3 truyện ngắn của Đào Vũ Hoài
3 truyện ngắn
của Đào Vũ
Hoài
Đào Vũ Hoài, tác giả 3 truyện ngắn mà chúng tôi hân hạnh giới thiệu với độc giả dưới đây, là một nhà văn trẻ, hiện sống ở Paris. Ba truyện ngắn này tuy khác nhau, nhưng giữa chúng có một mối quan hệ mật thiết. Bởi vậy cho nên, theo đề nghị của tác giả, chúng tôi đã đăng cả ba truyện tiếp theo nhau trên cùng một trang web để độc giả dễ nắm bắt hơn mối quan hệ ấy.
Đọc truyện ngắn của Đào Vũ Hoài, người ta có thể hơi bị ngạc nhiên, thậm chí ngỡ ngàng, khi bắt gặp đây đó những từ ngữ rất độc đáo. Đó là những từ ngữ,mà tác giả đã tự sáng tạo ra, chưa nằm trong một cuốn từ điển nào, và có lẽ cũng chưa có khái niệm rõ rệt đối với người đọc ! Phải chăng đây là do một nhu cầu thẩm mỹ ? Hoặc do một phản ứng tự nhiên của tác giả đối với những khuôn mẫu, khái niệm, đã có sẵn trong ngôn ngữ diễn đạt thông thường ? Hoặc nữa, một thách thức đối với cái ngôn ngữ cũ mòn ấy ?
Dẫu sao, truyện của Đào Vũ Hoài, dù có bí hiểm, siêu thực đến đâu, cũng không nằm ngoài cái khuôn khổ lô gích thông thường, và một quan niệm nào đó về đạo lý. Truyện của anh có một sức hấp dẫn đặc biệt, do cách dẫn truyện sinh động và cách hành văn điêu luyện, khiến cho người đọc luôn luôn theo sát được mạch truyện, và nắm bắt được cái ý nghĩa tượng trưng sâu sắc của nó.
Văn Ngọc
Truyện ngắn 1 :
Chạnh
Riêng Một Độ Trăng Vỡ Lở
Đào Vũ Hoài
Nguyễn
Trọng Trí,
bút danh Hàn Mặc Tử,
sinh 22-9-1912 tại Lệ Mỹ (Đồng Hới),
từ trần 11-11-1940 tại Qui Hòa.
Người đàn ông ngồi một mình trong
góc sân trại, cố sức vói lưỡi trăng khuyết soi vào đấy gương mặt của
một đời đang nham nhở vỡ nhoét ra, soi cả bấy nhiêu ước mộng rỉ mủ hôi
thối. Nhưng vòm sáng nhờ nhợ trên cao nhân lành hắt ngược vào hồn ông
ta một dung nhan tuấn tú của một thời đã xa xôi lắm. Ông ta méo xệch
miệng cười với trăng thầm tạ ơn. Lặng lẽ mình một bóng ông ta thều thào
cầu nguyện
:
Triều dâng nghìn
sóng, triều dâng
Muôn nghìn ngọn sóng ở cõi
lòng
Xác thân đau nhức không sao ngủ
Tôi trải hồn ra lênh láng trăng
Ngẩng trông một trời khuya thanh thoát tay lần
chuỗi
Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh, linh hồn tôi đã mỏi
Xương thịt tôi đây vỡ lở sượng sần
Thao thao tê điếng như chợt reo nguồn sống
Khâm bão oằn oại đến bao giờ
Đêm nay như mọi đêm trăng sáng một mình tôi
Yên giấc tinh khôi bốn bề trần thế
Chiêm bao điểm tích tinh khiết lạ
Hằng đêm vũ trụ chầu Thánh Thể nào ai biết
Tôi góp vần thơ có tuổi chúc tụng Thiên Nhan
Trăng cùng nao nức rước Ngôi Lời cứu thế
Vâng, ngây ngất một trời trăng say mầu nhiệm
Thinh sắc đê mê cất tiếng hát ngợi khen
Doành ngân một dải uy nghi áo lễ
Dâng đức tin, run rẩy trước phép lạ tạo thành
Lạy Thánh Cả Đồng Trinh, Đức Mẹ lòng lành
Cứu chữa chúng tôi những kẻ có tội
Cầu cho chúng tôi trước mặt Đấng Toàn Năng
Che chở chúng tôi trước oai linh thiêm sự
Tôi yếu đuối, thần trí tôi ươn mình mệt luỗi
Tôi chóng mặt trong hôn loạn cam hoàng
Nên trái mờm dặng lời kinh rời rạc
Mà, chao ôi, mình mẩy tôi bốc lửa cao ngọn
Liệu lãng thâu đêm, hừng hực trở canh
Da thịt tôi banh mỏng khát tình
Mơ duyên hà lãng, mê sướng lắm
Quyến luyến mãi thôi bóng hình ngà ngọc
Thơm hoa cỏ và sáng láng trăng thơm
Thôn Vĩ Giạ chợt lóe vạn tinh vẫn
Là thơ tôi rơi rụng lục trầm
Là
tim tôi ánh ỏi gọi người
yêu
Dậy đi, nhặt lấy mảnh tình vỡ
Nhặt thương nhớ rỉm phong cùi rũ liệt
Nhặt nốt cơn mơ khoái cảm cuồng điên
Thân tôi đó, tôi vãi tung sảng sốt
Nằm đáy hoàng tuyền dây máu mủ uế trược
Giữ hộ tôi, đem tôi rửa giếng trăng
Cho sạch bụi trần
Cho sạch nỗi uất hờn cay đắng
Cầu cho tôi, khi này và trong giờ lâm tử
Tim tôi đây rày thanh sạch nguôi ngoai
Xác thịt tôi ngày sau sống lại
Và còn yêu, yêu mãi
Yêu một đời chưa thấu...
Đã khuya lắm. Người đàn ông quắt queo gầy yếu duỗi chân trên manh chiếu cói, tay sờ sẫm khắp thân thể không ngừng lở loét tự bên trong; ê ẩm nhức mỏi, xác thịt ông ta như đang nứt ra từng ngấn một. Một tuổi trẻ nhìn lại đã mọt ruỗng; cuộc đời nay phong hủi lúc nhúc đục khoét đã bầy nhầy. Người đàn ông thấy sức sống mình đến hồi cạn kiệt. Trăng thượng tuần tháng Mười Một nhợt nhạt tái xanh, dầm dề trên khoảnh sân lạnh buốt. Mùa này biển động, hiếm khi được một đêm tiết trời quang đãng thế.
– Anh Trí không ngủ à ?
– Trăng non ni hắn buốt lắm, chừ théc đặng răng.
Một cậu thiếu niên đến ngồi bên chiếu. Cậu ta còn trẻ quá, căn bệnh khoảnh độc cũng đã khiến hình hài cậu ta xuội oặt ra, rộc rạc trơ đốt, chỉ còn ánh mắt kia rần rực như quyết chối từ thói thường xuôi tay kham phận. Nguồn sống thắm nhuận trong cậu như ráo riết tuôn lên ở giọng nói trầm ấm, như bung nở nơi miệng cười thân tình và nết hạnh. Khi còn cắp sách đến lớp ở Quốc Học Qui Nhơn, cậu ta đã biết đến Thái Dương Văn Đoàn, và tên tuổi người đàn ông đang ngồi góc sân quạnh quẽ đây là xán lạn hơn cả. Việc cụ Phan Bội Châu xướng họa thơ và khen phục tài thơ người này ở bước đầu sự nghiệp đã gây tiếng vang từ Bắc chí Nam. Cậu thiếu niên biết, người đàn ông vẫn giấu ủ tờ Thực Nghiệp Dân Báo với lời cổ vũ chân tình của ông khách ngụ sông Hương dưới gối nơi đầu giường.
– Anh biết chuyện thầy giáo Mân trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ vừa lãnh án khổ sai, Tây đày ra Côn Đảo? Thầy Mân tháng trước đây là người đã đứng ra hô hào anh em học sinh bãi khóa để tang cụ Sào Nam đấy.
Người đàn ông chép miệng buồn rầu, một nửa khuôn mặt xếu lệch ; thân phận tróc lứt ung mủ đã khuất vào bóng tối :
– Rứa mà Tây hắn hành cho đọa, huậy anh Mân ôi ! Tòa mần ri phán án chừ là ốt nhột rư.
– Mật thám đi báo sen-đầm, chúng ập vào nhà thầy Mân lục khám phát hiện thầy có giấu vũ khí và chất nổ trong nhà. Bác khán hộ trại ta cò cẩm cũng đến bắt đi rồi.
– Khi mô ?
– Sáng nay. Nghe đâu bác ấy theo Mặt Trận Phản Đế, hoạt động đốc xúi giới phu phen thợ thuyền tham gia phong trào Ái Hữu Trung Kỳ, tổ chức đình công, biểu tình chống thuế trước cửa tòa sứ.
Người thiếu niên chợt đưa tay áp lên ngực thở nhặt hơi. Cậu ta thoáng nhăn mặt vì lồng ngực đau nhói, nhưng đôi mắt cậu cháy rực:
– Thời buổi này biết bao người thất nghiệp đói rách tìm đường vào trong Nam cầu thực. Dân đất Trung Kỳ và phần nhiều những người quê ở ngoài Bắc.
– Chầu ni chừ đi lại khó khăn quá.
– Sở mộ phu họ đưa người vào theo đường thủy. Nhà binh Pháp-Nhật sung công hết tàu hỏa chở gạo ra Bắc nuôi quân, không có tàu vào Sài Gòn. Việc mua bán tắc nghẽn, tiểu công nghệ điêu đứng, lớp lớp không hết những người bỏ nhà bỏ ruộng xin đi phu đồn điền.
– Đời dân cực lắm, chú nờ !
– Tình thế này có lợi cho bọn điền chủ và các thương hội thực dân vốn mưu đồ bành trướng khai thác vùng đồng bằng, chiếm ruộng đất nông dân, phá hoa màu.
Người thiếu niên dường đã thấm mệt, mồ hôi đổ hai bên thái dương, hơi thở giờ nhọc nhằn đứt quãng. Cậu ta ngồi buông xụi hai vai, rũ mình im lặng. Lọn tóc thưa trên đỉnh đầu cậu ta phe phẩy trong một thoảng gió nhẹ. Người đàn ông nhìn cậu thiếu niên đau xót lòng, cũng không nói thêm lời nào. Truông cát trước mặt họ nổi sầng dưới ánh trăng nhạt, biển ngoài kia sầm sập một màu đêm. Hàng dừa khuya nép bóng nhau rì rào đối đáp với sóng bể; từng vồ từng vồ sóng lại mang đi những câu chuyện xa xăm thật xa xăm. Mé sau, rặng Gành Ráng đặc ngòm một khối không gian nặng nề đen đủi đổ lên sân trại bệnh viện phong hủi, đổ lên những con bệnh oằn oại. Lúc này đây người đàn ông mắt đăm đăm vời nhân ảnh đục mờ trong những thửa trăng nước gạo trên sân, quả tim son sắt vỡ ra muôn mảnh đời; còn đó bao người thân yêu, từng người một về trong nắm nuối sõng sượt, những người đã mất, và những kẻ còn lưu lạc ở lại. Vồ vập ì ầm, ì ầm từng đợt không ngớt vồ vập, từng đợt không ngớt, bể cồn trong đêm vô đáy, xô sóng lên mảnh đất nghìn năm vẫn trông ngóng một ngày mai.
– Các con thức thâu đêm thế này hại sức vô cùng.
Người thiếu niên ngoái đầu lại, trìu mến nhìn bà phước :
– Con thấy dạo này Mẹ cũng không ngủ được là bao.
Bà phước già mỉm cười, bắc ghế ngồi bên chiếu. Bà lấy khăn tay lau cặp kính lão, mắt hấp háy. Cả ba ngồi đấy cùng im lặng. Chênh chếch trên tầng khuya trăng non như run rẩy tiên báo một điềm gì không rõ vẫn hằng lờn vờn rình rập ngoài khơi kia.
Bà phước già buồn nhẩm tính :
– Thế chiến thoắt đấy đã hơn năm nay.
Cậu thiếu niên toan nói gì đấy lại thôi; người đàn ông cúi nhặt cọng chiếu tơi. Họ biết, tháng Sáu rồi nghe tin mất Paris bà phước đau lòng lắm, ruột gan tao tác từng ngày. Thời cuộc hung hãn đang rầm rập nện đều gót đinh trên khắp nẻo đường châu Âu. Ở độ thiếu nữ bà đã vâng ý Chúa, hứa dâng cả đời mình cho những kẻ bất hạnh khác chủng tộc trên một mảnh đất lạ. Tu là dứt bỏ mọi hệ lụy thế trần, bà vẫn thường nói thế, là sống cho cuộc sống vĩnh hằng: sống quên mình để Thánh Ý được mạc khải trong cõi con người. Bà phước già chưa một lần chất vấn những bước đường định đoạt. Bà đã chọn lựa: bà sẽ ở lại nơi đây đến cuối đời. Khâm hoài làm của lễ mọn đức tin, và bởi đức tin đã bao lần bà níu lấy chuỗi Mân Côi mà vực dậy. “Thiên Chúa sai bảo tôi đem Tin Mừng cho người khốn khó”, và đấy là hạnh phúc thật. Nhưng chốn quê nhà đã bỏ lại quá xa đó không chạnh tưởng nhớ thương sao đặng. Chiều chiều ra đứng nhìn đàn chim mỏ nhác bay về đậu mé ghềnh doi, bà phước già một thân âm thầm khổ muộn, chốc lại chép miệng thở dài.
Người đàn ông bỗng đổ vẹo người, khe khẽ rên. Ông ta chừng đang đau đớn lắm, quặn hồn thối rữa ra. Từng nhịp ngập ngừng từng nhịp, hơi thở tanh tưởi đứt quãng, ông ta nghe trong xương thịt muôn vạn vi trùng phong hủi đang rồn rột say trăng. Gió khơi về muối mặn một vòm khuya nhàn nhạt hơi lạnh cuối năm. Bà phước già thoa nhẹ chóp vai người đàn ông, như thể cùng chia sẻ nỗi đau cùng như thể trợ sức nâng ông ta ngồi vững vàng. Người bệnh mang bảng số 1134 này người ta đem đến mới hơn một tháng trước đây, nhưng bấy lâu bà phước già đã yêu thương chăm sóc như đứa con bởi lòng bà, như bà vẫn hằng mở rộng tay yêu thương đón nhận tất cả những ai đang cần đến bà chăm sóc che chở. Người đàn ông dường đã mệt nhoài, ông ta nghe cuộc sống đứt lìa cõi sân trăng; từ miền cô miên ngọn triều vỡ ổ sập sận đợi chờ.
– Mẹ không đi nghỉ đi.
