Bài hát chính tôi - Bài hát mọi người
130 năm Walt Whitman qua đời (1892-2022)
BÀI HÁT CHÍNH TÔI – BÀI HÁT MỌI NGƯỜI
Hoàng Hưng
Cuộc đời và sự nghiệp của tác giả Song of Myself (Bài hát chính tôi) đã quá quen thuộc với người đọc thơ Việt Nam, tôi chỉ xin tóm lược vài câu. Walter "Walt" Whitman (31/5/1819 – 26/3/1892) là nhà thơ, nhà luận văn và nhà báo Mỹ, song được biết đến chủ yếu là nhà thơ. Được gọi là “American bard” (bard: người sáng tác và trình diễn sử thi cổ đại), ông là người mở ra thứ thơ thực sự Mỹ, tách khỏi truyền thống thơ Anh của cựu thế giới, cũng là cha đẻ của thơ tự do không vần Mỹ, là người có ảnh hưởng lớn nhất đến thơ Mỹ trong suốt một thế kỷ, ảnh hưởng đó còn đậm nét đến tận Allen Ginsberg giữa thập kỷ 1950.
Whitman từng làm nhiều nghề: làm báo, dạy học, làm viên chức chính quyền…, từng làm y tá tình nguyện trong nội chiến Mỹ. Tập thơ quan trọng nhất của ông, Leaves of Grass (Lá cỏ) được xuất bản lần đầu vài trăm bản vào năm 1855 bằng tiền túi của tác giả. Tác phẩm này được ông mở rộng và sửa chữa không ngừng cho đến lúc chết. Khởi đầu là một nhà thơ không mấy ai biết, khi qua đời ở tuổi 72 đám tang ông đã là một sự kiện của công chúng.
Các nhà nghiên cứu văn học từ lâu đã kết luận: muốn hiểu nước Mỹ, không thể bỏ qua Leaves of Grass (Lá cỏ) của Walt Whitman.
(ảnh Internet)
Song of Myself (Bài hát chính tôi) được coi là bài thơ tiêu biểu của cả tập Lá cỏ, về cả tư tưởng, nội dung lẫn bút pháp.
Có tựa đề là Bài hát chính tôi, nhưng tác phẩm không phải là khúc hát trữ tình riêng tư về bản thân tác giả, mà có tham vọng trở thành thiên sử thi của người Mỹ đương thời, nên thoạt tiên nó đã được tác giả đặt tên là Poem of Walt Whitman, an American (Bài thơ về Walt Whitman, một người Mỹ).
Qua cả ngàn câu thơ vừa tả thực đến chi tiết vừa phóng tưởng đến kỳ thú, vừa kể chuyện vừa rao giảng luận bàn nhiều mặt rất đa dạng rất khác biệt thậm chí đối nghịch của đời sống và con người Mỹ ở nửa trước thế kỷ 19, thiên sử thi này muốn trả lời câu hỏi: Là người Mỹ có nghĩa là gì? (What does it mean to be American?)
Nhà nghiên cứu lịch sử văn học Betsy Erkkilä nói đến “tấn kịch về căn tính” trong bài thơ trên “bắt rễ trong tấn kịch chính trị của một quốc gia đang khủng hoảng”, hàm ý những căng thẳng về chế độ nô lệ, về nữ quyền, về sự phục sinh của tôn giáo và tự do yêu đương đang lan ra khắp nước Mỹ khi Whitman viết Song of Myself.
Ta sẽ thấy tác giả bàn về những chủ đề này trong những đoạn khác nhau của bài thơ. Nhưng trước hết, hãy coi người Mỹ được Whitman phác họa một cách thật cô đọng thế nào?
Kẻ
hoang dã thân thiện và luôn biến
đổi kia, anh là ai nhỉ?
Anh
đang chờ đợi văn minh hay đã
vượt qua và làm chủ nó rồi?
