự án chịu trách nhiệm, mà
toàn thể xã hội đều bị vạ lây. Đồng
thời hiện tượng này vén màn cho thấy
hiện trạng xã hội hiện nay của nước được hỗ trợ dự
án, trong đó mức tin cậy đang bị khủng hoảng.
Nó có thể có những hậu quả tiêu
cực cho công cuộc phát triển và xây
dựng xã hội trong thời đại toàn cầu hoá.
Tình trạng “cô dâu” Việt Nam, tình trạng gái điếm gia tăng, tảo hôn, con số nhiễm HIV, tỉ số phạm pháp gia tăng, con số tai nạn giao thông không giảm mà tăng, tham nhũng hối lộ trở nên chuẩn tắc tương quan xã hội, đang làm đen vốn xã hội tại Việt Nam, nếu không nói làm kiệt quệ. Xã hội Việt Nam hầu như mất đi vốn căn bản, mặc dù đời sống vật chất của người dân đã được cải tiến so với những thập niên 70, 80, đó là sự hao hụt lòng tin vào đoàn thể, vào nhà nước (do những người đại diện không đáng tin cậy). Sự an lạc cộng đồng thực sự trở nên bấp bênh.
Trở lại thập niên 70, sau cuộc chiến, xã hội Việt Nam đang nằm trong giai đoạn chuyển biến, thoát xác, đầy hi vọng và triển vọng phát triển, dù vốn kinh tế hầu như kiệt quệ, nghèo! Nhưng VXH có sẵn đã rất lớn, tiềm năng hoà bình xã hội rất dồi dào với sự sẵn lòng chung sức của toàn dân: tình nghĩa đồng bào, ruột thịt Bắc Nam, tình yêu nước, tình đùm bọc lẫn nhau khởi từ nền tảng gia đình vẫn còn vững chắc. Cái vốn chung ấy đã là nguồn suối tiềm năng cho sự phát huy an lạc cộng đồng thực sự trong xã hội.
Nhưng trong xu thế chiến thắng, chính sách mới đã muốn thay đổi VXH có sẵn bằng một VXH mới, theo dự án cách mạng xã hội với một công thức phổ quát và đặt định : “Yêu nước tức là yêu xã hội chủ nnghĩa” dựa trên nền tảng gọi là đạo đức cách mạng. Đây là một sự can thiệp từ bên ngoài vào VXH đã có sẵn, được xem là cách mạng. Theo lý thuyết, VXH có thể tự phát từ bên trong do sự quyết định của các thành viên sống trong đó, một VXH như thế có khuynh hướng phát triển tự nhiên, bởi vì xã hội luôn luôn sinh động trong biến chuyển, thay đổi, thích nghi và biến xác. Nhưng VXH cũng có thể bị thúc đẩy hay được hỗ trợ từ bên ngoài. Vốn đầu tư từ bên ngoài có thể thay đổi chuyển hoán VXH có sẵn bằng cấm đoán thế lực hay nâng đỡ để cải thiện trong mục đích đem lại phúc lợi cho toàn thể.
Trong trường hợp Việt Nam, nhà nuớc đã tự tay xây dựng một mô hình VXH theo định nghĩa giới hạn vào “xã hội chủ nghĩa”, một mô hình VXH khép kín với một mạng lưới xã hội sít sao từ Đảng như một đoàn thể có nội quy nhất định theo giáo điều Mác Lê và những đoàn thể có tính vệ tinh như : hội phụ nữ, hội cách mạng lão thành, đoàn thanh niên cộng sản, hội trí thức yêu nước vv... Với một sức thâm nhập vào quần chúng có tính chỉ huy trung ương hoá, những hình thức VXH khác như các cơ quan từ thiện và thiện nguyện của các nhóm tư nhân, của các tổ chức tôn giáo, những đoàn thể tư nhân (Hướng đạo, Gia đình Phật tử, Thanh niên Công giáo vv.) đều bị loại trừ, không được hoạt động. Sự loại trừ này xảy ra từ một chủ trương chính trị về VXH. Nhưng sự loại trừ đến từ cơ cấu tổ chức VXH mới, gọi là cách mạng, như những đoàn thể chặt chẽ, đóng kín (closed) chỉ dành cho hội viên chọn lọc mang đến một sự thay đổi VXH Việt Nam từ trong cơ cấu : đồng thời với chính sách “cải tạo công thương nghiệp và nông nghiệp” (đầu năm 1977) nhằm xoá bỏ tư bản tư nhân và ép buộc nông dân vào hợp tác xã, chính sách “học tập cải tạo”, kỳ thị lý lịch của người dân trên mọi lãnh vực, nhất là giáo dục khai hoá, cấm thành lập những đoàn thể thiện nguyện, kiểm soát và giới hạn hoạt động từ thiện tôn giáo, những hội đoàn phi chính phủ, dẫn đến khủng hoảng trầm trọng, không những trên phương diện kinh tế mà còn trên phương diện VXH : hàng triệu người di tản trốn khỏi Việt Nam. Một mảng VXH Việt Nam bị cắt đứt hay nói theo ngôn ngữ mới đây, một khúc ruột Việt Nam đã bị đứt đoạn, một vết thương không nhỏ cho đất nước và một di chứng oán hận trong lòng người vẫn còn tồn đọng cho đến ngày hôm nay.