– Ừ! Các con cũng vào nhà thôi, sương xuống rét lắm rồi.
Người đàn ông xoay người cố nén cái nhức rủn xương :
– Mẹ đi nghỉ trước, tôi ngồi lát lâu răng cũng vô tề.
Bà phước già lọm khọm đỡ cậu thiếu niên dậy, miệng lầm thầm :
– Chúa thương được mấy hôm bể lại êm.
Cậu thiếu niên sức đuối toàn thân run rẩy, sế nế đứng dựa vào bà phước :
– Bác Lến bên xóm chài bác ấy bảo cả giữa mùa biển động, hễ thấy con dóc ngang chạy một mái vô đến bờ mới bổ thì y rằng vài hôm sau biển lặng. Nhưng có ghe đi khơi về bảo đã thấy râu Ông tuy còn ở tá tít mù ti đã xăm xăm chạy một đường dài. Người ta dự báo sắp tới đây bão to đấy.
– Thế à !
Bà phước già dìu cậu thiếu niên vào trong. Trăng Qui Hòa lu mờ chẳm bóng vào rặng núi, ánh trăng nhạt thếch. Còn lại người đàn ông trong sân trại. Một mình, ông ta lắng nghe ngọn triều rập ràng vỗ đòn gò lên mặt cát theo nhịp buồn man dại của điệu hò đưa linh. Một lần nữa máu chảy mát rợn trong mạch tim làm tê điếng hương nguyền. Người đàn ông gắng ghém lấy trăng vóc liễu trong vuông lụa linh hồn. Mùa trăng thanh sạch còn xa lắm, mà chao ôi lạnh quá lời kinh châu lệ thiêng liêng. Người đàn ông rùng mình rởn ốc. Một lần nữa cả một sông tế độ chảy điên loạn. Ông ta lại ngoi ngóp há miệng nuốt ực lấy trời sao thánh thể, tay quýnh quáng níu cỗ tràng hạt chắp lại những vần độc xướng. Cao giá lắm những vần độc xướng hiển diệu đứt hơi. Một lần nữa thân xác ông ta toang hoác giữa thiên chương đang cuồn cuộn vỡ lở, và vũ trụ nhảy mừng trong giai điệu khải huyền vời vợi.
Một lần nữa triều dâng muôn nghìn ngọn sóng.
Triều dâng.
Truyện ngắn 2 :
Công
Đức Một Bát Nước Đầy
Đào Vũ Hoài
Một buổi sớm cuối thu cái năm thầy Thụy Tường tròn hai mươi ba tuổi, thầy vào thiên hương quỳ lạy giã từ sư cụ Triệu Yên chùa Đao Ly, gậy tre túi nải lên đàng đi khuyên giáo thập phương. Trời từ rày đã vào tiết sương giáng, mây khói là là trôi mặt đất, cỏ cây bồng bềnh phiêu tán như trong cõi ngạc mộng. Ngẩng mặt chỉ thấy ùn đặc một nền xám sặm nặng nề đang nén không gian thành khối. Xa thật xa dưới chân đồi, mơ hồ tợ thanh âm từ một thuở hồng hoang vẳng lại, sông Đỗ Động lững đững xô đẩy, nhẹ sủi sóng rồi tan loãng hòa vào lòng con sông Nhuệ. Mé xã Thượng Cung, gà trong hương ấp cất tiếng gáy hoang liêu, mỏn sức bởi con nước ì uồm.
Thầy Thụy Tường cúi gằm mặt rảo bước, thầy biết sư cụ vẫn đứng đấy ở cổng tam quan dõi mắt vào một miền mịt nhòa mông lung tìm tiễn bóng thầy. Hơn hai mươi năm trước, cũng vào một sớm khí trời rét căm, sương phủ trắng đục thế này, sư cụ Triệu Yên nghe tiếng trẻ sơ sinh khóc oa oa ngoài thềm ngoại cung, thấy có đứa bé trai ai trao gửi cửa Phật bèn đem vào nuôi nấng dạy dỗ. Cái ngày năm xưa ấy nhằm thu Giáp Ngọ, Ứng Thiên năm thứ hai (995), Lê Hoàn soán ngôi nhà Đinh xưng Đại Hành Hoàng Đế nhẩm đếm cũng đã được mười lăm năm, niên hiệu đổi ba lần. Lê Đại Hành muốn tránh cái loạn do cường thần quyền bính trong tay mưu đồ làm phản, phong khắp cho các con cả thảy mười ba tước vương chia nhau ở các châu quận. Thế nhưng cương thường hỗn loạn, ai biết được ý trời muốn mở ra trong nước cái mầm mống cướp ngôi. Họ Lê xưa gian thông cùng Dương Thị, mẹ thái tử Hạng Lang, lập thế để được truy tôn hoàng đế. Đến đời con, Khai Minh Vương Long Đĩnh lại giết anh ruột đoạt ngai vàng. Long Đĩnh là bậc chúa thượng hôn loạn bạo ngược, hành xử chẳng khác hàng tặc tử, hà khốc hoang dâm tợ loài cú cáo, khiến trăm họ phải than vãn oán hờn. Ngọa Triều trị dân vỏn vẹn được bốn năm, âu cũng là trời đã tính kế cho thiên hạ. Sư cụ chùa Đao Ly vững lòng tin như thế, và đấy cũng là niềm hoan lạc phấn khởi trong trái tim trai trẻ của thầy Thụy Tường. Việc họ Lý lên ngôi là phụng ứng mệnh trời, thỏa lòng trông đợi của thần dân. Sách đã chép, hiền nhân cáng đáng việc sinh thành thì không lỗi đạo thường, lúc biến phàm vẫn không mất đạo. Thầy Thụy Tường mải lần theo con đường đất ngoằn ngoèo xuống triền đồi, ngoảnh nhìn phương Ất thấy ngày đã nhú một đóm đỏ như son. Bấy giờ là cuối thu năm Thuận Thiên thứ chín (1018), Tống Thiên Hy năm thứ hai lịch thiên triều.
Ngày dần ửng trong quầng sáng nhàn nhạt phấn hồng, xua màn sương nhẹ tênh cứ loang ra mãi. Trập trùng cao thấp những rừng vầu, rừng bương kiệt lực bấu vào đất đen trổ sắc thu đỏ vàng sặc sỡ trước giờ tàn lụi hẳn. Lúa tầm ruột đến vụ chín óng ả trên đồng, loang loáng cả một miền đang hây hẩy nắng mới. Thầy Thụy Tường đứng ngây người trong chốc lát, rồi thư thái mở lòng đón nhận ân sủng miên viễn từ tạo hóa. Cảnh vật từ bấy lâu vẫn bảo trì cuộc sống già lam ẩn dật nay như gột bỏ hết nét thân quen, hiện nguyên bản lai tự tại. Vị hành giả ngước mắt trông về cố tự lần cuối, miệng nhủ thầm, đất trời tứ phương tám hướng, ta đi đâu ?
– Xưa Quán Toại đuổi đánh giặc Man Di ra khỏi đất Nhật Nam, đi qua cột kim tiêu làm địa giới cuối cùng bóng mặt trời ở phía nam dài đến hơn tám tấc kể từ phía nam của bóng phía bắc, thế thì nay ta cũng xuôi nam vậy.
Nói rồi thầy Thụy Tường tay xóc lại cái đãy, dóng hướng mà đi.
Trời kẻ chỉ nhẹ đơm nắng hườm, chốc thôi đã chín rộ. Gió đồng rười rượi vô ngạn nhởn phứa vào mấy gốc tre bên đường. Cái giá ruỗng bộng lên cao, giờ chỉ còn một diềm khói giăng mờ vẻo núi tít tắp đằng chân trời. Vị thiền tăng áo chùng tay thụng bước từng bước khinh khoái qua những quãng ruộng cao bờ vùng bờ thửa, người thăm lúa nhẹ mái tròng ngao trên lung trên rộc. Thầy đi qua những ùng sâu người dân áo sồi nâu váy nái thỉnh mời thầy ở rốn lại giảng giải kinh kệ, chăm việc lễ bái. Thầy qua những biền dâu ven sông, những đồng cỏ hoang những thung rừng, chẳng quản mưa tuôn gió táp. Dẫu thường đói rét, lại không may xoang bệnh nơi đầu nguồn khe suối nhà sư vẫn bền chí. Lắm buổi thầy Thụy Tường reo lên mừng húm thấy mái quán đạo trung nơi hoang vu đồng trống. Kẻ hành giả lỡ đường trải giát nứa cật trên đất, phủ thêm lớp lá khô lấy chỗ nghỉ qua đêm. Thầy không khước từ mâm son bát sứ nơi quyền quý, cũng không chê nạm rông gáo nước của phồn lang bạt tứ chiếng hay trẻ chăn trâu. Thường thì đến bữa thầy xới đất kiếm củ nâu củ mài hoặc ra ao hồ tìm củ niễng. Chẳng may giữa đàng gặp thổ phỉ hung dữ trợn trặc, cường khấu gươm giáo bên mình, kẻ sa môn cung cách tự khiêm, dùng ngôn từ điềm đạm ôn nhã cảm hóa lòng phàm. Đôi bận nột quá thầy Thụy Tường phải đành vào xóm người Ô Man xin ăn hoặc xin ngồi đụt mưa trong điếm dỏ.
Cứ thế, ngày qua ngày kẻ tu hành chân mang giầy cỏ rong ruổi đường trần với nỗi khâm hoài, nặng lòng trắc ẩn với chúng sinh. Sư cụ chùa Đao Ly đã không bõ công nuôi dưỡng đứa bé bởi duyên khởi hữu tình mà đến cổng nhất thừa. Đứa bé lớn lên tính tình khoan từ nhân thứ, trí tuệ minh mẫn sớm thông hiểu kinh sử, lại khắc kỷ giữ giới nhập định, kiên trì tu tập nên người phẩm đức đoan chính. Tuổi thành niên khoác áo dà, thầy Thụy Tường mang cốt cách thanh quý, thần thái dung nhẫn, được sư cụ chọn trong các môn đệ làm người kế thừa, mai sau ngài qui tịch thay ngài trụ trì. Nhưng vị tăng trẻ mang duy thức hoằng viễn của kẻ du già hành cước, lấy khắp cõi nhân duyên làm chốn tham đạo. Thầy ra đi tuy vậy còn nặng lòng lắm chữ trung chữ hiếu, biết mình vẫn thân tâm chấp hữu, bước đường rũ bỏ ngũ uẩn còn biết bao điều trở đáng, nẻo về chốn thanh tịnh lắm cạm bẫy chông gai.
Mà thầy Thụy Tường đi xa lắm. Rời đất gia hương thầy đến giáp giới châu Định Biên tiết trời đã chuyển khí xuân phân. Qua mùa lễ tạ ơn cây, hoa mơ hoa mận trên non nở trắng cả một triền, nơi thôn mạc hoa vông đỏ gắt hòa với sắc tím của hoa riềng, chen lẫn vào giữa cảnh tượng thắm mọng ấy cây nhãn lồng nở từng mâm hoa vàng rộm. Bạt ngàn rừng báng rừng nhội sung mãn lá non xanh. Vạn vật đang say nhựa sống mới, khắp thiên hạ chưa dứt tiếng reo ca, trống rung cờ mở ăn mừng nguyên khí lại thịnh, đón nhận Thuận Thiên năm thứ mười (1019). Dẫu cùng chia sẻ một niềm phấn miễn cùng đất trời quang diệm, nhà sư vẫn thận trọng chọn lộ trình men theo những làng chài hoặc miền ruộng nương trù phú. Miệt này người sơn liêu trong động Nhật Tắc, các trại sách nơi hang khe hiểm trở động Hà Man không tòng phục triều đình, coi thường kỷ cương xã tắc, khinh mạn giới trường, xưa nay vẫn ngầm chờ thời cơ mà dấy loạn. Tiên vương họ Đinh hoặc như họ Lê sau này đều là những bậc dũng lược hơn người, bình định được bờ cõi, thống nhất trăm họ. Thế nhưng Thái Tổ Hoàng Đế lên ngôi mới được hai năm đã phải tự đem quân dẹp giặc Cử Long ở Ái Châu, cuối năm dẹp loạn Diễn Châu. Sang năm Quý Sửu (1013) châu Vị Long làm phản, vua lại cầm quân đi đánh. Đến lượt giặc Man cướp phá ở bến Hoa Kim năm Giáp Dần (1014), đánh mãi mới yên. Ghe phen kẻ tu hành đã phải tháp tùng phường sơn tràng cùng vượt những vùng hoang dã rậm rạp.
Chạng vạng một chiều xuân khi chim nhạn đã về tổ, thầy Thụy Tường mệt luỗi dừng chân bên con suối giữa chốn tiêu tao mông quạnh, biết mình đã lỡ đường lạc lối. Thầy ngẩng mặt ngắm bóng rằm như còn thẹn trên bao la xanh thẫm. Thiên nhiên căng mọng khí dương hòa, gió thơm và làn nước cũng thơm. Quang cảnh xung quanh đã nhòa nét, huyền hóa ẩn mình tiếp tục cuộc tuần hoàn. Cô thân giữa nơi yên ba thâm xứ nhà sư phân vân chưa biết tìm đâu chỗ trú thân, bỗng thấy lấp lóe nơi kia lùm bụi đoán chừng đâu mươi bước ai vừa thắp ngọn đèn sáp. Lá cây ken dày nhưng ánh sáng dịu dàng đầu hôm đủ để thầy Thụy Tường nhận ra mái thảo lư. Vị tăng trẻ dò bước đến gần, bỗng nhiên đứng sững ở đầu ngọn gió. Trong vườn nhà hoa lê rộ nở, trắng muốt dưới con trăng đã đến thì, lâng lâng hương hoa lan tỏa khiến đêm về nhẹ tênh rồi cứ thế thênh thang mãi. Róc rách suối nước tuôn đi, tuôn đi không ngừng nghỉ từ ngọn nguồn đổ về nỗi niềm sâu thẳm của thời gian. Thầy Thụy Tường chép miệng :
– Mới hay hoa lê nở dưới trăng thời bộc lộ hết cái thần. Quả là loài thanh cao, biết tự cảm ở nơi chốn tịch mịch.
Trong chòi có bóng người ra đứng ở khung cửa :
– Thật phúc cho kẻ bần này nay gặp duyên tao phùng, thỉnh mời đạo tăng ở lại ta cùng thưởng hoa.