Tác giả hỏi mà đã trả lời: Do hoàn cảnh rất đặc thù, người Mỹ lúc lập quốc là sự kết hợp giữa con người “hoang dã” (thổ dân Da Đỏ và những người Âu khai phá miền Tây) với con người “văn minh” (ở những bang miền Đông như vùng New England, nơi nền văn minh cựu lục địa châu Âu được người di cư mang qua). Và con người ấy “luôn biến đổi” trong điều kiện một quốc gia đang biến động không ngừng trong quá trình hình thành.
Có lẽ đặc điểm hình thành ấy của dân tộc Mỹ tạo nên tính cách đầu tiên dễ nhận thấy ở con người Mỹ: Tự Do phóng túng.
… Cư
xử phóng túng như tuyết rơi, lời
lẽ đơn sơ như cỏ, tóc không
chải, ngây thơ cười váng,
Hai
chân bước đi chầm chậm, dung tục
từ dáng vẻ, cung cách đến tinh
thần không khí toát ra.
Bài
hát chính tôi là
một trong những tráng ca lớn nhất của
Con người Tự Do trên trái đất
này, được viết bằng thể thơ
Tự do không vần với hơi thơ tung
hoành, hùng tráng như gió ngàn,
sóng biển, lại nhiều chỗ uy nghi như
Thánh Kinh.
Con người Tự Do không chấp nhận bất cứ quy tắc, tín điều có sẵn nào, chỉ chịu “dung chứa tự nhiên”:
Những
tín điều và lời dạy tạm
thời gác lại,
Chỉ
ngoái xem một lát, biết chúng là
gì, nhưng cũng chẳng hề quên,
Tôi
dung chứa tự nhiên mặc lòng hay dở,
Tôi
cho phép tự nhiên được tự do
lên tiếng,
Ngẫu nhiên
và bất cứ lúc nào, với năng
lượng bản nguyên
không thích hương thơm pha chế nào, chỉ yêu có khí trời:
Không
khí mãi mãi dành cho miệng tôi,
tôi yêu không khí
Tôi
sẽ đi qua rừng ra bờ sông và cởi
trần chẳng chút hoá trang
Mê
mẩn khí trời ấp vào da thịt.
Thiên
nhiên là quê hương, là mái
nhà, là ngôi đền thiêng của
Con người “hoang dã”.Với riêng
người viết bài này, những dòng
thơ say đắm, quyến rũ nhất trong Bài
hát chính tôi là
những dòng miêu tả tình yêu
mãnh liệt của tác giả với thiên
nhiên. Bạn đã từng đọc,
nghe, xem thấy ở đâu cảnh làm
tình cuồng nhiệt giữa con người
với đêm hè, với đất, với
biển như ở đây?
Hãy
siết chặt vào hỡi đêm trần
ngực – hãy siết chặt vào hỡi
đêm quyến rũ và
nuôi
sự
sống!
Đêm
của những ngọn gió nam – đêm
của vài ngôi sao lớn!
Đêm
luôn
thuận tình – đêm hè trần
trụi mê điên.
Hãy
mỉm cười đất ơi hơi thở
mát của
em cho
ta khoái lạc!
Đất
của cây cối dịu dàng đang ngủ
thiu thiu!
Đất
của tà dương đang
giã
từ – đất của mù sương
đỉnh núi!
Đất
của trăng rằm trút ánh thủy tinh
vấy nhẹ màu lam!
Đất
của sóng sông dâng lung linh sáng
tối!
Đất
của những làn mây xám trong càng
sáng rõ vì ta!
Đất
có vòng tay với thật xa – đất
giàu có rộ mùa hoa táo!
Hãy
mỉm cười, vì người tình của
em đã tới.
...