Trường hợp VXH đen này là một trường hợp tiêu biểu cho sự quá tải về cách bỏ vốn xã hội mới, nó dẫn đến sự loại trừ những cá nhân và đoàn thể khác với những đoàn thể xã hội chủ nghĩa. Hiện tượng của VXH theo mô hình xã hội chủ nghĩa tương tự như một thứ cửa hàng đóng cửa, không nhận khách hàng ngoài thành viên, đã gây khó khăn cho sáng kiến đổi mới cũng như làm cho những đổi mới bị mai một dưới kỷ luật bó buộc của nội bộ đoàn thể.
Chính sự trung thành tuyệt đối hay tin tưởng cuồng tín trong một đoàn thể có hệ quả ngược lại 180° : đó là sự nghi ngờ, không tin cậy cá nhân ở ngoài hay những đoàn thể khác, những yếu tố này làm tan vỡ vốn xã hội dân sự thay vì phát huy VXH ấy. Có thể nói những đoàn thể khép kín như thế là phản xã hội, phi xã hội nếu hiểu xã hội là một môi trường hội nhập của những tương quan con người trong mục đích chung sống an vui.
“Hoà bình xã hội” như trong trường hợp nước Đức nói trên như thế không có cơ sở căn bản để phát triển và cuộc bỏ vốn mới trong khoảng các thập niên 70, 80 và trước thời điểm đổi mới không thể đem đến lãi xã hội. Sự an ninh chỉ được mạng lưới công an bảo đảm, chứ không phải đi từ quần chúng tự nguyện. Mặc dù những thành viên của VXH mới – phần lớn là đảng viên hay hội viên (như Hội nhà văn chẳng hạn) được hưởng những đặc quyền đặc lợi, – như thế là có lời, rất lời nữa là khác : lãi ấy đã tạo nên một giai cấp tư bản kiểu mới – nhưng đàng sau lớp sơn son là hố chia cách giữa người nghèo và người giàu càng ngày càng rõ rệt, nó gây ra cuộc phá sản vốn xã hội sẵn có theo hàng dọc :
Chúng ta hãy trở lại với khái niệm VXH cũ từ thời điểm làn sóng những người di tản.
Gần 3 triệu người dân bỏ nước ra đi. Họ mang theo những gì ngoài một ít của cải nhiều rủi hơn may, thường bị hải tặc cướp đi ? chắc chắn, họ mang theo oán hận, thất vọng cũng như hi vọng được sống ở một nơi nào khác ngoài đất nước Việt Nam. Nhưng vô tình, họ đã mang theo một cái vốn nhẹ tênh mà không biết : VXH Việt Nam. Chính cái VXH ấy, đó là gia đình còn lại, người thân còn lại, bạn bè còn lại, cái không gian ấy, tiếng chuông chùa ấy, chén cơm, con cá, những tình tương thân mà họ đã nhận được, lời khuyên của thầy của bạn, giáo huấn mà họ được trau dồi, gia đình, tình nghĩa thầy trò, tình bạn hữu, tình đồng đội, tín ngưỡng, nếp sống an lành trong cộng đồng xã hội từ tuổi ấu thơ. Chính cái vốn xã hội ấy, tưởng nó phá sản, trôi mất, nhưng nó lại nhân đôi hay nhân gấp triệu, gấp lên tỉ, nó trở thành tiền lãi xuôi về Việt Nam. Thống kê cho biết từ những thập niên 80, 90 người Việt nước ngoài đã giúp người trong nước với con số không nhỏ, mà nếu thiếu nó là một lỗ hổng lớn cho ngân sách quốc gia.
