Đêm cuối cùng ngày đầu tiên
Đêm cuối cùng ngày đầu tiên
Bảo Ninh
Người thân, bạn bè, đồng
nghiệp non nửa sống trong đây. Nhưng,
thú thực là chưa khi nào tôi có
thể hoà mình, có thể nhập thân
được vào với không gian, với
nhịp sống đương thời hàng
ngày của Thành phố vĩ đại
này. Không phải chỉ vì đã
không sinh ra lớn lên ở đây, mà
còn vì chưa bao giờ tầm
nhìn của tôi vượt ra được
khỏi những ký ức, những ấn
tượng về Sài Gòn trong hai ngày
29 và 30 tháng Tư của 34 năm về
trước.
Hầu
như lần nào vào Nam tôi cũng tìm
về quận lỵ Củ Chi, điểm khởi
đầu cuộc tấn công vào nội
đô của Trung đoàn. Tất nhiên
là ngày đó bây giờ khác
nào kiếp này kiếp trước. Thật
khó mà nhìn thấy lại một dấu
mờ nào của dĩ vãng. Đâu rồi
Cầu Bông ? Đâu thành Quan Năm,
trại Quang Trung, cầu Tham Lương, dệt
Vinatexco, Bà Quẹo, đường Lê Văn
Duyệt, ngã tư Bảy Hiền, nhà
thương Vì Dân ? Từ quận lỵ
Củ Chi về tới Bảy Hiền,
chặng đường chẳng bao xa, nhưng cái
ngày 29 ba mươi tư năm trước
ấy thì thật là dài, có thể
nói là ngày dài nhất trong cuộc
đời của mỗi chiến sĩ Trung đoàn
24 Bộ binh, Trung đoàn 273 Thiết giáp
và Trung đoàn 234 cao xạ thê đội
quân binh chủng hợp thành đột
kích thọc sâu hướng tây bắc
Sài Gòn. Mức độ ác liệt
của những trận chiến ngày 29 chẳng
thua kém gì so với các trận trong
Chiến dịch Buôn Ma Thuột, thậm
chí cả so với những ngày cao đỉnh
của Mùa khô 1972...
Ngày 30, bốn giờ sáng, pháo lớn
Quân đoàn 3 bắt đầu lên
tiếng, càng lúc càng dữ dội,
cấp tập bắn phá phi trường. Bảy
giờ, tiểu đoàn 5 mà mũi
nhọn là đại đội 7 cùng
gần chục xe tăng T54 tấn công ngã
tư Bảy Hiền.
Sau non một tiếng đồng hồ cận chiến qua từng ngôi nhà, C7 mở thông được ngã tư. Trước mắt đã là những thời khắc cuối cùng, những thước đất cuối cùng của cuộc chiến tranh đằng đẵng cả đời người. Và cũng là thử thách cuối cùng, thương vong cuối cùng.
Từ ngã
tư Bảy Hiền, K5 của 24 đánh cắt ngang qua Tân Sơn Hoà
tấn công cửa số 5, K4 và K6 tấn
công cửa sổ 4 phi trường. Trung đoàn 28 theo đường Võ Tánh
qua Lăng Cha Cả tấn công Bộ Tổng
tham mưu. Trung đoàn 66 xuôi đường
Lê Văn Duyệt tiến vào trung tâm
thành phố. Đến đúng 10 giờ
30 quân dù trấn giữ Cửa số
Năm vỡ trận, lối vào phi trường
mở toang. Các đại đội của
trung đoàn 24 cùng các phân đội
xe tăng Trung đoàn 273 đánh địch
liên tục qua các khu vực phòng thủ
của Sư bộ sư đoàn 5 không
quân, Bộ tư lệnh dù, khu ra đa,
khu cố vấn. Trung đoàn trưởng
Vũ Tài trực tiếp chỉ huy K6 phát
triển nhanh đến trại Đavít để
hội quân với Phái đoàn quân
sự của tướng Hoàng Anh Tuấn. Đến đúng 11 giờ 30 thì anh
em tiểu đoàn 6 đã kéo được
lá cờ Quyết Thắng của Sư đoàn
lên đỉnh lầu chỉ huy không lưu.