Em
biển! Ta cũng xin
phó thác cho em
– ta đoán biết điều em muốn
nói,
Từ
bãi biển ta ngắm nhìn những ngón
tay cong mời mọc của em,
Ta
tin rằng em sẽ chẳng ra về mà không
cảm nhận về ta,
Chúng
mình phải cùng nhau lộn một vòng,
ta cởi đồ đây, hãy mau đưa
ta ra xa khuất đất,
Hãy
đỡ ta êm ái, hãy ru ta ngủ trên
sóng chập chờn,
Hãy
ném ta với ướt át ái tình,
rồi ta đáp lại.
Biển
sóng cồn từ dưới đáy dâng
cao,
Biển
thở bao la những hơi hổn hển,
Biển
mặn mòi sự sống và những nấm
mồ chưa đào nhưng luôn sẵn,
Hú
gào và múc lên bão tố, biển
đồng bóng và dễ thương,
Ta
là một với em tất cả, ta cũng là
một kỳ và mọi kỳ của em.
Con người Tự Do và gần gũi tự nhiên là con người giàu bản năng sống.
Con người ấy rất “duy thực” (realist), tin vào các “vật” (things), vào giác quan, vào xác thịt hơn là tin vào những thứ siêu hình:
Tôi
tin ở xác thịt và những ham mê,
Nhìn,
nghe, cảm, là những phép lạ, và
mỗi phần và mỗi phân của tôi
là một phép lạ.
... Mọi chân lý chờ ta trong mọi vật
...
Luận
lý và bài giảng kinh chẳng bao giờ
thuyết phục,
Hơi
ẩm của đêm thấm sâu hơn vào
tận hồn ta.
... Một nhánh bìm bìm trên cửa sổ thoả mãn tôi hơn những siêu hình sách vở.
Và như thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều lúc tác giả đốt nóng người đọc trong không khí phừng phừng tính dục bởi mãnh lực yêu đầy Nam tính của ông. Không nói đến những trang được/ bị coi là quá táo bạo biểu hiện tài tình những xen đê mê hư hư thực thực của cuộc tính giao (có thể là đồng giới), hãy chỉ nói đến điện năng từ con người ông truyền ra cảnh vật làm cho toàn bộ thiên nhiên được tính dục hóa. Với ông, “bản năng gốc” của thiên nhiên chính là sinh sôi, là truyền tiếp sự sống vĩnh hằng.
...
Hãy
đâm thúc, đâm thúc và đâm
thúc,
Luôn
luôn có sự đâm thúc sản
sinh của thế giới này.
...
Đôi thứ tôi không nhìn thấy
được làm dựng lên những
chiếc ngạnh dục tình,
Những
biển nước dịch sáng ngời trời
cao ướt đẫm,
Đất
ở với trời, cái thường ngày
gần sát chỗ nối nhau,
...
Bên lề đường, những mầm non
bắt rễ và tích tụ nhanh, đầy
sức sinh sôi và sức sống,
Những
phong cảnh được phóng chiếu đầy
nam tính, lớn hết cỡ, huy hoàng.
Chỉ tôn thờ Sự Sống Thực từ những thứ nhỏ bé, tầm thường nhất, “Con bò mộng và con bọ nhỏ không bao giờ được thờ phụng đủ tầm, Phân bò và bùn đất đáng ngưỡng mộ hơn là trong mơ tưởng”, con người Tự Do không phủ phục dưới chân một đấng thánh thần nào, mà tự thấy thần thánh trong bản thân mình:
Tôi
thần thánh bên trong và bên ngoài,
và tôi thiêng hóa bất cứ gì
tôi chạm vào hay được ai chạm
đến,
Mùi
hương nách này thơm hơn kinh cầu
nguyện,
Cái
đầu này hơn các nhà thờ,
kinh thánh, và mọi tín điều
...
Cái
siêu phàm chẳng đáng gì, chính
ta đang đợi thời của ta để làm
một bậc siêu phàm,
Ta
sắp sẵn sàng cho ngày mình làm
ra kỳ tích ngang những vị cao siêu
nhất và phi thường không thua họ.