Thầy Thụy Tường chắp tay cảm tạ rồi theo kẻ dã hạc vào nhà. Trong chòi mỗi chiếc chõng tre bên án sách, tấm phên nứa chắn mé bếp sau. Gặp người mộ tâm, kẻ sa môn được thỏa tình toại dạ. Vị trí sĩ sống ẩn dật có lẽ đã lâu, thần thái thanh thoát chẳng vương mang bụi phàm, dáng vẻ hồng hào quắc thước, râu tóc bạc cốt cách đạo tiên, an thư tự tại nói cười sang sảng khiến nhà sư cùng vui một niềm vui khấp khởi. Sau bữa ăn giặm chủ nhà lại quạt cho hồng than củi bách, bày ấm chén trong vườn. Trăng trong suốt trên cao một mình trăng đối bóng bên dòng nước, thăm thẳm cõi nhân gian an giấc hoang liêu u huyền. Ẩn sĩ tức cảnh cất giọng ngâm :
Hoa
thơm cảnh vắng, ánh trăng côi
Mạch nước cô miên ngọc quế
trôi
Thảo lư liêu viễn sầu chung cổ
Nhoài
vớt trăng vào bóng có
đôi
Thầy Thụy Tường cùng họa:
Hoa nở
thơm trăng, suối nước trong
Kỳ duyên tri ngộ thỏa đôi lòng
Thảo lư diệu cảnh hồn thanh tịnh
Ngẩng
đón trăng vào ngỡ
cõi không
Kẻ bạch y vui sướng cười sảng khoái, tăng sĩ cũng cười, hai người đàm vịnh hồi lâu. Chủ nhân lại chuyên một tuần trà :
– Kẻ hèn này sống lấy đạo vô vi làm lõi, ở ẩn vui thú lâm tuyền, mạn phép hỏi đạo tăng đây lưu lạc bởi căn cớ nào ?
– Bần đạo trộm nghĩ, nhờ ân đức của chúa thượng Thái Tổ là bậc trí tuệ hiếu nhân, lên ngôi thực hành đạo bá vương khiến thiên hạ thái bình. Ngài lại thấm nhuần Phật pháp, lấy ánh sáng Liên Hoa Đài làm nền tảng mà dựng nước cầu trị, nên bần đạo mạo muội lang thang đò ngang bến nước, trước là truy cầu tham vấn những bậc cao tăng, sau mong được dùng tài mọn mà quảng bá chân lý giác ngạn.
Vị ẩn sĩ từ tốn nhấp ngụm trà :
– Thái Tổ Hoàng Đế quả là bậc mến đức mộ đạo, để ý đến việc xây chùa tô tượng, ban chiếu phát vàng bạc trong kho để đúc chuông, phổ biến kinh Hưng Nghiêm, kinh Pháp Hoa, mới năm ngoái đây lại sai quan viên ngoại lang sang nước Tống thỉnh kinh Tam Tạng làm phong phú Kinh Tàng. Nhưng xưa nay xã tắc tôn miếu là rường cột của thịnh trị, lấy việc thờ Phật làm phép thường của người trị nước e khó thâu phục nhân tâm.
– Việc ngài rời thành Hoa Lư mà định đô đặt đỉnh đất Long Đỗ đã là một quyết định sáng suốt của bậc minh quân biết mưu tính việc lớn.
– Phải, đất ở đấy trù phú, ngàn dặm bằng phẳng, trăm họ giàu có, một nơi trung tâm bốn phương chầu về, thành quách lại được núi Tản Viên, sông Phú Lương chắn giữ. Thú mục tướng súy nhà Đường tất hiểu điều đó nên đã cho xây thành bằng đá xanh vững chắc, gò đống san phẳng làm hại địa hình địa thế, chắn đứt long mạch ắt là nhiều.
Nhà sư vẫn một giọng đạm nhã :
– Triệu Xương đời vua Đường Thuận Tông thay Bá Nghi đô hộ Giao Châu cho đắp thêm thành Đại La thì hết loạn, Cao Biền đời vua Đường Ý Tông lại đắp thành ngoài bao quanh, lập đồn ải, chỉnh đốn việc cai trị rất được lòng dân. Việc kinh bang tế thế nay đức Thái Tổ không những là người trung can nghĩa khí, ngài còn lấy chữ tâm mà phù thế giáo, cầm chính đạo. Đấy phải chăng là hành vi của bậc thánh nhân làm nên cơ sự thịnh vượng lâu dài.
– Từ Thuận Thiên nguyên niên đến nay đức Thái Tổ đã xá thuế tha tô cho thiên hạ là ba lần, ngoài việc lập chùa quán vua lo xây dựng cung điện thềm rồng, đắp thành dựng luỹ đào hào, đất kinh sư cấp độ điệp cho hàng nghìn người ở tuổi hoàng đinh xuất gia tu đạo, thuế khóa nhà buôn trong sáu thứ chỉ lấy bốn phần tha hai phần. Thổ sản tiến công tạo của cải trong kho làm sao cho đủ. Giặc phiên man dấy loạn triền miên, việc binh đao hao tổn biết bao.
– Nhà vua lấy việc cày cấy làm phép thường cho đời. Hễ dân giàu thì nước mạnh. Việc của vua là thiết lập kỷ cương, tái lập uy thế. Bờ cõi Giao Nam còn hay mất vua tôi đồng thuyền.
– Lòng người An Nam xưa vẫn minh khắc công đức của Cao Biền, Triệu Xương.
– Thời bấy giờ nước ta có người nổi loạn, nhưng chưa có kẻ trị dân.
Vị cư sĩ vuốt râu cười hể hả :
– Quả là đêm nay kẻ tục lưu này được tiếp kiến một trang anh tuấn.
Thầy Thụy Tường đỏ mặt cười nhẹ nhàng :
– Mô Phật ! Bần đạo tuổi trẻ non dạ, trí hóa thiển lậu, đem bấy nhiêu ngu ý hầu chuyện bậc trượng phu.
– Duyên giải cấu chẳng phải duyên cang lệ, nhưng nỗi niềm tri đắc thời một đời khó quên.
– Bần đạo xin khắc cốt lời bảo huấn.
Nhà sư cùng ẩn sĩ còn đàm đạo cho đến khi Bắc Đẩu đã lấp lánh ngang trời. Đằng đông trổ vầng sáng rất mỏng phơn phớt tím hồng đẩy một vạt thênh thang xanh thẫm loang vào trời sao, khoảng không tách mình khỏi mặt đất. Con trăng nhợt nhạt bẹp gí như chiếc bánh đa, thỏng thừa ở cuối nguyệt đạo.
Vị thanh cư khẩn khoản mời thầy Thụy Tường ở lại nghỉ ngơi thêm vài ngày.
*
Rốn lại được ít ngày đàm đạo tâm giao cùng người cao minh, nhà sư trẻ từ biệt chốn lâm tẩu lên đường lòng càng phấn chấn, tiên giác một thời trị thế bền vững. Bằng vào lời sấm trên cây gạo làng Diên Uẩn, lại bảo rồng vàng hiện ra ở ngự thuyền khi vua về La Thành, âu cũng vì nhà Lý lên ngôi thuận ý trời. Thái Tổ cầm quân bình định cõi Nam, hoàng đế triều Tống vời sứ nước ta đến mà thưởng công trạng, lại cho sứ mang chế sách sang gia phong cho vua Thái Tổ tước vương. Bậc hiền lương gặp cơ vận, thuận lợi địa thế tức trăm họ được hưởng thái bình. Quán nguyện xin Thế Tôn hộ trì cho lương dân nghìn năm được an cư kiết hạ. Nhà sư thấy máu chảy rần rật căng lồng ngực. Chân đạp đất, thầy Thụy Tường mỉm cười với cuộc luân sinh thâm u bất tận.
Một ngày giữa mùa thanh trà chín quả nhà sư ngồi nghỉ chân nơi bến nước, chờ đò ngang qua sông Vũ Lũng. Bến sông ở bên vùng thị tứ, quanh năm chen chúc quán chợ. Phiên này hoa quả đầu mùa về rạng rỡ sắc màu. Trầu cau, thẩu bạch, bánh mứt xôi chè, hương đèn hình tượng, vải vóc khăn nhiễu, trâu bò dê ngựa, lúa bát nếp voi... không thiếu món gì cả. Phường thợ đánh kiềng đánh xuyến nhìn sang lò gốm sứ, võng lọng liễn trướng treo bên những lồng son thếp vàng nuôi chim quý. Kẻ mua người bán tấp nập. Lại thấy dập dìu tao nhân quân tử ngựa xe thưởng ngoạn cảnh xuân, đào yêu thiếu nữ xúng xính lĩnh là vóc lụa rủ nhau lên đền lễ Mẫu. Phường tuồng kèn trống bày lắm cuộc vui. Một người trong gánh hát sai khiển bầy khỉ năm bảy con đầu đội mũ tiến hiền, hai chân sau mang hia đen, bụng buộc dây da đeo túi ngư đại màu tía thêu cá vàng, tuần tự cứ điểm nhịp phách lại thay nhau chầu bái một con vượn đen mặc áo long cổn nằm thườn ra trên manh chiếu. Bái xong bầy khỉ tung mình biểu diễn pha nhào lộn, người xem bu lại cười ầm ĩ. Góc đằng kia bọn lưu đãng đem trò đáo đĩa níu kéo rù quến người qua lại, đạo đồ lem lém nhìn xuôi ngược. Giữa chốn chợ huyên náo có gã ăn mày già nua, hai hố mắt gã sâu hoắm không thấy nhãn cầu. Trên khuôn mặt răn rúm tiều tụy vẫn chưa phai nét chữ thích. Gậy tre túi vải gã đứng nép bên phên nứa một tửu quán, khàn khàn cất giọng hát vè ngợi khen ơn cao đước trượng của Thái Tổ Hoàng Đế.
Nhà sư qua đến bờ bên kia nắng chiều đã vàng vọt héo ủng. Nước sông lừ lừ sáng lóa ở phương tây hờ hững đổ dòng, thôn chài nổi lửa thổi cơm chiều. Bì bõm mép nước vẫn còn người cởi truồng đặt đó kéo te. Chưa đi được mươi dặm, khi ráng đỏ rực lóe lên hấp hối, thầy Thụy Tường nghĩ mình trót dại không nghỉ lại qua đêm ở bến sông. Nhìn quanh giờ chỉ thấy bát ngát đồng hoang, sim muồng từng bụi tím quả lô nhô chen giữa cỏ bổi li ti hoa vàng. Cảnh vật cô tịch đìu hiu, không có tiếng côn trùng rỉ rả trong đất, trời chiều không một bóng chim về tổ. Nhà sư rất đỗi làm lạ đất này chưa người vỡ hoang cày cấy. Đành lòng thầy Thụy Tường xoải bước, thầm ước sau quả đồi mé rừng hóp kia là ruộng vườn màu mỡ, là bếp lửa nơi hương ấp an bình. Ra đi kẻ tu hành có quản gì mưa nắng, đã nhiều những ngày đơn côi đói khát, chiếu rơm gối đất thầy đã quen. Nhưng trong lúc này thốt đâu vị thiền tăng thấy trong mình bải hoải lạ thường, xu xác tự dưng như ruỗng mục ươn sình, hơi thở hâm hấp tanh lợm, đầu váng vất. Cảm giác gì như một nỗi kinh hãi đang dấy lên trong tâm khảm, bấu chặt lấy mọi ý niệm. Trời đang tiết xuân mà thầy Thụy Tường run lên lập cập. Nhà sư mong lúc này người được gặp người. Trời thoi thóp chợt tắt ngúm, thẫm hẳn xuống, và trăng hạ tuần mỏng như lưỡi hái đánh khuyết một hình cung nhợt nhạt trên nền trời. Vị sa môn kịp nhìn thấy trên đỉnh đồi khuất sau rặng vông đại thụ một mái chùa.
Nhọc nhằn lắm thầy Thụy Tường mới vạt được những bụi ngấy gai góc để có lối đi. Chốn này dường đã lâu chưa có loài người đặt chân. Mồ hôi trên trán đổ ròng, vị hành giả chống tay vào cột đá ở sân chùa khuỵu gối thở hào hễn. Nền sân đá nhơm nhớp ướt, lá cây rậm rờn đong đưa. Trời xủ rèm tối đen và gió đưa mùi xú uế. Mé tay mặt chùa không còn cột quân, cột hành chống đỡ nên mái chùa đổ xụi, mé trái mái quớt mũi hài lở ngói nham nhở. Cửa bàn khoa bung niền cánh vẹo cánh niểng, tiên đường hoang hoác tối đen hơn ngoài trời. Thầy Thụy Tường gắng sức nhuôi người đứng dậy vào lùm bụi nhặt củi và lá khô. Mùi tanh tưởi lởn vởn trong gió mỗi lúc một nồng. Bậc tam cấp lên thềm rêu phủ nhũn nhão trơn trượt, ngoài hiên trong sảnh mối ớm đất thành đống. Nhà sư gom củi lá ở ngoại cung, lục đãy lấy hai phiến đá đánh lửa.
– Mô Phật!
Vị thiền tăng thở phào. Trên bàn thờ hai cây sáp điều cao cũng đến nửa trượng, thân to gấp bội gốc tre. Thầy Thụy Tường khệ nệ giải hạ cây đèn, một không gian ẩm mục điêu tàn tỏa hiện theo ánh sáp. Nơi tọa đài không tượng không ảnh nhưng trên vách gỗ, trên cả cột con cột cái, xà thượng xà hạ trước mặt, xà lòng xà nách bên hông, từ bảy hậu theo kẻ ngồi ra đến kẻ hiên, đòn thượng lương và các vì kèo, tất thẩy đều được chạm trổ tinh xảo. Hoa tiết trên khung sườn rường giá bên này mô tả cuộc sống hạnh phúc trường cửu chốn dạ-ma thiên, đằng kia là những đau khổ triền miên nơi sa-bà thế giới. Vách gỗ mé cửa được trổ khắc tỉ mỉ hình tướng của Chuyển Luân Vương cùng bốn bánh xe, vách giữa miêu tả Địa Tạng Bồ Tát bạch hào trên trán, tay cầm như ý châu, tay trương tích trượng treo sáu vòng kiềng. Trong cùng, trên tấm vách ngay lối vào phía nội cung, thầy Huệ Nghiên run rẩy chiêm bái chân dung Kim Cương Không Hành Nữ lõa thể uốn mình trong tư thế vòng cung, tay mặt cầm kim cương chử, tay trái bợ cái sọ người nâng lên giữa ngực. Ánh lửa lung linh như đánh thức chư vị từ cõi bất động phế luống ở mặt gỗ mà nhập về nơi nhẫn độ.
Thầy Thụy Tường bưng cây đèn sáp đi xem xét gian trong gian ngoài. Cảnh chùa đổ nát mối mọt khiến nhà sư đau lòng nuối tiếc, chắt lưỡi mà suy niệm cái lẽ biến hóa dửng dưng và nghiệt ngã của thời gian.
– Thương thay, người xưa đã chẳng e công tiếc của, đem hết tài năng trí tuệ mà dựng một công trình mỹ hảo thế này. Dưới mộ phần biết có còn rấm giú giấc phù sinh ?