Thoạt tiên trong mấy mươi năm, những giúp đỡ này đã được nhà chức trách và những hội viên VXH mới đánh giá với con mắt dè dặt cảnh giác kẻ địch, thái độ thường có của những hội kín, tương tự như nếp suy nghĩ của những hình thức bè đảng kiểu Mafia, thái độ kì thị những người lạ hầu như là nguyên tắc xử thế. Mãi cho đến sự truy nhận gần đây, người ngoài nước mới được đánh giá là khúc ruột Việt Nam xa xôi đã được nối lại.
Nhưng cái VXH ấy vượt lên trên mọi chính trị đảng phái, nó là vốn liếng của con người Việt Nam đã được sống và lớn lên trong căn nhà nhân bản Việt Nam đã có từ khi dựng nước, và nó kiên trì không phôi pha, nó không hành động nhân danh một chủ nghĩa như chủ nghĩa yêu nước hay chủ nghĩa thương người, nó được gầy dựng từ lúc nằm nôi nghe mẹ hát: Thương người như thể thương thân, Lá lành đùm lá rách, Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn… Và trong nhà trường với sự giáo hoá nhân nghĩa lễ trí tín, từ bi hỉ xả. VXH ấy luân lưu truyền mãi cho những thế hệ kế tiếp, nó là gia sản truyền thừa với di chúc giản dị, cần khéo léo như cách dẫn nước trị thuỷ xưa nay, trở nên năng lượng dồi dào cho cuộc sống hay phá huỷ toàn diện cuộc sống.
Sự khủng hoảng vốn xã hội trong những thập niên vừa qua phát sinh ra hai hướng đi vòng (Umleitung, deviation) tạo nên sự biến thể tiêu cực của VXH : thứ nhất hiện trạng nghèo khổ thiếu thốn vật chất cùng với nạn thất nghiệp, trẻ em đường phố, biện pháp y tế còn khiếm khuyết, giáo dục tắc nghẽn vi thiếu hụt ngân qũi vv.., đã thúc đẩy những tổ chức tôn giáo, nhân đạo thiện nguyện tình nguyện đứng ra hoạt động xã hội, bằng những con đường tránh né, bán công khai.
Những tổ chức quốc tế giúp đỡ phát triển đã vào Việt Nam và Ngân hàng thế giới đã đầu tư những dự án phát triển. Mạng lưới xã hội được nới rộng cho nhiều tầng lớp quần chúng. Đây là những hình thức VXH giúp nhẹ gánh ngân quỹ quốc gia. Nhưng khổ thay, đồng thời với những trợ giúp bên ngoài, VXH hầu như có nguy cơ phá sản với những hiện tượng tiêu cực đã đề cập trên. VXH hiện nay như tình trạng của những cột bê tông bằng tre : sự tin cậy bị phá sản vì tham nhũng và lạm dụng (trường hợp PMU 18 đụng chạm đến tin tưởng quốc tế về sự chân thật của VXH Việt Nam), an lạc cộng đồng tan vỡ. Những nhóm bên lề (Randgruppen) phát sinh, nạn thanh thiếu niên phạm pháp và bị lợi dụng, nạn mãi dâm, nạn buôn người, buôn gái, nhiễm HIV càng lúc càng gia tăng, kẻ vô gia cư, du thủ du thực, băng đảng phạm pháp vv. Hiện tượng nhóm bên lề xã hội báo hiệu tiềm năng bất ổn định của VXH. Những nhóm người này vì khiếm khuyết giáo dục, ngôn ngữ không được trau dồi, tương quan đời sống kinh tế khó khăn không được hội nhập vào trong lòng xã hội. Họ ở bên ngoài chuẩn tắc xã hội và những giá trị nhân bản, bị cô lập và loại trừ, không được hội nhập vào quá trình sản xuất của xã hội, họ trở nên gánh nặng của nhà nước. Hiện tượng xã hội bên lề không do những kẻ trong cuộc lựa chọn mà chính là kết quả của chiến thuật loại trừ và làm tê liệt của những đoàn thể đang chế ngự. Giai cấp giàu nghèo đang được hình thành nhanh chóng trong lúc nền tảng đạo đức chỉ là những cộc tre mục nát, sự bóc lột con người đang có thể trở nên qui luật sống, nếu không có sự bảo vệ của luật pháp nghiêm chỉnh.