Song, qua trưa đến chiều tiếng súng
chống trả của quân dù vẫn
lúc thưa lúc rộ lên. Mãi tới
14 giờ 30 quân ta mới dứt điểm
được ổ đề kháng cuối
cùng ở góc tây phi trường.
Chiều Sài Gòn vội vã rào xuống một cơn mưa để làm nguội đi không gian nóng bỏng của trận quyết chiến vừa kết thúc.
*
Cơn mưa chiều 30 đã giúp dập
tắt hầu hết các đám cháy
đang loang rộng khắp phi trường. Nắng lên, gió mạnh, những cồn
khói đen ngòm lụi dần chỉ còn
tro than bay tung toả.
Những toán lính dù cuối cùng
lóp ngóp bò ra khỏi các công
sự, hai tay đưa cao hoặc chắp sau gáy.
Nhưng chẳng ai chĩa súng vào họ,
chẳng ai thiết gì bắt họ làm tù
binh. Các “ thiên thần mũ đỏ ” trút bỏ mọi thứ vũ khí có
trên người, rũ bỏ binh phục, người
ngợm trần trụi còn độc cái
quần cụt, rồng rắn lũ lượt
nối nhau tà tà đi ra phố. Tiểu
liên, súng ngắn, lựu đạn, dao
găm, mũ sắt, áo trận, giày đinh
lăn lóc la liệt trên dọc các
đường băng.
Khắp
sân bay ngổn ngang chồng đống đen
xì những hậu quả của trận đánh
trong ngày, của những đợt pháo
kích và oanh kích liên tục
suốt từ đầu chiến dịch. Bộ
đội trung đoàn 24 lại phải lo thu
dọn tử thi. Không nhiều, nhưng rải
rác, dụi dọ trong khắp các xó
xỉnh hầm hố công sự, trong bụng
máy bay, trong xác xe hơi, xe thiết giáp. Đa phần là lính nhưng cũng
vài
xác dân thường. Có những người
đã chết từ mấy ngày trước
rồi.
Riêng
trung đội chúng tôi thì phải
nhận một trọng trách rất lạ đời
là đi săn cẩu. Từ góc phía
đông đường băng quân sự cả trăm con bẹc-giê vỡ chuồng
chạy toả ra khắp sân bay. Không phải
loại cẩu giữ nhà vẫn thường
thấy mà là những con thú hình
thù ghê sợ, to như con bò, gầm
hú như cọp, lao nhanh như tên bắn,
dữ tợn, điên dại lồng lộn. Mãi gần tối chúng tôi mới quăng
thòng lòng chụp được con “ Ních ” cuối cùng kịp trước khi nó lao
xổng ra khỏi cổng Phi Long.
Chiều buông. Tất cả các đám cháy đã tàn hết. Ánh tà nhuộm đỏ phi trường. Tay chiến binh chót cùng của Quân lực Cộng hoà từ trong một chiếc C130 đột nhiên chui ra đầu hàng ! Cái gã nực cười ấy chẳng phải phi công chẳng phải quân dù, chỉ là một tay trung sĩ trong pháo đội phòng không mà lính tráng với uý tá đã tan chạy từ tám hoánh. Chiếc máy bay mà gã chúi vào ẩn từ sáng sớm bị đạn cối phá toang buồng lái, bị đạn tiểu liên bắn rỗ nát hai bên sườn, vậy mà may phúc cho gã là máy bay không bốc cháy. Chiếc C130 ấy cũng là chiếc phi cơ rất nực cười. Đấy là chiếc máy bay cuối cùng đáp xuống ngay trước khi tất cả các phi đạo bị hoả lực quân ta khoá cứng lại. Nhưng chuyến bay liều mạng ấy lại chỉ tha xuống cho thành phố đang bị bao vây toàn những thứ tầm phào : những hồm gỗ chất đầy ly tách thuỷ tinh, hòm thì chứa toàn giày da, hòm thì mỹ phẩm đàn bà... Và báo ! Hàng trăm tờ Nation số ra ngày 28 ở Bangkok, tờ Kinh tế Viễn Đông ra cùng ngày ở Hồng Công, tờ Người hướng đạo Thiên Chúa giáo, tờ Playboy, tờ Sao và Vạch. Chặt chẽ, răm rắp, hiệu quả xiết bao cơ chế vận hành của bộ máy quân sự Mỹ, nhưng mà cũng là kỳ quái và nực cười quá sức tưởng tượng...