Đối mặt với thiên nhiên là như thế. Còn đối với xã hội?
Con người Tự Do coi khinh các “quí ngài” trong xã hội, kêu gọi sự “nổi loạn”
Từ
ngữ của tôi ít nhắc nhớ đến
tài sản quí ngài,
Mà
nhắc nhớ cuộc sống mở toang, đến
tự do và giải thoát,
Và
ít quan tâm những kẻ vô tính
hay bị hoạn, mà ưu ái những đàn
ông đàn bà đầy đủ quan
năng,
Và
nổi tiếng cồng nổi loạn, và dừng
lại bên người đào tẩu và
những ai ấp ủ mưu đồ.
kêu gọi sự giải phóng khỏi mọi khuôn khổ:
Tháo
tung khóa ra khỏi cửa!
Tháo
tung cửa ra khỏi rầm!
phá hết mọi kiêng kỵ, cấm đoán:
Qua
tôi những tiếng nói bị cấm,
Tiếng
nói của giới tính và hoan lạc,
những tiếng nói bị che đậy và
tôi cất bỏ màn che,
Những
tiếng nói sỗ sàng được tôi
làm thành sáng trong và đẹp
đẽ.
Tôi
không đặt ngón tay lên miệng,
Tôi
cưng quý lòng mề ngang với đầu
óc và trái tim,
Việc
giao cấu tôi chẳng thấy hôi hám
gì hơn cái chết.
Con người Tự Do cũng là con người tự khẳng định cái “Tôi”.
Tham vọng là sử thi của mọi người Mỹ, nhưng Bài hát chính tôi không lấy cảm hứng từ một “Nàng Thơ” cổ điển hay lãng mạn, mà lấy Chính Mình làm Nàng Thơ.
Hiên ngang xưng tụng cái “Tôi”, Bài hát chính tôi luôn luôn tận dụng cơ hội xưng danh “Tôi” và “của Tôi”, khẳng định cái của tôi là đáng yêu nhất, đáng mê nhất:
Đã
xục tìm qua những vỉa tầng, phân
tích đến chân tơ kẽ tóc,
tham vấn các đốc tờ và tính
lâu toán kỹ,
Tôi
thấy ra không miếng mỡ ngọt ngào
nào hơn thứ dính vào xương
của chính mình.
...
Tôi
mê mẩn chính mình, có nhiều
thứ của tôi và tất cả quá
chừng khêu gợi
cũng như luôn lặp lại cái ý: chân lý phải được mỗi người nghiệm sinh từ chính mình và cho chính mình.
Anh
sẽ không còn lượm những gì
đã qua tay người khác, cũng không
còn nhìn bằng mắt người đã
chết, cũng không còn nuôi mình
bằng những bóng ma trong sách,
Anh
cũng sẽ không nhìn bằng mắt của
tôi, cũng không lượm những gì
từ tay tôi,
Anh
sẽ nghe mọi phía và lọc chúng
từ bản thân anh đó.
Song
những ai quen ác cảm với cái “Tôi”
(Cái Tôi là đáng ghét –
Blaise Pascal), với “chủ nghĩa cá
nhân”, xin chớ vội vàng lên án!
Câu đầu tiên của Bài hát chính tôi giống như một định đề:
Tôi
ca tụng chính mình, và hát chính
mình,
Điều
tôi tin thì anh cũng tin, điều tôi
nhận thì anh cũng nhận,
Vì mỗi
nguyên tử thuộc về tôi cũng thuộc
về anh
Định đề này chứa đựng một biện chứng. Thoạt tiên nó khẳng định “Cái tôi”, giống như tựa đề bài thơ đã khẳng định “đây là bài hát của/về chính tôi”, bài hát của/về “cá nhân”, thấm đẫm tinh thần “cá nhân chủ nghĩa”. Để rồi khẳng định tiếp ngay: “tôi” cũng là “anh”, “của tôi” cũng là “của anh”, “tôi” là “ta”, là “mọi người”.