Hiện trạng này cho thấy, một VXH khép kín với hệ thống đoàn thể khép chặt, đảng viên và lý lịch công trạng thường gây nên sự kì thị và khai trừ những thành phần xã hội khác, một VXH nhỏ (so với con số 80 triệu người còn lại) không có khả năng hội nhập xã hội.
Không đóng kín, mở rộng mạng lưới xã hội và tạo khả năng hội nhập là điều kiện cho sự phát triển cộng đồng, cho hoà bình xã hội. J. Harris gọi một loại vốn xã hội không có khả năng hội nhập rộng rãi là vốn xã hội ảo (nó chỉ thực cho một nhóm người) hay phi xã hội.
J. Harris cho rằng khái niệm vốn xã hội mà Putnam sử dụng để khảo sát xã hội đã giới hạn khái niệm này trong tương quan kinh tế, nhất là cơ cấu con người bị đơn giản hoá như một homo oeconomicus – con người kinh tế –. Theo ông, trước khi là một vốn đem đến lãi suất (kinh tế), không thể bỏ quên những yếu tố chính trị, ý thức hệ, văn hoá đã cấu tạo nên xã hội dân sự. Cần phải nhận rõ xã hội dân sự nằm trong vòng quyền lực chính trị và chính những tác động của chính quyền thúc đẩy sự phát triển xã hội nhưng ngược lại cũng có thể làm cho vốn xã hội phá sản do những biện pháp có tính toàn trị làm tắt nghẽn mạch sống xã hội dân sự luôn luôn biến đổi. Mặt khác, hiện tượng vốn tiêu cực tại Việt Nam cho thấy mức độ tin tưởng duy nhất vào một hội đoàn có thể là trở ngại cho sự tin tưởng chung. Ngoài ý chí tình nguyện của cá nhân, chính nhà nước phải có những quy tắc cơ bản làm trung gian và bảo đảm sự tôn trọng lẫn nhau qua luật pháp dân sự, và chính sự tôn trọng luật pháp dân sự mới bảo đảm quyền bình đẳng. Tìm hiểu thêm những nguyên nhân sâu xa của sự tương liên giữa con người đang chung vốn xã hội cho thấy bề dày quá khứ của giáo dục gia đình qua truyền thống tôn giáo và truyền thống đạo đức là những yếu tố ấn định tính xã hội không đến sau yếu tố chính trị cũng như ý thức hệ và văn hoá.
3. Một mô hình lý thuyết VXH
đáp ứng đúng “mốt” hiện đại
đã
có trong truyền thống xã hội Việt Nam.
Từ những suy nghĩ trên cho thấy vấn đề then chốt của VXH thật sự nằm trong khả năng ứng dụng VXH mang tính xã hội chân thực, hầu thiết lập một nền hoà bình xã hội toàn diện bảo đảm an sinh và hạnh lạc của cộng đồng. Khả năng ứng dụng nằm trong hai điểm then chốt : mở cửa và hội nhập trong năng động và thức tỉnh, bởi lẽ xã hội là một khái niệm mở. Nhìn toàn diện, xã hội xuất hiện như một dòng thác đầy sinh động cũng như đa dạng, phức tạp trong sự chuyển tiếp và chuyển biến không ngừng. Cần phải nắm bắt được yếu tính của dòng chảy con người bằng một cái nhìn mới có khả năng tự điều chỉnh và đổi mới một cái nhìn toàn diện “không bỏ sót một hữu tình nào” !
Những người hoạt động xã hội trên thế giới hiện nay đang nhìn trong khái niệm VXH một mốt mới trong việc tìm hiểu và phát huy vốn xã hội như điều kiện cải tạo giúp phát triển xã hội trong nghĩa tích cực.
Có ngạc nhiên không khi ta đã có một của báu trong nhà ? Chính khái niệm vốn xã hội đã được Trần Nhân Tông (TNT) trong giai đoạn dựng nước sử dụng khi đưa ra một mẫu mực đạo lý sống trong một xã hội vừa dành được chủ quyền độc lập và đang ở trong giai đoạn kiến thiết đất nước. Trong Cư trần lạc đạo phú, “sống đời vui đạo”, TNT đã bàn về “xây vốn xã hội” cho con người Việt Nam trong buổi sơ khai lập quốc ấy, khi nói về “của báu trong nhà”. Của báu ấy trước hết là CON NGƯỜI Việt Nam, một vốn quý báu nhất trong xã hội. “Cư trần lạc đạo” gồm 10 hội trình bày toàn diện tư tưởng của TNT về xã hội Việt Nam, dự án giáo dục, đào tạo con người, “gây vốn” cho một xã hội nhân bản dựa trên bản chất và hoàn cảnh xã hội của người Việt nhằm có thể phát huy và bảo đảm an lạc cộng đồng.