Đêm đã khuya, bốn bề tĩnh mịch trống trải. Nhà sư quét dọn sơ qua nơi tiên đường, nhẩm đoán vườn chùa ẩm ướt ắt phải có náng, định bụng mai ngày hái lá hơ lửa đắp lên đôi bàn chân đã sưng tấy vì khi chiều phải tuông bờ lủi bụi mà lên đồi.
– Mô Phật!
Thầy Thụy Tường thất kinh phát hiện bóng người nơi cột đá ngoài sân.
– Ai đó ?
Không ai trả lời.
Trời đêm nhè nhẹ trườn mình, ngoác mõm đen sâu hoẳm ngoạm phập vào tim nhà sư, bấu chặt cho đến khi thầy Thụy Tường cảm nhận được một nỗi hoảng sợ sền sệt đang loang dần ngập lồng ngực. Ánh trăng xanh mét chập chờn khi hiện khi biến trong rặng vông rì rào. Thầy Thụy Tường nhón bước ra ngưỡng cửa. Mùi hôi nặc ùa vào mặt khiến kẻ sa môn muốn lộn mửa.
– Các người là ai ?
Nhà sư hỏi đám người đứng trong bóng tối. Vẫn không một ai lên tiếng trả lời. Họ đứng đấy, rồi lẳng lặng từng người một họ bỏ đi. Thầy Thụy Tường muốn hỏi vọng theo, nhưng bên ngoài chỉ còn thoảng hơi gió thối rữa, một mình trăng khuyết bóng lởn vởn trên cây. Thốt nhiên nhà sư rùng mình linh cảm rằng tự bao giờ khách dạ hành vẫn ở trong chùa. Miệng lầm rầm đọc thần chú lấy lại bình tĩnh, vị thiền tăng quay vào buộc niệt hai tay, cổ choàng bùa ngói, ngồi tư thế kết già phu tọa trước bàn thờ. Nhà sư thở đều nhập định rồi lần chuỗi anh lạc nhất tâm niệm danh A-di-đà. Hai ngọn sáp cháy nhấp nhem, ánh lửa lểnh loãng cố bén vào cảnh đêm hun hút. Từ nội cung thâm u bóng tối cất tiếng cười. Thầy Thụy Tường hắng giọng điềm mạc hỏi :
– Nhà ngươi là ai ?
– Ta là kẻ trụ trì.
– Nơi đây là chốn hương nhang thờ phụng, đất này tốt lành thanh khiết. Trên đất này chủng tử diệu kỳ trong đệ tử tín tâm đâm trồi, phàm như hoa quỳ luôn hướng về mặt trời, lòng người sẽ ngưỡng vọng Chân Như.
– Nơi đây là chốn ta đã phải chịu thua những đòn thát tiên của Tăng Trưởng Thiên và Trì Quốc Thiên, chư vị còn dựng cột đá khắc thần phù giam hãm ta. Anh em của ta, ngài thấy đó, không bước qua được ngưỡng yểm quái. Nhưng ngài có thể phóng thích ta.
– Thiên đạo chí công, ngươi hãy nhân đây mà tu tỉnh hối ngãi.
Bóng tối suồng sã biếm nhẻ :
– Ta sinh ra là để kẻ khác khiếp sợ mà quyết ăn ngay ở lành. Nhưng thôi, xin ngài hãy giải thoát ta. Đành là ngài đã thế phát quy y, ta sẽ đền ơn ngài rất hậu.
– Như ta lấy thanh hư tịch diệt làm lẽ sống, thường bồi thế nào là thỏa đáng ?
– Ta sẽ cho ngài cái hòm vô đáy. Ngài muốn thức gì, chỉ việc thò tay tức được. Ngài muốn mâm cỗ ngự thiện, hồng ngâm huyền tửu chốn cung đình ? Hay gấm thêu lụa bạch ? Có ngay.
Vị thiền tăng cười nhẹ nhàng :
– Ta thiết gì những của đó ?
– Ngài bảo sao ấy chứ, đời người không một lần nếm thế vị biết gì mà từ bỏ phát xoái những thứ người đời ưa chuộng? Xưa có phải Phật Tổ sinh ra nơi quyền quý, hưởng đời vương giả trước khi Ngài thoát ly tìm chân lý bằng con đường khổ hạnh ?
– Phật dạy, bằng trí thần mẫn nhuệ kẻ tham thiền vận dụng tinh tiến, chính kiến tứ diệu đế và giáo lý vô ngã mà không phải lệ thuộc vào thân tâm.
Bóng tối mỉa mai :
– Quả không sai, chỉ có Phật mới nhìn thấy Phật. Nhược bằng bản thân ngài không háo thượng điều chi cả, ngài có thể lấy trong hòm vô số là vàng, bạc, trân châu, xà cừ, lưu ly, mai khôi để ngài dùng vào việc công đức, bố thí cho những kẻ bần cùng trong thiên hạ, xây nhiều tháp, độ nhiều sư, giáo pháp được truyền bá khắp mười phương tám hướng.
– Hòm công đức, đấy là quý thật, nhưng trong cuộc sinh hồi luân tử của ngũ đạo, thế vẫn là nô lệ tư duy, quanh quẩn ở thế giới vô minh.
– Nay ngài muốn giáo hóa chúng sinh bằng phép niệm xứ, ta sẽ đáp ơn ngài bằng vật khác vậy. Ta sẽ cho ngài cây gậy trúc, nắm giữ nó trong tay ngài đi đến đâu những kẻ thù địch oan gia đều phải phục tùng ngài. Chúng sẽ không dám ngang ngược với ngài, chúng sẽ không dám mưu đồ ám hại ngài hay dám cạnh khóe so bì với ngài.
– Thiền đạo chính là cây gậy thần của ta. Một con người đã nhập định tỉnh giác sẽ tiêu trừ được cả thẩy ma quỷ cùng mưu chước thâm họa, giải ngộ được mọi oan ức khổ lụy của thế gian.
– Hay xin ngài nhận lấy đôi hia gấm của ta, chúng sẽ giúp ngài bay đi rất xa mà không gặp một trở ngại gì.
– Kẻ nào biết giữ gìn giới luật, luôn làm việc thiện ích, tâm hồn sẽ như mọc cánh bay xa vì kẻ ấy được sống trong đạo quả tối cao, thoát khỏi vòng xiềng luân hồi sinh tử.
– Ngài thật không muốn ta chỉ bảo cho ngài bí thuật của loài A-tu-la hay sao? Ngài sẽ không thua gì Định Quang tiên ông, thuần phép thần thông biến hóa khôn lường.
Nhà sư cười khoan nhượng :
– Ta tu đến kiếp này được làm người đã là vất vả, chẳng ham gì mà ngấp nghé cõi tiên.
Bóng tối than vãn :
– Cực chẳng đã mình buộc lấy mình. Thôi thì ta cậy vào lòng từ bi của ngài vậy.
– Thả ngươi ra cái nẫu nhà ngươi lại quấy phá muôn dân.
Bóng tối cười nắc nẻ :
– Ta đã có hằng thế kỷ và sẽ còn hiện hữu hằng thế kỷ, cái nòi như ta mẹ ta đẻ hàng vạn. Ta đã tung hoành từ bán đảo Ba Nhĩ Cán đến những gành núi hiểm trở xứ Thổ Phồn, từ Thiên Trúc sang đến Trung Hạ, từ đầm lầy đất Chân Lạp lên tận miền thảo nguyên bát ngát xứ Thát Đát. Những tên bạo chúa lấy việc giết người làm vui như vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương hay Tôn Hạo nước Ngô, những kẻ dã tâm giết cả cha mình như Đông Hôn Hầu con vua Minh Đế thời Nam Tề, Chu Thiên Nguyên con vua Cao Tổ thời Bắc Chu, Lưu Thiệu con vua Văn Đế triều Nam Tống, Dương Quảng, Chu Bạt Khuê và bè lũ chúng nó, chính ta đã rỉ tai bày trò hung tợn để chúng thỏa mãn thú tính. Song, ngài là bậc thấu triệt cái lẽ ở đời làm vậy, có phải con người thiện ác tại tâm, tâm tòng bát chính đạo thì đã không nghe lời ta xúi quẩy? Xưa nay vẫn thế.
– Ôi, nhưng kiếp người quay cuồng điên đảo trong cõi mê ám mông muội, trầm luân khổ hải vô bờ bến. Không thiếu những kẻ quay ra thần phục chiêm bái ngươi.
– Chẳng giấu gì ngài, có cả một quốc vương kia. Từ trước thời Mã Viện đúc cột đồng ở biên giới Tượng Lâm mở rộng cảnh thổ phía nam của nhà Hán, thì khắp một cõi, phía đông sát bể, phía tây đến Qua Oa, phía nam thông đến Chân Lạp, phía bắc là châu Ô Lý sát với đất Châu Hoan của An Nam, dân chúng lập đền đài thờ phụng ta. Một tập đoàn pháp sư phù thủy tu đạo Ni Kiền, quanh năm trần truồng, đầu rắc tro, mình mẩy trát bùn trấu đi khắp thiên hạ bày ma thuật làm vinh hiển danh ta. Ở kinh sư lại đúc tượng vàng to đến mười ôm, hương khói dưới chân tượng không bao giờ ngớt. Nơi đây tựu hội đủ chướng khí cho ta dưỡng thân luyện phép.
– Chư vị Thiên Vương chọn chốn này để trừng phạt ngươi ta chắc không ngoài mục phiêu cứu độ lấy thương sinh nơi giang san xa xôi nọ. Bao ác nghiệp ngươi đến gieo trên mảnh đất Phật pháp đang được truyền bá này hẳn đã khiến chư vị lên cơn thịnh nộ.
– Đêm còn dài, hay ngài để ta được hầu chuyện ngài thêm một đỗi ? Khi ngài Bộ Lĩnh họ Đinh ở đất Hoa Lư dấy binh dẹp loạn mười hai sứ quân, một trong bọn xưng hùng xưng trưởng ấy là Nhật Khánh thuộc dòng dõi của tiên chúa Ngô Quyền.
– Ta biết.
– Vâng. Bộ Lĩnh lên ngôi xưng đế lấy mẹ Nhật Khánh làm hoàng hậu, cưới em gái Nhật Khánh cho đứa con trưởng là Đinh Liễn. Nhưng vua vẫn sợ Nhật Khánh thù oán sinh biến bèn gả con gái mình cho hắn. Tuy nhiên, tên này trong lòng vẫn bất bình, dẫn dắt gia quyến chạy sang cầu cạnh vua Chiêm Thành.
Thầy Thụy Tường chép miệng :
– Thời cuộc chưa thuận ý trời thì vận nước còn tối tăm.
– Nhật Khánh đi đến cửa bể phía nam bờ cõi thì rút dao rạch mặt công chúa vợ mình mà rủa: “Ta đây đâu phải vì mày mà quên mất mối thù? Cho mày về!”.
– Nghe tin Đinh Tiên Hoàng Đế băng hà, họ Ngô dẫn quân Chiêm Thành theo đường biển mưu đồ xâm chiếm Đại Cồ Việt. Qua cửa Đại Nha gặp bão lớn đắm thuyền, Nhật Khánh và vô số quân Chiêm Thành chết đuối.
– Xin ngài chớ hấp tấp quá đà. Câu chuyện của ta là ở nàng công chúa bất hạnh kia. Sau khi bị chồng rạch mặt, ruồng rẫy đuổi về, công chúa đau đớn tủi hổ quá trầm mình sóng bể kết liễu đời mình. Ta vớt xác công chúa, đem lên núi làm phép thần thông mà đánh thức cái xác dậy. Nhan sắc công chúa quả có thể làm vong bại cả vương quốc đấy, hiềm họ Ngô nuôi thù lớn không động lòng đấy thôi. Thế đến ta nhập vào cái xác định bụng tìm đường về châu Đại Hoàng. Đây, cái xác đây.
Từ nội cung tăm tối một người đàn bà lừ lừ bước ra. Thiếu phụ mình mặc áo chùng lụa trắng, tóc buông xõa quá lưng, khuôn mặt tái xám, mắt chỉ còn tròng trắng, bên má trái một vết thương đã thâm đen. Chốc chốc miệng thiếu phụ lại ọc nước. Thầy Huệ nghiêm nhắm mắt niệm chú thì người đàn bà nọ dừng lại ở góc tiên đường, chân hổng đất, lơ lửng một chỗ trên không.
Bóng tối vẫn rề rà :
– Ta đến chùa này, tăng đạo trụ trì cũng như sa môn hành cước đều không cưỡng được lòng trước nhan sắc của công chúa. Những kẻ ấy thì qua đêm hộc máu chết. Xác chết nuôi bằng máu thịt phàm tục thì tươi tắn mãi. Ngài xem, nửa thế kỷ qua mà nhan sắc công chúa có bớt phần kiều diễm đâu ?
Thầy Thụy Tường nức nở :
– Nam mô A-di-đà Phật ! Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ! Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát ! Nam mô...
– Chư vị Thiên Vương phù phép vào cột đá khiến từ nay những kẻ lòng còn vương vấn chuyện phàm trần bước qua sân chùa đã đâm hoảng sợ bỏ đi ngay. Người mang thiện nghiệp như ngài đây đá kia lại không ứng nghiệm. Giờ xin thưa với ngài thế này, ngài thả cho ta đi ta sẽ xuất khỏi tử thi để hương linh công chúa được phiêu diêu siêu thoát. Bằng không vong hồn kẻ bạc phận nọ sẽ phải vật vã đến muôn đời.
Sau giây lát mặc niệm, nhà sư khẽ khàng hỏi :
– Ta phải làm gì?
– Có thế ! Dưới gậm bàn thờ có cái vùa lâu ngày đã sứt mẻ, ta xin ngài miếng nước trong hồ lô ngài mang theo bên mình đấy, đoạn ngài dùng mảnh sành khứa đầu ngón trỏ bên tay trái nhỏ đúng năm giọt máu khuấy đều lên. Xong phiền ngài để vùa nước lên bàn thờ.
Thầy Thụy Tường lẳng lặng làm theo điều bày bảo. Thây ma vẫn đứng đó ở một góc gian chính điện, miệng không ngừng ọc nước.
– Ngươi hãy giữ lấy lời.
– Sau rốt xin ngài một hành cử tối huệ. Ngài phải cam quyết không được rời bỏ chốn đây, ngài ở lại trì trai cho đến cuối đời như thể ngài thường mạng cho ta.
– Cúi xin chư Phật chứng giám, ta thề ! Giờ ta bảo ngươi tức khắc buông tha vong linh người đàn bà vô tội kia.
Bóng tối cười gằn :
– Ví phỏng ngài bội ước, ta sẽ săn đuổi lãng tích ngài đến cùng trời đất mà đòi mạng. Ngài nhớ đấy !