Bài hát chính tôi là một hành trình liên tục đi ra ngoài Tôi - đi vào trong Tôi. Không chỉ hòa lẫn cùng đám thợ săn trên rừng, đoàn thủy thủ ngoài khơi, tham dự mọi cuộc lao động và vui chơi khắp đất nước, tác giả còn nhiều lần đồng nhất mình với người vợ khóc chồng, người lính tử trận, người nô lệ bị săn đuổi, kẻ ăn mày “ngồi xượng mặt và xin”…
Tình Bằng hữu cũng thấm đẫm từng trang của Bài hát.
Anh
thợ máy trẻ tuổi gần gụi tôi
nhiều nhất, anh rất hiểu tôi,
Người
thợ rừng mang rìu và bình sẽ
đem tôi theo suốt buổi,
Cậu
bé nhà nông cày đồng thấy
vui khi nghe tiếng nói tôi,
Trên
các tàu thuyền ra khơi lời tôi
cũng giong buồm, tôi đi với thủy
thủ, ngư dân và yêu họ.
Người
lính đang cắm trại hay hành quân
là người lính của tôi,
Đêm
trước trận đánh nhiều người
đến tìm tôi, và tôi không
quên họ,
Đêm
uy nghi (có thể là đêm cuối cùng
của họ), những ai biết tôi sẽ đến
tìm tôi.
Mặt
tôi áp mặt người thợ săn khi
anh nằm xuống một mình trong tấm chăn,
Người
lái tàu nghĩ đến tôi sẽ
không để ý toa tàu đang xóc,
Nhiều khi ta không phân biệt được trong sự giao cảm bằng da thịt rung lên ở những câu thơ nồng cháy là thứ tình tính dục hay tình huynh đệ, hay đơn giản là tình người với người, đàn ông với đàn bà, đàn ông với đàn ông.
Đây
là cái áp tay rụt rè, đây
bồng bềnh và hương tóc,
Đây
cái chạm môi tôi vào môi bạn,
đây tiếng thầm thì thương
mến,
Đây
chiều sâu thẳm và cao vời từ xa
phản chiếu gương mặt tôi,
Đây
sự hợp nhất thâm trầm của chính
tôi và lại là lối thoát ra của
chính tôi.
Rút cuộc, bài hát chính tôi lại là bài hát về mọi người, của mọi người.
Và
họ qui nhập vào tôi, và tôi
hướng ra ngoài tới họ,
Họ
vốn là như thế, ít nhiều tôi
là họ,
Và
với mỗi người và tất cả tôi
dệt nên bài hát chính mình.
Trong
mọi người tôi thấy chính tôi,
không hơn và không kém mảy may,
Và
điều hay hay dở tôi nói về chính
mình là tôi nói về họ.
Whitman rất ý thức về sự hài hòa “cái một” (the one) và “cái nhiều” (the many). Ông đặt câu hỏi: “Ai cần sợ sự hòa trộn kia chứ?” Câu hỏi là một thái độ trước hiện trạng đa sắc tộc, đa văn hóa của dân tộc Mỹ đang còn là mối băn khoăn của không ít người Mỹ thời đó. Ông khẳng định tinh thần bao quát mọi khác biệt của mình, qua một câu như tranh biện với ai đó:
Tôi
có mâu thuẫn với chính mình?
Hay
lắm, vậy thì tôi mâu thuẫn với
chính mình,
(tôi
rộng lớn, tôi chứa đựng ngàn
điều khác biệt).
Whitman đã được mệnh danh là “Nhà thơ của sự Hoà trộn” (The Poet of the Merge).
Cái “Tôi” của Whitman không chỉ “trương nở” ra cả xã hội Mỹ, nó còn mở rộng đến toàn bộ sinh giới. Whitman thấy mình là đồng loại với mọi loài vật mang dấu vết của quá khứ mình, ông coi mình là người anh em của chú ngựa giống.