Đọc 10 quán tưởng “ở đời vui đạo”, sự nghi ngại nêu dẫn một điển tích xưa cũ hoàn toàn biến mất, ngược lại tính hiện đại của quan điểm xã hội Trần Nhân Tông trở nên đầy thuyết phục : ở đây ta có thể tìm thấy sự cân nhắc minh triết về tương quan tương liên giữa cá nhân và xã hội, khả năng chuyển tiếp giữa công và tư. Với tư duy biện chứng toàn diện, Trần Nhân Tông luôn luôn mở ra một lối thoát hay khai phá khả năng giải phóng, đổi mới cho những phương thức tu chứng và kỷ luật thực hành. Nắm vững tinh yếu của khái niệm tự do trong Thiền học, TNT xây dựng một mẫu người Việt Nam lý tưởng nhập thế làm cơ sở cho sự thiết lập một xã hội dân sự.
Hội thứ nhất nói về không gian “Xã hội Việt Nam” của con người Việt Nam, đó là một không gian xuyên suốt thành thị và sơn lâm trong một tương quan đi về của muôn nghiệp, mà mục đích của con người là “dừng nghiệp xấu” chuyển nghiệp lành, được sống trong “an nhàn thể tính”. Nhưng an nhàn đối với TNT không chỉ ở sơn lâm, mà trần tục náo nhiệt cũng không chỉ ở thị thành, nếu con người không được khai sáng để đạt được một cái nhìn rộng mở trong quá trình thực tập về Tâm. Tu Tâm đặt nặng giá trị của trí tuệ và đạo đức của tấm lòng hơn tiền bạc châu báu vật chất :
“yêu tính sáng hơn yêu
châu báu
trọng lòng rồi mới trọng
hoàng
kim”.
Thành thị hay sơn lâm đều là đất thao luyện cho TÂM, không nơi nào là ưu việt hơn nơi nào. Sự thao luyện này bao gồm kỷ luật nghiêm túc :
“Sạch giới lòng, dồi giới
tướng
Nội ngoại nên Bố tát trang
nghiêm.
Ngay thờ chúa thảo thờ
cha..
Đi đổ mới trượng phu
trung hiếu”. (Hội
thứ 6)
Bồ tát trang nghiêm thực hiện bổn phận trong xã hội, hiếu thảo với cha mẹ và trượng phu nghĩa hiệp với người đồng loại, đồng thời luôn luôn chuẩn bị cho giải phóng tự do, không vướng mắc :
“Áng tú tài tính
sáng chẳng tham.
Há vì ở Cánh Diều
Yên tử.
Rần thanh sắc, niệm dừng
chẳng chuyển.
Lọ
chi ngồi am Sạn non Đông” (H3).
Điểm đặc biệt trong lý thuyết ở đời vui đạo là tính toàn diện, bao gồm mọi bình diện : xã hội căn cứ vào triết lý tuỳ duyên, không ép buộc, không khai trừ “đói cứ ăn đi mệt ngủ liền”, hành dộng đạo đức thanh liêm, không ham xiểm nịnh, đánh mất sự tin cậy của cộng đồng trong lúc cải thiện đời sống cộng đồng :
“Vâng ơn Thánh. Xót mẹ cha, Thì thầy học đạo. Mến đức Cồ, kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay” (H.7),
trau dồi đời sống tâm linh căn cứ vào giới hạnh :
“Tích nhân nghì, tu đạo
đức,
Ai hay này chẳng Thích ca,
Cầm giới hạnh,
đoạn gian tham,
Chỉn thực ấy là Di Lặc”.