*
Chiến quả đầu tiên của quân ta trong buổi chiều tối ngày 30 tháng Tư là giấc ngủ ! Khắp nơi trong phi trường la liệt những cánh võng. Có tay chẳng buồn võng, cứ vậy lăn ra làm một giấc trên thềm đá hoa nhà ga, trên ghế phòng chờ, trên mặt bàn buồng vé...
Nhưng tổ ba người chúng tôi thì
không được hưởng cái sung
sướng đó. Chúng tôi đang
đi vào trong nhà ga sân bay để
tìm chỗ ngả lưng thì “ đụng ”
phải chính uỷ Bùi Hoè. Anh dắt
theo hai đứa nhỏ, thằng bé chừng
mười tuổi, con bé mới khoảng
lên sáu lên bảy. Lính ta tìm
thấy hai đứa trong một chiếc xe hòm đậu vạ vật trong bãi xe hàng
trăm chiếc vô chủ ngoài cổng Phi
Long. Cha mẹ hai đứa chở chúng tới
phi trường. Để chúng ngồi lại
trong xe, họ vào nhà ga, rồi không
thấy quay ra nữa. Như vậy là hai đứa
bé bị nhốt trong cái cũi bí
thở, nóng như thiêu, không giọt
nước hột cơm, giữa cảnh hỗn
loạn, pháo dập, đạn lia. Khi bộ
đội phá cửa xe đưa chúng ra
hai đứa chỉ còn thoi thóp. Tuy nhiên
được uống được ăn và
tắm táp chúng hồi lại rất
nhanh. Gia đình chúng vừa từ Huế
chạy vào, ngụ ở nhà ông cậu trước khi ra sân bay. Nhà ông cậu
ở đường Đồng Khánh, thằng
bé nhớ vậy nhưng không nhớ số
nhà.
Đưa
hai cháu về cho gia đình. Chính uỷ
ra lệnh. Đã mệt lử, đã buồn ngủ đến muốn gục ngã
ngay, nhưng biết làm sao được. Chúng tôi kiếm trong bãi xe một
chiếc Jeep lùn và moi được
từ trong đám dù vừa buông súng
một tay tài xế.
Chúng tôi đưa hai đứa nhỏ
rời sân bay hướng về thành
phố mới giải phóng. Thành phố
vĩ đại, mênh mông, sâu thẳm,
chằng chéo muôn ngả. Tay tài xế
tiếng là lính dù nhưng đại
lớ ngớ, lại là dân miệt vườn
Mỹ Tho chẳng rành gì đường
xá Sài Gòn nên cứ chạy loanh
quanh phập phù. Vòng vo, chậm rề mà
cứ lạc mãi. Quân ta tuy đông,
những năm quân đoàn, nhưng vì
Sài Gòn quá rộng lớn nên tới
khuya ngày 30 còn rất nhiều đường
phố chưa xuất hiện bóng dáng bộ đội. Mà tiếng súng,
không rõ ràng là chỉ thiên hay
bắn thẳng thì càng lúc càng
rộ lên loạn trời. Ba đứa tôi ngồi trên xe súng vẫn lăm lăm
trong tay, đạn vẫn lên nòng, dò
dẫm qua từng ngã tư, ngã năm,
ngã bảy, chỗ đông nghịt
người xe ùn tắc, chỗ vắng
tanh vằng ngắt. Gần 9 giờ đêm mới thấy biển đề tên đường
Đồng Khánh. Chiếc Jeep gắn đại
liên bò rù rù dọc con phố với
hy vọng thằng bé nhận ra được
nét quen nào đấy. Chạy suốt một
lượt, vòng lại chạy lượt
nữa. May làm sao, chính là con bé
em nhận ra mặt tiền nhà ngoại.