Vô
hạn và chứa trong mình mọi giống
loài, tôi đồng loại giữa lòng
bọn chúng,
Chẳng
đặt mình quá cao hơn những kẻ
tìm được về ký ức của
mình,
Chọn
ra một kẻ mình yêu, và bây giờ
đi với nhau trong tình huynh đệ.
Không dừng ở đấy, Whitman còn truy nguyên cái “Tôi” của mình về tận thời điểm Hư Không khi vũ trụ mới sinh thành (mà giờ đây ta gọi là thời điểm Big Bang), khẳng định nó là tựu thành của cả một quá trình tiến hóa vô cùng vô tận:
Những chu
trình đưa đẩy chiếc nôi tôi,
chèo và chèo như người lái
đò vui vẻ,
Dành chỗ
cho tôi những vì sao tránh ra ngoài
quỹ đạo của chính mình,
Chúng dùng
ảnh hưởng của mình để chăm
nom cái chứa đựng tôi.
Trước
lúc mẹ sinh ra tôi đã có nhiều
thế hệ thay nhau dẫn dắt,
Bào thai
tôi không bao giờ ngủ lịm, không
gì có thể phủ lên.
Vì bào
thai tôi mà đám tinh vân kết
thành thiên thể,
Những địa
tầng từ lâu chầm chậm xếp cao dần
đỡ nó nghỉ bên trên,
Những cây
cỏ khổng lồ cho thức ăn nuôi sống,
Những con
bò sát quái lạ tha nó đi trong
miệng và cẩn thận đặt nó
dưới chân.
Mọi lực
lượng đã được sử dụng
không ngừng để hoàn thiện tôi
và làm tôi vui sướng,
Bây giờ
tôi đứng đây với tâm hồn
tráng kiện của mình.
Cho nên cái “Tôi” của ông là cái tôi bất diệt qua “vạn lần chết” và “tái sinh”. Trong lời chia tay người đọc, tác giả Bài hát chính tôi nhắn nhủ rằng:
Tôi
di sản chính mình cho đất để
mọc lên từ đám cỏ tôi yêu,
Muốn thấy
lại tôi hãy tìm tôi dưới
gót giày của bạn.
Cái “Tôi” vừa mang tính cá nhân vừa mang tính phổ quát như thế không phải sáng tạo riêng của Whitman. Nó có cơ sở tư tưởng là thuyết siêu nghiệm (transcendentalism), một học thuyết phổ biến ở vùng bắc nước Mỹ vào những thập kỷ 20 và 30 thế kỷ 19… Các nguyên lý của thuyết này không dựa trên physical experience (kinh nghiệm của khoa học tự nhiên/ của thể xác) mà bắt nguồn từ nhận thức mang tính tâm linh sâu xa về bản thể người.
Thuyết siêu nghiệm cho rằng xã hội và các thiết chế của xã hội rút cuộc đã làm băng hoại sự thuần khiết của cá nhân. Rằng con người đạt tới chỗ cao đẹp nhất khi thực sự “tự trông cậy vào chính mình” và độc lập với mọi thứ bên ngoài mình. Ralph Waldo Emerson, nhà thơ thủ lãnh của phong trào siêu nghiệm đã viết: “chúng ta sẽ bước đi trên đôi chân của chính mình; chúng ta sẽ làm việc với đôi tay của chính mình; chúng ta sẽ nói lên tâm trí của chính mình… một quốc gia của những con người sẽ lần đầu tiên hiện hữu, vì mỗi người tự mình tin rằng mình được truyền cảm hứng bởi Thần Hồn (Divine Soul) mà Thần Hồn cũng truyền cảm hứng cho mọi người” (Diễn từ 1836).