Một tia lửa xanh biếc vụt ra từ hậu cung. Cái xác bén lửa bùng cháy. Chỉ trong chớp mắt, cửa hỏa ngục từ bên kia thế giới như hé mở, lửa ngục hừng hực thiêu đốt. Cũng chỉ trong chớp mắt thôi, cái thây người cháy rụi ra tro. Khói đen khét nồng nặc. Bỗng đâu có con gió nhẹ lùa vào tiên đường thổi bụi tro bay tung tóe. Cùng lúc ấy bóng tối thò cánh tay đen đủi khẳng khiu, lông tay cứng trông như lông lợn, móng tay dài khoằm tựa móng chim ưng, vói lấy cái bát nung trên bàn thờ.
– Khà! Đội ơn ngài, ngài quả là bậc từ bi độ lượng. Ngài thật vẫn không cầu ước gì cho bản thân? Ngài không muốn theo ta ngay lúc này đây mà hưởng cuộc sống nơi thế giới lưu tồn hằng cửu ? Hay ngài ước được thấu đáo chuyện quá khứ, tỏ tường việc tương lai ở thế gian này chăng ?
Thầy Thụy Tường ngồi bất động nhắm nghiền mắt, miệng thì thầm khấn lời nam mô.
– Thôi được, dẫu sao ta cũng xin để lại cho ngài chút gì gọi là để tỏ lòng tri ân. Ngài hẳn đã có nghe thiên hạ truyền tụng những lời bí ẩn trên cột chùa làng Phù Đổng khi Lý Thái Tổ xe giá về Cổ Pháp bái yết lăng thái hậu và lập vùng đất cấm ? Họ Lý bảo việc của thần thì không thể hiểu được. Thật thì chẳng có thần thánh nào vào đây. Nay ta nhắc lại cho ngài lời khải thị kia.
Bóng tối lại ném một ngọn lửa vào cột cái, lưỡi lửa chạy nguệch ngoạc một dọc trên cột từ xà tử hạ xuống hòn tảng kê chân cột. Đóm sáng tỏa chói lóa cả chính điện, mùi gỗ cháy thơm nồng khắp gian. Thoắt cái ngọn lửa tắt ngúm trả lại không gian lu mờ ánh lạp.
– Kẻ am thông kinh sách như ngài chắc đã thừa hiểu. Những điều phán quyết ở cột chùa kia cũng chỉ bao hàm những gì con người thấy mà vẫn như không thấy, thức tỉnh giữa ban ngày mà cũng như đang chìm đắm trong giấc ngủ u mê. Ngài biết đó, cực loạn rồi sẽ đến thời thịnh trị, cực thịnh lại sẽ đến hồi khuynh đồi biến loạn. Nhà Tống nay suy nhược, sứ thần thông hảo vừa đến thì sắc phong sang ngay, ban ân mệnh vỗ về cốt cho được yên ổn, chốn tứ di phiên trấn ngại việc dùng binh. Giặc châu man quấy phá nơi biên thùy vô tình làm phên dậu che chắn nước Nam, hậu duệ nhà Lý gặp thời sẽ khẳng định bờ cõi, củng cố ngôi đế vương, đặt quốc hiệu, cơ đồ lâu dài thịnh vượng. Vâng, thưa ngài, tuy vẫn phải tiến cống thiên triều, vua nước Việt rày sẽ tự xưng đế xưng quyền không cần khể tảng cầu phong, truyền ngai báu không phải chầu bệ khuyết xin cho nối tước. Họ Lý sùng mộ giáo pháp nhà Phật, giới luật sẽ được truyền bá rộng rãi, thiên hạ hết một nửa lưu tâm vào đạo tam muội, kê cứu đạo nhất thừa. Nhưng sử ngày sau sẽ chép lại những lời ta vừa khắc lên gỗ. Ta nói thế cũng đã quá đủ, giờ xin từ biệt ngài.
Thầy Thụy Tường nghe gió thét ngoài kia, cây vông đại thụ vặn mình, lá vông đổ ào ào. Bóng tối cười rũ rượi trong gió. Nhà sư nghe như từ một cõi xa xôi, xa lắm, bóng tối gào vọng lại :
– Ta có xúi quẩy loài người làm điều ác để phải chịu báo ứng nhân quả âu cũng không phải ngoài đạo trời.
Gió rít cuồng lên ùa cả vào trời đêm hàm hỗn oan khiên, gió quằn quại xoắn vòng thòng lọng túc chướng cho thít lại, điên dại quay mòng đến kiệt quệ. Đuối sức, gió rũ rượi trên ngọn vông. Rặng vông thì thào đưa linh mấy lát rồi câm nín nguôi ngoai.
Im lặng.
Đêm hoang liêu chừng cũng đã thôi than vãn, miên man yên giấc thâm huyền.
Im lặng.
Thầy Thụy Tường mò mẫm ra cột cái, cầm đèn sáp chập chuội soi lên nét chữ bóng tối để lại trên mặt gỗ, lẩm nhẩm đọc.
“Nhất
bát công đức thủy
Tùy duyên hóa thế gian
Quang quang trùng chiêu thác
Một
ảnh nhật đăng san”
Nhà sư thầm lặp đi lặp lại những câu bí ẩn, lòng buồn rầu.
Im lặng.
Thầy Thụy Tường một mình đối bóng.
Chắp tay đảnh lễ đức Như Lai, khiêm hiến phục thân lạy ba lạy. Tất cả rồi sẽ viên thành hòa luyến.
Tất cả.
Bã rã, nhà sư trải lại manh cói ngồi diện bích trước bàn thờ. Thầy ngồi như thế, dáng thầy chênh vênh trong ánh lạp.
Tháng ngày trôi qua, và thế kỷ trôi qua. Cuối năm Giáp Ngọ, Sùng Hưng Đại Bảo năm thứ sáu (1054) thái tử Nhật Tân lên ngôi xưng Thánh Tông Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Long Thụy Thái Bình, thống nhất lãnh thổ Giao Châu, Cửu Chân và Nhật Nam dưới quốc hiệu Đại Việt hòng chuẩn định quyền thế. Thần Võ năm thứ hai (1070) vua ban chiếu xây Văn Miếu tại Thăng Long, truyền các trấn các xã xây Văn Chỉ khuyến khích việc khai hóa cho dân, suy tôn giáo điển Thánh Hiền làm đạo trị nước. Đến đời vua Lý Nhân Tôn, năm Thái Ninh thứ tư triều đình mở khoa thi tam trường đầu tiên ở cõi nam để chọn người cao minh kinh bác đứng ra lo việc đại sự. Năm sau vua lập Quốc Tử Giám, Quảng Hữu năm thứ hai (1086) lại mở kỳ thi tuyển mộ hiền tài vào Hàn Lâm Viện. Nhà Tống nhiều bận xua quân chinh phạt Đại Việt. Chiêm Thành, Chân Lạp xưa nay vẫn lễ cống nhưng hay dấy binh cướp phá nơi biên thùy. Ngưu Hống, Ai Lao lắm phen làm phản. Thế nhưng phương nam trời sinh không thiếu những bậc hào kiệt cầm quân giữ gìn xã tắc.
Vào mùa thu năm Quý Mùi, tức Chính Long Bảo Ứng năm thứ nhất (1163) đời vua Lý Anh Tông, trong nước có loạn. Binh lính các vệ đào ngũ quấy nhiễu khắp nơi, lương dân lầm than ca thán. Vua sai quan thiếu bảo Lý Công Tín là bậc tông phiên đem mười vạn quân đi tiễu trừ đạo phỉ. Giặc cướp có bọn trốn chạy về đất Cửu Chân, qua sông Vũ Lũng náu thân trong rừng hóp trên một quả đồi. Người đời truyền miệng, bọn này phát hiện trên nền gạch cổ nơi rừng rậm còn in tờ mờ bóng người ngồi an thiền ở tư thế liên hoa.
Truyện ngắn 3 :
Đất
Bụi
Đào Vũ Hoài
Mụ Signhild lấy chồng năm mụ ấy cũng đã gần ba mươi tuổi. Người dân xã Selje ngày đó vẫn thích gièm pha nói thàm, kháo nhau rằng mụ ở vậy cam phận gái già chứ tính tình ngang ngạnh cành bứa như mụ đứa nào nó lấy. Mụ là con gái mục sư Halfdan Preus, một vị học thức uyên thâm, cốt cách ưu tư trầm mặc. Mục sư Preus dòng dõi vọng môn thành thị, một thời trai trẻ miệt mài khảo nghiệm kinh sử cổ kim, từng được theo những bậc danh sư thụ huấn nơi nghiêm đàn đại học Kóbenhavn và Heidelberg. Năm mụ Signhild lên bảy mụ mồ côi mẹ. Người đàn bà đang tuổi thanh xuân chẳng may nhiễm dịch lao, hao tốn biết bao tiền của điều trị vẫn không khỏi vạ. Chồng bà từ đấy mang nặng chứng phiền muộn, thất chí bỏ dở huân nghiệp chốn kinh kỳ lục địa đem con về Na Uy, từ đó sống đời ẩn dật ở miệt cửa biển đìu hiu đất Nordfjord này.
Signhild Preus lớn lên tỏ người sáng dạ hiếu học. Sớm được hấp thụ sự thông thái của vị mục sư, Signhild không những luôn sở vọng kiến thức uyên bác lại còn năng khuyến khích cha nên tiếp nối công trình tu soạn trước tác. Bẩm sinh sẵn nết cang nghị mẫn hoạt, Signhild cáng đáng cho cha việc nhà cũng như hỗ trợ cho ông trong chức phận mục vụ. Nhưng Halfdan Preus sống mòn mỏi trong nỗi buồn lưu niên, tóc ông sớm bạc, sức khỏe cứ ngày trầm một dần. Ở tuổi tứ tuần mà vóc vạc ông tiêu điều, thần trí đâm lù đù đụn rạ, lắm bận ông giận dữ quát mắng đám ngư dân bởi những cớ không đâu khiến con chiên xa lánh ông, thậm chí để bụng thù oán. Chiều xuống ông lầm lũi chống gậy đi bách bộ ra bãi đá, trầm mặc ngắm sóng bể cuồng nộ táp vào ghềnh, sủi bọt trắng xóa rồi gầm gừ thoái lui. Lắm hôm đến khuya ông mới về đến nhà, quần áo ướt nhem, mặt ông tái mét, môi thâm tím. Ông run bần bật, ngồi bệt góc nhà rên ư ử. Signhild đỡ ông dậy, giúp ông thay quần áo để ông đi nằm, thông thường ông chẳng màng ăn bữa tối. Dạo đó ông hay ngủ vùi đến quá trưa, rất biếng tắm rửa, râu tóc lởm chởm cứng quều. Cuộc sống xung quanh dường không động trệ đến ông. Trong ấp đã lắm kẻ viết thư kiện lên tòa đức giám mục địa phận xin thuyên chuyển vị nào khác về quản nhiệm giáo xứ. Người ta không thể chịu lụy những hành vi gàn quái của mục sư Preus nữa. Thánh lễ Chúa Nhật cả cộng đoàn sảng hoàng tán đảm dõi mắt trông ông đứng chết trân nơi bục giảng, đôi mắt xa xăm lạc thần, rồi đột nhiên ông vung tay thét toáng lên khảo tấn tội lỗi mọi người, tuyên án khiển hình đày hết thảy linh hồn các đảng xuống hỏa lò luyện ngục. Đang cử hành nghi thức hôn phối ông đâm buồn bã đuổi cả hai họ về, bảo tuần sau trở lại. Rưới nước làm phép rửa tội cho con trẻ ông bật khóc nức nở, đứa bé giật mình gào toáng lên. Cha khóc trẻ khóc, láo nháo chốn cung chiêm thờ phụng. Xức dầu kẻ liệt có bận mắt ông trợn trừng, tay chỉ hồn bạch kẻ vừa trút hơi thở lìa đời, miệng quát: “Lazarus, hãy trỗi dậy mà đi! Lazarus, ta truyền ngươi hãy trỗi dậy mà đi!” khiến người trong tang quyến hãi quá ôm mặt rú lên ù té chạy.
Cho đến cái đêm lập đông mưa bão ấy, ngư dân có người đến đập cửa nhà xứ báo tin dữ cho Signhild. Người ta vừa mới vớt được xác vị mục sư ở ngoài bãi dưới.
Sau khi chôn cất cha xong Signhild sống vật vờ như cái bóng. Người dân xã Selje ít thấy người đàn bà này đi lại giao hảo với ai, những dịp hội yến trong năm chẳng bao giờ xuất hiện, chốn hương nghị lân tề cũng không. Signhild thui thủi thủ phận với vườn rau, đàn gà. Vợ chồng vị mục sư đáo nhậm chức vụ ít lâu sau biết chuyện, thương tình cho Signhild ở lại nhà xứ giữ chân giúp việc. Chiều xuống người ta lại thấy giờ đến Signhild thơ thẩn đi bách bộ ra bãi đá, trầm lặng nhìn sóng biển phẫn uất vập vào ghềnh sủi bọt trắng rồi thườn thượt thoái lui. Ngoài khơi dòng hải lưu từ Bắc Băng Dương cuồn cuộn đổ ập vào luồng nước nóng Đại Tây Dương mang theo khiến biển luôn sôi sục tạo một miền khí tượng hung tợn. Gió đem những cơn dông bắc cực về vùng vẫy phá phách trên vùng duyên hải cằn cỗi. Gió háo chiến độn những khối mây đen đặc bưng bít bầu trời, mưa bay sàn sạt quất những ngọn roi điên loạn lên mặt đá. Được hôm trời phỉ sức đã nư, mặt biển vẫn hậm hực ưỡn lưng bật bẩy áp suất, dưỡng sức đợi giây phút tranh hùng. Signhild đứng đấy trên mỏm đá trong chạng vạng chiều, chơi vơi giữa vũ trụ chưa nguôi cơn thịnh nộ. Biển xám và trời cũng cùng một màu xám cửu thù. Trong ấp người ta rỉ tai nhau có lẽ họ Preus mang nỗi oan gia, đời cha rồi lại đến đời con cái huông truyền kiếp cứ lẻn lút phủ tối tâm tư. Không khéo Signhild rồi sẽ theo cha về với biển.