Chúng tôi bấm chuông, đập cửa.
Hồi lâu mới có người rón
rén ra mở. Không ai khác chính
là mẹ của hai đứa bé. Thật
không sao tin được. Hai vợ chồng họ
đã chở con ra phi trường vào
buổi tối ngày 28, hy vọng là có
thể kiếm được chỗ trên
tàu bay Mỹ. Nhưng vừa đỗ
xe lại ở cửa phi trường thì
gặp pháo kích, lập tức tất cả
rồ loạn lên, bố đằng bố, mẹ
đằng mẹ, quăng hai đứa con lại
trong xe. Suốt đêm 28, cả ngày cả
đêm 29, gần trọn ngày 30 cũng
không một mống nào dám lai vãng
tới phi trường để tìm hai đứa
nhỏ. Mệt, chán, buồn ngủ, chúng
tôi “ bàn giao ” hai đứa con
cho người mẹ rồi bỏ đi luôn.
Chiếc xe đã hết xăng nên chúng tôi trả tự do cho tay tài xế, rồi đi bộ tìm lối trở về Tân Sơn Nhất. Ba đứa, một hàng dọc, dãn cách thưa, lặng lẽ bước, y như là mấy chàng Vệ Quốc “ một lần vào thành phố ” của Trần Đăng.
Đã quá
mệt, quá buồn ngủ,
lại chắc chắn là đã hoà
bình rồi, không cần phải quá
khẩn cấp nữa, chúng tôi chọn một
chỗ để qua đêm. Chỗ ấy
có vẻ như là một công viên. Không nhà cửa, nhiều cây cối (có lẽ là khu
nghĩa trang Mạc đĩnh
Chi ? ). Tôi gác phiên đầu, tới
nửa đêm. Quang rồi Nghi phiên nửa
đêm về sáng. Nghi gác phiên
cuối, khi trời rạng sáng đã
không lay mọi người dậy mà lại
ngả người ra võng chủ quan đánh
tiếp một giấc ngủ nướng...
Những tiếng động lạ khiến tôi choàng tỉnh. Theo bản năng tôi chực vồ lấy AK, nhưng rồi lại nằm im.
Trời đã
sáng bạch. Một đám khá đông
dân tình hiếu kỳ quây thành một
vòng rộng bao quanh “ bãi khách ”
của ba anh bộ đội Giải phóng. Qua khe bọc võng, tôi nhìn lên tán
cây, lên cao nữa, lên bầu trời
tháng Năm cao xanh vời vợi. Hoà bình,
phải, đã hoà bình rồi, tôi
chợt nhớ ra, và đến lúc ấy
tôi mới thực sự cảm thấu
vẫn tận tim mình rằng mình đang
giữa lòng Sài Gòn, trung tâm của
giấc mơ lớn lao, đoạn trường
của bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu con
người còn sống hay đã
chết trong cuộc trường chinh này.
Nước mặt ngày thắng lợi nóng
rực đau nhói. Sắp sửa 35 năm trời
rồi, nhưng tôi nghĩ rằng đến
nay đêm đêm trong lòng Thành phố
vẫn còn biết bao nhiêu con người
mất ngủ vì ký ức chiến tranh.
Nỗi buồn thương vẫn khiến cặp
mắt của bao người phải âm
thầm nhoà lệ. Hàng bao nhiêu người
cha người mẹ mất một, mất
hai, mất ba, thậm chí mất tất cả
những người con của mình trong
chiến tranh. Những người vợ mất chồng. Những cặp tình nhân
bị chiến tranh chia lìa, mãi mãi
không bao giờ còn gặp lại nhau.
Ngày 30 tháng Tư. Niềm vui chiến
thắng, hạnh phúc hoà bình và
nỗi đau mất mát. Hương hoa và
khói hương. Những nỗi niềm ấy
trong lòng người dân luôn luôn là
một chứ không tách bạch ra như
là nhiều người vẫn tưởng.
BẢO NINH
NGUỒN : Tuần báo Văn Nghệ và trang mạng phongdiep
Các thao tác trên Tài liệu