Một VXH mang nhiều yếu tố xã hội trong nghĩa không kỳ thị, năng động khai mở và tạo khả thể hội nhập, không phân biệt giai cấp và khai phóng tự do, nguồn suối của nhân nghĩa và tình thương :
Dứt trừ nhân ngã
Thì ra thực tướng kim cương
Dừng hết tham sân
Mới làu lòng viên giác
Vốn xã hội giàu tính xã hội không phân biệt giàu nghèo, đẳng cấp, dấn thân cho đời, tu tâm vì đạo :
Dựng cầu đò, xây chiền tháp,
Ngoại trang nghiêm sự
tướng hãy
tu
Săn hỷ xả nhuyễn từ bi
Nội tự tại kinh lòng
hằng đọc (H.8)
Một lý thuyết chứng tỏ tính chân lý của nó trong thời gian, khi nó đứng vững và có khả năng đem lại an lạc cho cộng đồng. VXH mà TNT dựng lên đã được tiếp nối và phát huy trong chiều dài lịch sử Việt Nam, nó trở nên niềm tự tin và sức mạnh tâm thể con người Việt Nam, đã từng xem nhân nghĩa trên công danh, chuộng đạo đức chung sống hoà bình, đổi thân tâm thường tục vươn đến con người cao quý :
Chuộng công danh, lồng nhân nghĩa
Thực ấy phàm phu
Say đạo đức, dời thân tâm
Định nên thánh trí. (H.10)
Chính trên con đường phát huy hoà bình xã hội, con người được truy nhận bình đẳng trong cơ hội trở nên thánh hiền, chỉ khác biệt khi Tâm con người bị hủ hoá, vật chất hoá và tự mâu thuẫn, tự phá hủy cơ hội làm người trong xã hội :
Mày ngang mũi dọc
Tướng tuy lạ xem ắt bằng
nhau
Mắt thánh lòng phàm
Thực cách nhân vàn vàn
thiên lý. (H.10)
Điểm mạnh nhất đã đứng vững với thời gian là sự hình thành đức tâm Việt Nam có ích cho hoà bình xã hội : đức tâm ấy vừa tự chủ vừa bao dung, có thể vượt lằn phân chia cá nhân và xã hội, bảo đảm cho sức phát huy vốn xã hội trong mạch sống tiềm tàng của nó. Có lẽ TNT là một nhà kinh tế xã hội đã đưa ra một số giải pháp mà Bourdieu, Putnam và Harris vẫn còn băn khoăn trước vấn nạn : làm thế nào để chuyển đổi sự tin cậy của một đoàn thể (vốn xã hội nhỏ) sang một toàn thể cộng đồng, làm thế nào để nhận VXH đến từ bên trong, ngoài những hỗ trợ từ bên ngoài ? Chính sự rèn luyện cái TÂM không phân biệt “vô tâm” là điều kiện để chia đồng thời với sự hướng dẫn anh minh của những người lãnh đạo đã thấu triệt được đạo “tuỳ duyên”, rộng mở, không giáo điều hạn hẹp :
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền
Có báu trong nhà thôi
tìm
kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi
Thiền
(Bài kệ)
Với “Cư trần lạc đạo” TNT đã gây vốn để cả dân tộc Việt Nam cùng chia lời, chia sẻ chứ không chia cắt, đoạt vốn.
Và để thay kết luận, nếu không có cái vốn xã hội Việt Nam cùng chia ấy, môt người Việt Nam xa quê lâu năm như tôi đã không có những thôi thúc trở về.
Thái Kim Lan
(tham luận tại hội
thảo về "Vốn xã hội"
do tạp chí Tia Sáng tổ chức mùa hè 2006 tại Hà Nội)
Tài liệu tham khảo :
John Harris, Social Capital in: Fine, B.; Jomo, K.S. (Hg.): The New Development Economics: A Critical Introduction. Delhi/London 2005, i.E.
Bourdieu,
Pierre (1980): "Le
capital social :
notes provisoires". In: Actes de la
Recharche en Sciences
Sociales, 31: 2-3 (deutsch in diesem Heft, S. 263-266).
Bourdieu,
Pierre
(1986): "The Forms of Capital". In: Richardson, J.
(Hg.): Handbook
of Theory and Research for the Sociology of
Education. New York, S. 241-258.
Bourdieu, Pierre
(1993):
Sociology
in Question. London.
Bourdieu, Pierre (1983) : Oekonomisches Kapital - Kulturelles Kapital - Soziales Kapital. In: Die verborgenen Mechanismen der Macht. VSA, Hamburg 1992, S.49-80.
Putnam,
Robert D. (1993a) : Making
Democracy Work:
Civic Traditions in Modern Italy. Princeton, NJ.
Putnam,
Robert D. (1993b): "The
Prosperous Community: Social Capital and
Public Life". In: The American
Prospect, 13, S. 35-42.
Putnam, Robert D. (2000): Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community. New York.
Lin, Nan (2001): Social Capital: A Theory of Social Structure and Action. Cambridge.
Các thao tác trên Tài liệu