Nhưng buổi sáng hôm Sjur Tharandsen xuống ngựa gọi cửa nhà xứ, mái tóc bồng bềnh vàng óng và đôi mắt xanh biếc trong veo của chàng thanh niên tráng kiện nọ đã làm cho nỗi lòng Signhild Preus có phần bớt ảm đạm. Sjur năm đó tuổi mới ngoài hai mươi, hắn là cháu phía bên vợ vị mục sư đương nhiệm. Hắn không phải người miệt này, mới rồi cha mẹ hắn qua đời để lại cho hắn đất trang trại cũng đến hàng mấy mươi mẫu tây và một thung rừng ở miền sâu trong Gudbrandsdal. Hắn trồng lúa mạch, lúa mì, nuôi gia súc, thêm nghề khai thác gỗ thông. Sjur ít nói nhưng phú tính quả đoán, hắn là hạng người mưu trí và bền bỉ chịu khó. Hắn đi Bergen có công việc, tiện đường ghé thăm dì hắn. Họ hàng thân thuộc ngoài vợ chồng vị mục sư hắn chẳng còn ai, và cũng chưa vội lập gia đình. Hắn còn trẻ, lại thừa hưởng một cơ ngơi không nhỏ thì khối gì người để mắt mà hắn phải lo xa. Thế nên có thánh mách nhỏ hắn cũng không thể ngờ rằng gặp Signhild Preus, một người đàn bà hơn hắn đến mười tuổi, hắn đâm si mê như chạm ngải. Hắn gác lại mọi dự toán, mọi kế hoạch làm ăn, lì lợm nán đợi ròng rã cả tháng, quyết sao để Signhild ngã lòng nhận lời cầu hôn. Vợ chồng vị mục sư vốn dĩ là những người đôn hậu nhân hiếu, không hề can gián vào ý định của Sjur. Lễ thành hôn được cử hành chỉ một tuần ngay sau cái buổi Signhild mặc yên cho chàng thanh niên khẽ nắm tay mình. Hôm vị mục sư loan báo tin vui dân trong xã Selje lắm kẻ tức tối. Đầu xuân năm 1810, khi hoa táo nở trắng vườn, Sjur Tharandsen đem vợ về Gudbrandsdal.
*
Mụ Signhild chắn cái rõi cài cửa ràn cẩn thận, rồi tay chống nạnh, tay che ngang mắt mụ nhíu mày đỡ chói ráng chiều đang lừ lự chín đỏ triền đồi. Mươi hôm nữa đến mùa thả đồng Sjur sẽ đi cùng Eilif lùa cừu vào miền tùng thảo sâu trong thung lũng, để chúng ăn cỏ đấy cho hết mấy tháng hè. Eilif vào ở luôn trong đó, đến thu phân bố hắn đón về. Tự năm ngoái nhà giao hẳn đàn cừu cho Eilif đi chăn. Ở tuổi mười lăm hắn đã có thể đảm nhiệm công việc một mình. Phận sự của Lavran giờ là phụ giúp việc đồng áng nơi trang trại và trông coi xưởng cưa. Mụ Signhild dõi mắt tìm bóng đứa con cả đang gieo nốt thửa ruộng mé chân đồi. Lavran lớn lên lông cánh dáng mạo nối tông cha, vai ngang lưng rộng, tóc vàng rộm như gié lúa, mắt xanh màn trời vào hạ. Anh ta trời sinh bản chất điềm đạm, tính nết chất phác trung hậu, quả cảm cang trực trong hành xử tuy hiếm bao giờ Lavran chia sẻ với ai những điều anh ta suy tính. Cả ngày anh ta chỉ cần mẫn làm lụng. Năm nay tuổi mới mười tám Lavran đã thuần thạo việc nhà nông, tinh nhuận nghề đốn cây xẻ gỗ. Anh ta yêu đất, yêu hoa cỏ núi rừng. Bé tẹo Lavran đã đòi bằng được theo cha thả câu đánh bẫy nơi đầu nguồn khe suối. Tuổi thanh niên anh ta là tay thiện xạ có tiếng trong vùng, hễ đã lắp tên giương nỏ thì con mồi ít khi nào thoát. Song, như hầu hết cư dân miệt này, chẳng đặng đừng Lavran săn bắn kiếm thêm miếng ăn trong những tháng cuối năm tuyết giá khan túng, hoặc diệt trừ thú hoang phá hoại mùa màng, giết hại gia súc. Mụ Signhild nhìn con kiêu hãnh trong lòng. Mới ngày nào, thế mà không bao lâu nữa mụ sẽ phải trù liệu chuyện gầy dựng cưới gả cho con.
Khác hẳn người anh lớn, Eilif mang diện mạo dòng dõi bên ngoại. Dáng dấp hắn thon mảnh, tóc xoăn nâu hạt dẻ, mắt đen. Signhild thường hay quở trách con vì thói ăn nết ở. Eilif lém lỉnh, miệng mồm liến thoắng ưa đặt chuyện dẫu bụng dạ hắn vô tư, chẳng hề gian ngoan thâm thiềm muốn hại ai bao giờ. Tính khí hắn vậy, chỉ khoái thêm thắt với chủ ý bày trò mua vui. Hắn đam mê đàn địch thi phú, bấy nhiêu tuổi đầu trông thấy gái mắt hắn đã hoáng lên, nhe răng cười khơ khớ, nghí ngởn ngỏ lời trăng hoa. Hắn tham ăn mói ngủ, mùa đông hắn nằm đổng lưng cả buổi, chùm chăn đợi đến bữa. Truyện xưa tích cũ hắn ngốn từng pho. Hắn rất vụng việc nhà, những điều thiết yếu cho cuộc sống hằng ngày căn dặn chỉ bảo bao lần hắn vẫn lớ ngớ nhớ thoảng nhớ thì. Hắn chỉ để tâm thuộc tỉ mỉ nhiều điển cố, hắn luận dã sử cứ y người ta đánh đồng thiếp, chuyên góp nhặt truyền thuyết hoang đàng ở những đâu không biết, câu hát câu hò dân dã hắn nằm lòng. Hắn kể chuyện hay lắm, và hắn có thể làm xiêu lạc hồn người bằng tiếng vĩ cầm của hắn. Lắm lúc Sjur cả giận rượt đánh, Eilif bỏ nhà đi cả tuần. Đói lại mò về. Mụ Signhild lắc đầu chép miệng, không hiểu vào hạ bảo thằng này chăn cừu nó làm gì nơi đồng hoang lâm mãng cho hết tháng ngày đằng đẵng. Mụ thừa biết nó cũng chẳng thiết tha gì đến chiên cừu. Chắc hẳn cu cậu bỏ mặc chúng đó, mò qua thôn ấp bên kia núi trêu ghẹo con gái người ta.
– Đẻ ơi, con đói rồi.
– Ừ, đợi bố và anh cả làm đồng về rồi ăn.
Mụ Signhild cúi bồng đứa bé gái, vùi mặt vào gáy nó hít lấy hít để. Herdis lẫm chẫm mới lên bốn. Những tưởng đẻ Eilif rồi thôi, Signhild không ngờ hơn mười năm sau vợ chồng mụ lại thêm cái hĩm. Con bé mũm mĩm trắng hồng, tóc nó vàng hổ phách, óng ả như mật ong trên rừng, mắt nó xanh lục y đôi mắt của bà trẻ nó ở Selje. Mụ Signhild khẽ thở dài trong mớ tóc thơm trên đầu đứa trẻ. Quãng đời buồn tủi của mụ tưởng chừng đã xa, xa lắm, hóa vẫn âm ỉ ở đáy linh hồn, liu riu um cuộc sống hiện tại trong một chất tương hắc ám nhớp nhúa. Signhild nghiến răng nuốt quá khứ thố toan, mụ không phải hạng người ưa khóc kể rắm rúc chuyện đã qua. Herdis vòng tay ôm cổ mẹ nũng nịu. Eilif nẫy giờ ngồi giỡn nghịch với lũ chó luốc ở chân cầu thang nơi cửa lẫm, chán rồi bỏ tay túi quần lững thững lại đứng bên mẹ.
– Đẻ, con cũng đói.
Signhild mắng yêu :
– Mày chỉ được cái cúi trốc ăn, đầy nốc mày van làng.
Từ mé chân đồi Lavran theo cha dong ngựa về. Lòng đỏ mặt trời đã lặn quá nửa sau rừng bạch dương, tỏa vầng nhật vựng cam cúc đang loãng dần ra vòm khí sáng phơn phớt màu mỡ gà. Một khoảng trời rất mỏng trắng xóa đánh viền quanh khối tà huy làm nơi tiếp nhưỡng với mênh mông còn xanh biêng biếc. Xa xa rừng tùng rừng bách đã thẫm màu. Núi non chập chồng nối tiếp nhau, đỉnh vàng hoe. Miền thung lũng Gudbrandsdal đất đai màu mỡ, nơi đây mưa hòa gió thuận, mùa màng thịnh mậu. Lavran vẫn tự hào đất này là vựa thóc nuôi miền Trung. Herdis cười trong trẻo, tuột khỏi tay mẹ chạy đón đường anh, vòi được cưỡi lưng ngựa về chuồng. Mụ Signhild làm dấu Thánh Giá, quay vào trong lo bữa chiều.
Trong những ngày này miền cực bắc quả cầu đang ở cữ. Trái đất qua mùa nghịch nặng nhọc xoay nghiêng đánh vòng kinh tuyến giữa thiên uyên, xoáy quý nguyệt vào khu ốc điểm chí. Chiều mạnh hạ ngắc ngoải trong định luật tuần hoàn cứ căng ra mãi, sức sống phôi châu nơi lòng đất hối hả kết tinh, rần rật tượng thai báo hiệu hạn kỳ nhặm mắn trời bù sau tiết đông thiên tối tăm mù mịt.
Cơm nước xong Lavran lại lọp nhọp xuống con dốc bùn lầy ra ràn thăm nom bầy gia súc đang đến thì xổ nục, đêm xuống chúng hăm hở sục sạo không yên, chọi báng nhau kêu la inh ỏi. Signhild ngồi vào khung cửi, tay thoăn thoắt đưa thoi. Sjur miệng ngậm tẩu ngồi bên bếp lửa, chốc lại cầm cái thép bằng lá thông quét gọn tàn tro vương vãi nền nhà. Củi trong lò đã vạc than nhưng đủ cho ấm cà-phê sủi ùng ục. Mấy cột trỏng trên trính nhà và cặp đầu kèo giao nguyên đen mịn bồ hóng. Eilif đặt bé Herdis ngồi lòng bày nó hát mấy câu vè hắn vừa học lóm được ở đâu đó. Herdis cười khanh khách mỗi khi anh nó gí mũi bảo thơm đã. Áng chiều lử đử chành mỏng quá giấc rồi cũng nhá nhem đổ rạp về hướng tây, để lại trời đêm biền biệt. Trời lặng lẽ trải vuông gấm xanh thẫm, mặt gấm lóng lánh bụi thiên hà.
Bỗng đâu lũ chó ngoài sân đồng lượt sủa ran, trong nhà nghe tiếng Lavran chắt lưỡi tróc chó. Một bóng người mở cổng rào gia trang men theo lối lên giồng đất, vai gã khoác túi nải, tay cầm vật gì từ xa trông như cái hèo gác vai kia. Sjur ra đứng ở ngưỡng cửa :
– Lavran, xích chó lại, con.
Gã nọ bước vào vùng ánh sáng lấm láp bếp lò hất ra cửa, ngả chiếc mũ nỉ rộng vành vui vẻ chào mọi người :
– God kveld i stua! Kẻ lỡ đường mạo muội xin được tá túc nơi này qua đêm. Tên tôi tên Ulf. Ulf Austrheim.
– G’kveld, g’kveld! Tôi tên Sjur. Sjur Tharandsen. Khách đến nhà há đâu chúng tôi bỏn sẻn mảnh chăn chiếc bánh. Mời ông vào nghỉ ngơi.
– Đức Chúa Trời lòng lành chúc phúc cho nhà ta. Cảm ơn ông chủ.
Kẻ hành lữ để tay nải và cái đòn bọc da ở góc nhà. Signhild bỏ cửi chất thêm củi vào bếp, bắc cái nồi đồng đun lại món canh khoai nấu xoảng. Sjur lấy ổ bánh và thịt sườn hun đặt bàn, đoạn rót rượu mời khách. Gã này thở khượt khoan khoái. Gã trạc tuổi năm mươi, tóc hoa râm, hàm râu lởm chởm. Mặt gã gầy xương xẩu, cằm nhọn trông như mặt sói. Đôi mắt gã ti hí, đuôi mắt xếch ngược, sống mũi quá cao khiến hai ổ mắt sâu hoắm. Ulf Austrheim bước vào nhà bé Herdis co rúm người, tay ôm siết cổ anh.
Khách lưu bộ gập người ăn, gã đói nên chẳng câu nệ chi. Dáng gã khắc khổ phong sương, nước da dãi nắng gội mưa ngăm đen như phường du thủ du thực mùa này vẫn hay lẻn vào làng bắt gà bẻ ngô. Vầng trán rộng thông minh, ánh mắt gã sắc bén vô lường. Điều khiến cả nhà chú ý là sắc phục gã mặc trên người không phải những thức người Bắc Âu thường mặc. Ulf Austrheim chân mang giày da thuộc phẩm đen ống cao đến gối, quần đũi trắng dày sợi, bên dưới tấm áo khoác bằng lông thú gã mặc áo nỉ màu xanh dương, vạt áo che ngực cài hai hàng khuy đồng cái còn cái mất, nịt da quàng vai, cổ quấn khăn lụa bạch. Áo quần tuy đã xười rách phai bạc vẫn còn cái nếp oanh liệt. Kẻ phiêu bạt thừa hiểu mọi người nẫy giờ len lén nhìn gã lòng nhiều thắc mắc.
Được bữa ăn ấm cật, chủ nhà lại hào phóng rót rượu luôn tay, Ulf Austrheim ngồi duỗi chân, lưng tựa vách khẽ thở dài mãn nguyện. Gã lim dim đôi mắt im lặng đeo đuổi những suy nghĩ riêng của lão. Cả nhà Tharandsen cũng không ai nói gì, bé Herdis trố mắt há miệng nhìn sinh khách như đang mộng hành chiêm thị. Một lúc sau gã kia từ tốn đi lại góc nhà nơi gã để hành nang, vói cái đòn tháo bỏ miếng da bọc bên ngoài:
– Kẻ mọn này không có gì đền đáp hậu tâm của gia chủ, nay có khẩu súng trường xin để lại gọi là tỏ lòng biết ơn.
Eilif, và nhất là Lavran đang ngồi ở ngưỡng cửa cùng ồ lên háo hức. Cả hai đã nghe việc binh lính triều đình bấy lâu được trang bị thứ này nhưng chưa bao giờ trông thấy tận mắt. Sjur cười xòa:
– Bevares! Bát canh miếng bánh cho kẻ lỡ vời âu cũng là phong hóa, ông quá lo nghĩ.
– Joda! Ông nhận cho thì tôi đây mới toại dạ. Tôi trộm nghĩ trong công việc điền địa khai hoang rồi ông cũng sẽ có dịp phải sử dụng đến nó. Ông khước từ tôi buồn lắm.
– Vâng, ông đã nói thế tôi nào còn muốn phụ lòng ông.
Sjur đón lấy súng, trầm trồ. Ulf Austrheim cười hể hả :
– Khẩu này tên gọi cây Pauphile, lính tráng quen gọi cây Tulle ’77, rất thông dụng khắp châu Âu và trong những cuộc chiến nội thuộc bên châu Mỹ kia. Tôi gửi biếu ông luôn cái khuôn đúc đạn bi. Tiếc cái, thuốc súng tôi còn có ngần này, nhưng cũng đủ bắn mươi phát đấy.
– Ối, tôi cảm ơn ông. Thuốc súng tôi có thể nhờ người đi Bergen hay lên Nidaros mua được.
Men rượu sậc sừ, miệng lưỡi Ulf Austrheim được mượi. Gã phửng chí rậm chọe, chỉ vẽ cách thức dùng xuộc tọng thuốc súng và đánh bổi châm ngòi nổ cho đám nhà nông khườm khì. Gã tự đắc bởi kinh nghiệm thao lược quân sự của gã, không để ý Signhild đang ngồi xe sợi góc nhà, xẳng mặt quải lự. Linh tính bảo mụ rày thì triệu dữ theo kẻ lạ mặt vào nhà, cuộc đời mụ rồi lại nước mắt quẹn má. Bên ánh lửa Ulf Austrheim đang cao hứng thuật lại cuộc đời trận mạc của gã. Rằng gã thoát ly gia đình tòng quân năm gã mười sáu tuổi, gã đi lính cho Christian VII rồi Frederick VI nhà Oldenburg. Năm 1808, vua Carl XIII xứ Thụy Điển lên ngôi làm bù nhìn giữ dưa, đã phải chịu áp lực của giới vương công quý tộc ban chiếu chỉ tuyên nhận quyền lập pháp của Nghị Viện, lại phong tước Thái Úy cho thống soái Jean-Baptiste Bernadotte, nấy việc quốc chính lẫn binh quyền cho người này. Quyền bính trong tay, Bernadotte muốn duy trì ưu thế của Thụy Điển ở biển Baltik đã chọn thái độ hòa hoãn với tsar Alesandr Pavlovitsj, đất Phần Lan xem như của tiến cống vậy. Trước cơ sự đã rồi triều Oldenburg bấy giờ đem Đan Mạch cùng thuộc quốc Na Uy về một phe với hoàng đế Napoléon để chống lại liên minh giữa Thụy Điển, Anh Cát Lợi và Nga La Tư. Bởi đó mà Ulf Austrheim đã được vinh dự đứng vào hàng ngũ và chiến đấu dưới ngọn tiết mao của Đại Pháp. Gã hùng hồn hồi tả trận đánh khốc liệt ở làng Borodino bên bờ Sông Cái năm 1812, nơi tổng lĩnh Kutuzov lập phòng tuyến bảo vệ thành. Hùng binh Nga Hoàng tan hàng bại tẩu, bỏ ngỏ cổng kinh đô. Nhưng trong đêm tàn quân nổi lửa đốt thành. Moskva cháy rực trời, hun đỏ mặt sông. Gã căm tức tưởng niệm lệnh rút quân mùa đông thảm khốc ấy, nguyền rủa mưu lược tiêu thổ đốn mạt của kẻ thù. Rượu càng khuya Ulf Austrheim càng trở nên đau buồn chua xót. Gã nhắc đến những người đã hy sinh, đến tình đồng đội, gã ngợi khen những gương anh dũng can trường trong khói lửa. Gã nhổ nước bọt chửi đổng, đào xới mả cha nhà kẻ bội nghịch Bernadotte. Fanden ta... Jean-Baptiste Bernadotte đã từng là tôi trung được hoàng đế Napoléon ban phủ việt, thừa mệnh ra làm quan thống sứ quản suất các phủ các hạt xứ Bắc Phổ và cả Đông Phổ. Trên lãnh thổ này xưa nay chính vụ đều do những bang sở Hansa chi phối. Nay Thụy Điển phế truất Carl XIII, tôn nguyên soái Bernadotte lên ngôi quốc vương. Năm 1814 hoàng đế Napoléon thoái vị, nhà Oldenburg buộc phải ký hiệp ước Kiel nhượng bộ đất Na Uy làm phụ dung phiên trấn cho Thụy Điển.
Ulf Austrheim ngửa cổ nốc một hớp cạn cốc rượu, tay nắm quả đấm đập bàn dõng dạc :
– Nhưng, thưa quý ngài, một triều đại phú cường mới đang hình thành và sẽ chiếm đoạt phương vị bá vương ở châu Âu trong một tương lai rất gần đấy thôi. Cứ tin lời tôi đi. Nhà Hohenzollern xứ Phổ từ bấy lâu mưu toan muốn lấn quyền họ Habsburg bên Áo Địa Lợi. Các châu quận chư hầu phía đông và đông nam sông Rhein chủ yếu như Hesse-Darmstadt, Bayern và Wurtemberg đã giao đầu tiếp nhĩ bàn chuyện liên bang. Trong hàng văn thần võ tướng xứ Hung Gia Lợi lắm kẻ bất mãn triều đình Habsburg đang nhen nhúm ý đồ nhưỡng loạn. Trung Âu miền đông sông Odra, quận công hạt Warszawa, được sự ủng hộ của giới huân tước vọng phiệt còn trung thành với nhà Leszczynski, đã đứng ra chiêu mộ tàn quân Kosciuszko sau cuộc nổi dậy năm 1794, liên kết với châu thành Krakow nhằm mục đích đối kháng quyền thống trị của Nga hoàng. Cương thổ châu Âu rồi sẽ được chuẩn định lại. Jovisst, cứ tin lời tôi đi.
Eilif suốt buổi đứng tựa cột nhà đau đáu hóng chuyện, không để mắt đến mẹ đang nhìn hắn ái ngại. Hốt nhiên hắn hỏi, giọng hắn khích nộ :
– Thế ra trên đất nước này bậc anh minh vũ lược vẫn chưa chào đời để nối lại cơ nghiệp tiên vương ư ? Đã hơn bốn trăm năm quốc thống vong bại, dân ta người Đan Mạch đô hộ giờ cúi đầu thần phục triều đình Thụy Điển ?
Mụ Signhild chột dạ, chực đưa tay ra dấu can gián đứa con dại miệng. Khách tinh ý cười khà như để trấn an, gã đổi giọng :
– Thưa bà, tuổi trai trẻ bản thân tôi đây cũng là bông lông bốc trời lắm thay, vọc vạch đọc thông mặt chữ tôi muốn ra đời cứu nạn lớn, lập công to, rằng nam nhi ngộ biến thì xả thân tòng quyền. Hi hi hi, người trong thiên hạ hơn nhau một tiếng anh hùng đấy mà. Nhưng thú thật, cha ông tôi cày thuê bốc mướn, dốt nát cục mịch, đẻ ra cái thằng thường dân tôi cũng chỉ là cái ngõng cối của bánh xay thời cuộc mà thôi. Cậu nhà nghe tôi đi, chuyện kinh bang tế thế là chức phận của kẻ danh gia vọng tộc, có thời nào họ đếm xác dân đen nằm phơi sa trường mỗi khi họ tuốt gươm ruổi ngựa đòi đi lập công danh. Ai xưng bá vương đi nữa thì người của trăm họ vẫn đèo lấy phận nô bộc, ra chiến trận lúc đó được đi hàng đầu lấy trán hứng đạn thần công. Như nhà ta đây gia viên điền sản trong tay thật là phúc đức, cái ăn cái ở mình làm ra mình hưởng.
Eilif bĩu môi :
– Ông nói chuyện, con dân một xứ chi châu liên thuộc thì sống đời thịnh đạt thế nào? Đổ mồ hôi sôi nước mắt làm ra của cải đem cống nạp ngoại triều. Không có tự trị thì khác gì quai gióng đeo ở cổ.
Cả nhà sửng sốt nhìn cái thằng lòng nhòng mới vỡ bọng cứt đã chẻo lẻo lo việc đại sự. Lavran cười lục khục, đúng ranh con tự huyễn cho ra mẽ. Sjur ngậm tẩu trợn mắt gật gù, ai ngờ thằng dở người cám hấp lại biết chỗ đặt mồm. Mụ Signhild tuy phấp pha phấp phổng dự cảm điều chẳng lành cũng mát mặt nhìn con.
Ulf Austrheim ung dung tự tay rót rượu, lúc này gã nhếch mép lấy lại giọng tiết mạn :
– Vâng, cậu nhà nói cũng phải, phàm xứ ta đất rộng dân thưa, bậc lão trượng ở cái hội đồng ủy chính kia toàn một ngữ ngu trung. Xưa chịu ân trạch nhà Oldenburg, nay họ Vasa khuếch nhiên mở kho ban phát mễ lương thì cũng thế. Vùng đô thị nước ta người ngoài mở hội buôn thao túng chuyện làm ăn, làng mạc thôn xã giao cho phường cốn quan địa phương cai trị. Các ngài thừa biết đấy, hạng này thì cũng không hơn gì chúng ta. Tước phẩm không, quyền bính không, bổng lộc được dăm mẫu tự điền, bọn này sống đời còn thua cả bậc phú nông. Muốn tự trị ư, trước nhất phải lo việc khai sáng cho thiên hạ rồi sau hãy nói đến tình tự dân tộc. Mà kinh luân khai hóa làm sao khi những nhà khá giả chốn kinh sư muốn con đi học cũng phải gửi ra xứ người. Đất nước ta một cõi nham dã khổn ngoại, dân ta đời cha đến đời con sống thu mình nằm thu gối đã quen, mấy thế kỷ liền tự cô lập, bồng bế nhau đi dựng cơ nghiệp nơi miền hoang phục.
– Khi xưa thánh vương Olaf...
– Nên nhớ xưa đức vua tay gươm tay Thập Tự Giá đi thống nhất bờ cõi đã không được lòng dân.
– Nhưng...
Mụ Signhild đứng dậy ngắt lời con:
– Eilif, đêm đã khuya, khách đường xa cần nghỉ ngơi dưỡng sức.
Khách vươn vai, cố dằn cái ngáp:
– Vâng, tôi hết lòng cảm ơn ông bà. Kẻ lãng du này thật không muốn lạm dụng thêm lòng khoản đãi của gia chủ, giờ chỉ xin một đụn rơm trong chuồng ngựa. Ting mơ tôi đã lại phải lên đường. Nguyện Đức Chúa Trời ban cho nhà ta được một đêm an bình.
Sjur mở rương lấy chiếc chăn cù cho khách, Lavran cầm đèn dầu soi lối đưa gã ra ràn.
– Cậu ngủ ngon, nhá!
– Vâng, ông đi nghỉ ạ.
Trời đêm man mác gió giải đồng. Ruộng mới vỡ mấy hôm tươi roi rói, bùn đất luân sinh tỏa hương thơm nồng nàn. Con chim cú đơn côi xoải cánh đi ăn đêm, lượn sát mặt ruộng tha mồi rồi bay đậu cành bạch dương. Cú kêu đêm thâu nghe não nuột. Cả nhà đà yên giấc, mình Eilif ngồi trầm ngâm cời than giữ lửa. Bếp lò bập bùng thơm củi thông. Eilif rót rượu, mở gút xòn lấy thuốc nhét tẩu.
– Mày học hút tẩu tự bao giờ thế ?
– Đẻ chưa ngủ ư ?
Signhild thở dài, bắc ghế tay vượn ngồi bên con. Cả hai cùng im lặng. Eilif đôi mắt đăm chiêu nhìn vào một cõi vô ngạn nào đó trong ánh lửa, miệng lừ dừ nhả khói. Lát lâu hắn quay nhìn mẹ :
– Đẻ à, sáng mai ngày con sẽ cùng đi với lão Ulf.
Signhild vẫn nhìn thẳng, không nói gì.
– Con muốn ra đời giành lấy cho mình một chỗ đứng, đẻ ạ. Con muốn được học nhiều hiểu rộng bằng kinh nghiệm từng trải như cái lão giang hồ trơ gan tuế nguyệt kia. Cả một thế giới loài người biết bao điều hay lạ, biết bao là biến thiên dâu bể hằng xoay cơn khí số của cả một dân tộc. Đẻ ơi, đời muôn hồng nghìn tía ở bên ngoài cuộc sống phong đăng của chúng ta đây, phải đi cho đến cùng trời khắp bể con mới thỏa. Cảnh đồng sâu cốc hẹp này giờ khác chi chốn cung thác. Con phải đi, đẻ ạ.
Mụ Signhild lặng lẽ trào nước mắt. Cái kiết hung theo kẻ lạ vào nhà mụ là đây. Thằng này mụ đẻ nó ra mụ biết, sẽ khó lòng mà ngăn cản được hắn. Có xích cổ nó lại nó cũng sẽ tìm mọi cách mở trói mà lẻn ra đi.
– Đến hôm thả đồng đẻ nhờ thằng Baard con ông Ingjald hàng năm vẫn làm công cho nhà mình ấy. Nó nhỏ tuổi nhưng lanh việc, đàn cừu để nó chăn.
Mụ Signhild nức nở :
– Tiên sư mày !
*
Velaug vén lại mớ tóc rối, xoay ngược con dê cho chúc đầu luồn váy giữa hai chân, cúi mình trên lưng con vật thò tay vắt sữa. Mặt trời đã đứng bóng, giờ hẳn mọi người đang nghỉ ngơi ăn trưa. Việc đồng áng trong những ngày này đã phải nuôi khoán cả thảy mươi công gặt mới mong làm xuể. Thằng Sindre theo bố và ông nội nó ra ruộng từ tinh mơ. Loắt choắt mười tuổi đầu mà thằng bé lanh lợi ra phết. Chỉ mỗi tội lì lợm khó bảo, Velaug vẫn thường gí ngón tay lên trán con mắng yêu làm vậy. Lavran đã hứa với thằng Sindre qua vụ mùa cho nó theo lên rừng săn hươu. Gớm, cu cậu sốt ruột ngóng trông là thế, mấy hôm lại níu áo Lavran hỏi đến khi nào bố con mình đi.
Velaug ngừng tay dõng lưng cho đỡ mỏi, bụng mang dạ chửa làm lụng sức kém đi, có tí đã chóng mặt buồn nôn. Vợ chồng ăn ở với nhau đứa này nữa là ba, không biết rồi đẻ trai hay gái. Velaug âu yếm quay nhìn bé Birla đang ngồi bên cô nó ở ngưỡng cửa học xe sợi, líu lo chuyện vãn luôn mồm. Herdis cầm cây trục bật mớ lông cừu cho tơi ra, chốc lại ầm ừ trả lời cháu. Con bé mới thế đã lên bảy, Chúa thương cứu chữa nó lớn tuổi này khỏe mạnh cũng được như con người ta. Khổ thân con bé, lọt lòng mẹ nó phải chứng đẹn khóa, về đóng váng đầy nướu đầy cổ họng, sưng hạch mở miệng không ra. Đứa trẻ sốt liên miên, chẳng bú mớm làm sao cho đặng, bao lần đã tưởng nó tắt thở. Bấy giờ bà nội nó còn sống, bà chẳng lậm của cho mời danh lang trên tỉnh về chẩn thị hốt thuốc. Cả tháng trời Velaug ẵm con thức thâu đêm, đầu hôm bà nó hoặc cô Herdis thức sớm đỡ tay cho chị ngả lưng một đỗi, ngày tỏ mặt người chị còn phải tất bật mảnh trấu hạt kê lo trăm việc. Nhưng Velaug có than vãn gì. Con nhà bần cố chịu cực đã quen, lấy chồng lại được bên chồng thương yêu che chở. Cưới chị cho Lavran, Sjur cắt hẳn hai mẫu đất làm sính lễ cho đằng thân gia cày cấy làm ăn. Dân vùng này lắm kẻ xoi hao mạch nước, gièm siểm đi kháo nhà Tharandsen bỏ vàng mua thau. Mụ Signhild sinh tiền vẫn bảo chị mặc lũ người lòng dạ nhỏ nhen, những đứa ăn bẩn thối mồm, hơi đâu. Và như thể muốn trêu ngươi thiên hạ, mụ thuê người lặn lội tận Trondheim sắm khuyên vàng xuyến ngọc cho Velaug để riêng làm của.
– Đẻ ơi, có kẻ lạ đến nhà.
Velaug nhìn theo hướng bé Birla trỏ tay. Người đàn ông chống nạng mở cổng rào gia trang theo lối mòn lên giồng đất. Herdis đứng ngây ra ở ngưỡng cửa. Velaug vội nhặt thanh củi đuổi đánh bầy chó đang cắn loạn sân trại. Bé Birla chột dạ đến nấp váy mẹ.
Eilif thở hổn hển, cởi cái bị thắt quai nuộc đeo lưng ngồi phịch xuống chân tam cấp.
– Phải mày đấy không, Herdis ? Cho tao miếng nước.
Bé Birla trố mắt nhìn người đàn ông lạ mặt. Ông ta mặc quần áo bằng da thú, một chân đi giày ống cao khóa đồng, chân kia cụt đến gối. Tóc ông ta dài quá vai, màu nâu thẫm hạt dẻ và đã bạc đi nhiều. Da người này ngăm đen, khuôn mặt gầy guộc để hàm râu xồm xoàm. Đôi mắt kẻ lạ đen lay láy, bé tưởng chừng ông ta có thể nhìn xuyên vách gỗ thấy mọi vật cất giấu trong nhà. Bé lấy làm lạ cô Herdis không tỏ vẻ sợ hãi người đàn ông kia một mảy may nào.
Giờ Eilif để mắt nhìn đứa em gái từ gót chân lên đỉnh đầu, mặt hắn nghệt ra. Hắn đường đột cười khơ khớ :
– Ôi chao, cô lớn cô xinh sao mà xinh! Chắc mày đâu có nhớ tao, hả Herdis? Djevel! Tao đi mày mới lên bốn, nhớ sao đặng mà nhớ. Còn cô nương đây là ?
Velaug nghiêm giọng :
– Tôi là vợ Lavran Tharandsen.
– Ra thế! Lavran, ông ấy quả có mắt.
Velaug ngượng chín người. Herdis ấp úng đỡ lời :
– Anh vào trong nghỉ ngơi, để em đi báo cho cha và Lavran hay.
Được tin vui, Sjur bỏ ngay việc đồng áng vội đánh xe về nhà. Lavran chau mày không nói gì, ăn sam sưa qua bữa rồi lững thững cầm liềm vạt xuống ruộng lia đều tay gặt. Lúa chín vàng um đổ dồn từng vỏm, từng vỏm trơ chân rạ. Herdis áy náy nhìn anh, song biết rõ tính khí Lavran cô đành thôi, không muốn nằn nì chi thêm chuyện. Nắng lóa nổ con ngươi, Lavran mặt đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại.
Từ xa, Sjur mừng cuống vẫy con. Eilif tay nạng khập khễnh ra đứng ven lối cỏ đón cha. Sjur ôm lấy đứa con bấy lâu tưởng đã mất, miệng ấm ứ chưa thành lời đã rưng rức tủi lòng giọng nhòe nước mắt.
Sjur cho phường gặt nghỉ luôn nửa ngày công, mượn thằng Sindre gióc ngựa đi khắp thôn trên ấp dưới mời hương lân đến chung vui, sai người mổ bò tơ nổi lửa nướng hiểng ngoài sân, lại còn gà vịt bánh mứt ê hề đem thết đãi mừng Eilif trở về. Rượu đặt từ vụ mùa năm ngoái uống quăng thõng cạn thạp vẫn chưa nhịu họng, điền chủ chẳng sãnh sẹ áy o bảo anh em hiệp thợ mái thí giú dưới sàn lẫm đấy, mặc sức. Cánh đàn bà vào hộ một tay với chị em Velaug, chụm năm chụm bảy nói cười râm ran. Trẻ con nô giỡn hò hét khản cổ, chạy xuôi chạy ngược đuổi bắt nhau. Mấy ai nghĩ đang khi đó Eilif đáy lòng quặn xót khóc mẹ. Trong cơn uất giận hắn lục rương tìm cho ra cây vĩ cầm ngày trước, chỉnh lại dây đàn. Ngón nghề của hắn sau hơn hai mươi năm chẳng mảy may trầm một, như trở bàn tay hắn trổi lớp lớp thinh ba đầy một trời, thoạt chồm lên cuồng khích thoạt xoáy vận quần quã. Âm giai uốn lượn, rực rỡ điên loạn như lửa cháy tràn đồng. Lửa cháy rần rật cho tinh chương chiêm bái huyết bồn. Eilif đau nhức phát diếu theo độ rung của dây đồng, hắn gượng hơi men thoát linh hồn. Trong triêm túy hỗn mang xác thân đọa đày hóa kiếp khôn cùng. Hắn réo rắt xoải cánh bay bổng tầng côi thách thức hồng đào thiên sứ, hắn trầm mình chìm sâu đáy vực nhạo báng âm binh thần trùng. Hắn nỉ non than vãn, hắn gào thét oán hờn và thiên đàng hỏa ngục đảo ngược. Đàn họa phù mê hoặc đám trai gái, từng cặp từng đôi đánh vòng quanh đống lửa cùng quay tít con trốt theo vũ điệu hừng hực sức sống man dại. Đàn xô họ mỗi lúc một xoắn chặt vào nhau làm một, quýnh lên liễn bước, nhạp bỏ vóng và suồng sã nhập đồng; họ thất đảm cười ngất ngưởng, cứ thế họ xoay mòng xoay mòng theo cung bậc sai môi. Đàn xấm xát quá tước, thuông đuổi ngày đi gọi đêm về lăng loàn bao che cho da thịt đang cơn xăng bồng đĩ thõa. Chẳng ai để ý gió vào thu thổi nhá nhem mặt đất, trời xanh thẫm bất chợt se mình thâu ngắn màu xanh. Chẳng ai để ý Lavran ngồi lầm lì nơi ngưỡng cửa, một mình một ché uống tì tì.
– Mày rót tao với.
Lavran lặng lẽ rót cho cha, rót cho mình. Sjur nốc cạn bát rượu.
– Tao biết, Lavran à, song tao như người cha trong Kinh Thánh đấy thôi. Nó cũng là con tao đẻ ra, nó bỏ đi ruột tao đứt khúc, mẹ mày nằm giá khóc con bao năm giời không sống nổi đến ngày nó trở về. Chúa định làm vậy nào ai cãi được. Tao lỏm thỏm tuổi đã sáu mươi, tao chỉ mong sao có bề gì mày sẽ không bao giờ khước từ thằng Eilif miếng cơm bát nước. Nó là đứa em một mẹ mày mang nặng lá nhau, đừng ruồng rẫy nó mà phải tội. Hãy để nó cùng hưởng hoa trái do mày đổ mồ hôi làm ra cũng như cơ nghiệp hai tay tao khai tạo nên chúng mày được nhờ. Cái ngày nó bỏ theo lão Ulf, mày nhớ lão già quái đản ấy không, đấy, đêm tao nằm vắt tay lên trán suy nghĩ mãi, trời sáng tỏ mặt người tao quyết định đi gặp quan thủ bộ trên huyện lập di chúc, đất đai của cải để tên mày hết. Trừ mấy mẫu ruộng thục cho Herdis sau này làm của hồi môn, cộng phần giá trang mẹ mày sắm sửa cho nó ngày trước, còn tất cả thuộc về mày. Tao cho mày luôn cái thẩu vàng tao chôn dưới viên táng cái lẫm ấy. Với số vàng này mày dư sức tậu thêm gia sản lớn gấp ba gấp năm lần hiện giờ. Rót tao miếng nữa.
Sjur khà một tiếng, rượu cay xoạc cổ.
– Mày hứa tao đi, Lavran, hứa đừng bao giờ để em mày túng đói, đừng mặc nó chết bờ chết bụi như con chó vô chủ. Chúng mày anh em ăn ở thuận hòa thì đấy là Thiên Chúa chúc phúc cho dòng dõi tông đường nhà này. Mày hứa đi.
Lavran nghẹn ngào :
– Vâng, con hứa.
Sjur cười hể hả, chìa bát :
– Uống nữa đi, Lavran ! Uống mừng em mày chết nay sống lại. Thiên Chúa hằng sống và là nguồn ban sự sống vậy, amen ! Tao với mày đêm nay uống cho bằng thích. Ha ha, Lavran này, mày xem thằng bố mày có chìm xuồng trước không nào.
Velaug rảnh tay khẽ đến ngồi bên chồng, cái thai trong bụng dẫy đạp khiến chị nhăn mặt. Sjur vui sướng nâng bát, lần này chúc tụng cả tổ phụ Abraham, thân danh ngài cả sáng. Trời đã tối hẳn. Đêm thăm thẳm một trời huyền hoang không tuổi. Đêm còn dài. Ngoài sân lửa chạm bóng vẫn bập bùng uốn mình nhảy múa, và thanh âm khốc tử từ cây vĩ cầm của Eilif không ngừng bỡn cợt triêu dụ yêu ma.
Uống rượu với cha thâu đêm thế mà bẩng tinh đã thấy Lavran ra đồng, non trưa Herdis thắng xe đem cơm cho anh. Bấy giờ nơi buồng nhà Eilif giật mình tỉnh giấc, mồ hôi ra ướt lưng áo, tim đánh bắc cấu thùm thụp liên hồi nhồi máu khiến ngực hắn thắt ngẵng. Hắn vật dựa duỗi mình, miệng nhăm nhẳm quyến ngạc mộng cấu uế, thần phách hắn giậm bẩy muốn té hen ra ngoài. Eilif thở nhọc nhằn, cố ngoi đầu khỏi vũng nê tri. Hắn sực níu lấy dấu Thập Giá xin sự bình an, và bình an đem trả cho hắn tiếng chân những người ruột thịt ra vào ở bên kia tấm diềm chắn cửa, món khoai nấu thuôn đang lục bục sôi trên bếp và bánh mì nóng đầu mùa. Cả một không gian no ấm thân quen từ gian bên lan tỏa, lan đến bên áo gối. Quãng đời của ký ức đã bắt kịp thời khắc đang báo trưa qua khung màn cửa sổ. Nhạc thơm hương báu thuở thiếu niên vô nhiễm lúc này đây chắt cốt từ tim lại càng tinh khôi sáng láng, đồng hoa nội biếc ở xa kia quá vãng thì mênh mông vô tận, và lòng tin yêu son ấu giờ cùng hiển thánh. Quả tình cuộc sống lưu lạc đã khiến Eilif cằn cỗi. Hắn đã háo hức lao vào thời cuộc, hung ngu của văn minh, ma nương của siêu cường, nghênh ngáo táo tợn đem xỏ dàm sơn tinh thủy quái mà cưỡi lên lưng, trướng mạc binh khí trong tay đi khai hoang phục hóa. Hắn ngờ đâu mộng mã thượng phong lưu qua lửa lò cừ cháy rụi, chỉ một thoảng đã ra tro. Nhưng hai tay hắn đã vấy máu, và những oan hồn trái chủ không ngớt thét la truy áp. Eilif đau nhức trở mình, thân thể hắn mỏi nhừ. Hai mươi năm hắn mang trĩu cổ, cái khoằm vặn nài đứt nhịp thở, bẻ óng đến tắt mạch tim. Hắn nhắm nghiền mắt, tưởng chừng thấy được dáng mẹ đi lại ở gian ngoài. Đẻ ơi, con đói rồi. Eilif nấc lên từng chập gọi mẹ. Chốn lâm bô hắn sẽ phải lết cho hết kiếp này mới thôi.
*
Mấy hôm rồi gió tây bắc về xám ngắt trên những thửa ruộng để ải. Lọng đầm lầy bãi trũng cỏ lau trổ bông trắng xóa chờ chết. Trên rừng hoàng đằng, đồng châu, phong, sồi, vạng từ lâu đã trụi hết lá, núi đen từng vạt một trơ cành khẳng khiu kham nhẫn dọn mình đợi tiết đông. Đồng hoang sim muồng chín quả tím biền biệt đến quạnh hồn. Sjur Tharandsen lúi húi giẫy mả, mộ Eilif mới lấp nằm bên mẹ. Chuông nhà thờ huyện đổ hồi báo hiệu lễ chiều, tiếng chuông xóa nhòa thời gian trong nghĩa trang hoang tịch, những bia đá rêu phong hàng lối thứ tự nghiêng chầu Chúa Cứu Thế trên khổ giá. Sjur đứng dậy từ tốn phủi gối quần, khép lại vạt áo. Đông về ngày tối vội. Sương bay là là trắng mặt đất. Lối cỏ qua sân nhà xứ ngai ngái ẩm mục. Quạ đen đậu cây tần bì đập cánh phần phật, quang quác gọi đêm. Đã đến giờ dương thế để ngỏ cho vong linh từ cõi âm u có nẻo về. Sjur quỳ trên nền đá lạnh buốt ở cuối thánh đường, chắp hai tay đọc kinh sám hối cho Eilif, cho chính mình. Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được. Khi xưa Chúa thương Đức Mẹ khóc con trên hình giá, thì rày xin Chúa đoái hoài kẻ tôi tớ Chúa nhìn con chết treo trên xà nhà. Nó về để rồi chỉ một tháng sau nó lấy thừng kết liễu đời nó. Lạy Chúa tôi!
Sjur Tharandsen gục đầu khóc nức nở.
Herre, min Gud!
Đào Vũ Hoài
Các thao tác trên Tài liệu