Thuyết siêu nghiệm tin rằng tất cả mọi người đều có trong mình một phần của “Đại quát hồn - Over-soul”, tức Thượng đế. “Đại quát hồn” là một, nên nó kết hợp mọi người làm một hiện hữu.
Là người Việt Nam có truyền thống Phật giáo ngàn năm, ta không hề ngỡ ngàng với triết lý ấy, bởi thực ra thuyết siêu nghiệm Mỹ đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của các tôn giáo Ấn Độ.
Trước hết là quan hệ giữa “cái Tôi” cá nhân với “cái Ta” vũ trụ phổ quát, quan hệ “Tiểu ngã – Đại ngã” của tư tưởng Ấn giáo.
Cái “Tôi”, cái “Chủ nghĩa cá nhân” không hề đồng nghĩa với sự riêng tư ích kỷ, nhỏ hẹp, nói cách khác, không có sự phân biệt cái “tôi” và cái “không-tôi”. Một khi đã không còn phân biệt cái tôi và cái không-tôi, tất sẽ đạt đến tinh thần “không phân biệt”, một tinh thần cốt tủy của Phật giáo.
Bài hát chính tôi nói rất nhiều về sự không phân biệt. Không phân biệt Linh hồn - Thể xác, Đất – Trời, không phân biệt Tốt – Xấu, Thiện – Ác, Cao cả - Thấp hèn, không phân biệt Sống – Chết, Thắng – Thua…
Điều đó cũng có nghĩa là khẳng định quyền bình đẳng của mọi thực thể trong hoàn vũ:
Tôi
tin một lá cỏ không nhỏ hơn hành
trình của tinh tú,
Và
cái kiến cũng hoàn hảo như hạt
cát, như trứng chim di,
Và
chú nhái bén là kiệt phẩm cao
vời nhất,
Và
cây mâm xôi bò lan làm đẹp
sảnh thiên đường,
Và
khớp xương nhỏ nhất của bàn
tay tôi dám khinh thường mọi cỗ
máy,
Và
chị bò cái cúi đầu gặm cỏ
vượt trên pho tượng bất kỳ,
Và
con chuột là phép màu đủ làm
bối rối tỷ ty người không tín
ngưỡng.
Khẳng định sự không phân biệt, khẳng định quyền bình đẳng là chống lại sự phân biệt, sự bất bình đẳng đã thành truyền thống nghìn năm trong xã hội do giới thượng lưu thống trị. Whitman luôn xác định “đứng về phe” bị truyền thống rẻ rúng, coi khinh:
Cái gì
tầm thường nhất, rẻ mạt nhất,
gần gụi nhất, dễ dàng nhất, đó
là Tôi
...
Qua tôi nhiều tiếng nói từ lâu
câm lặng,
Tiếng
nói của bất tận những thế hệ
nô lệ và người tù,
Tiếng
nói của những người bệnh và
những người tuyệt vọng, của kẻ
trộm và người lùn,
Tiếng
nói của những chu kỳ sửa soạn và
lớn dậy,
Và
của những đường dây nối với
sao trời, của dạ con và tinh khí
người cha,
Và
của các quyền của những người
bị kẻ khác nhảy lên lưng,
Của
kẻ dị dạng, tầm thường, tẻ
nhạt, khùng khùng, bị rẻ rúng,
Sương
trên trời cao, bọ hung se bãi phân bò.
Bài hát chính tôi được viết trước khi xảy ra cuộc nội chiến Bắc-Nam do mâu thuẫn quan điểm về chế độ nô lệ; thái độ của tác giả về vấn đề này không thể rõ ràng hơn qua những trang viết đầy cảm thông đối với người nô lệ da đen trốn chạy lên phía Bắc, đầy trân trọng đối với anh da đen đánh xe chở đá – một người lao động tự do, tự tin, mạnh mẽ với vẻ đẹp mà ông công khai ngưỡng mộ:
Người
da đen đánh xe từ xưởng đá,
vững vàng cao lớn, đứng thăng bằng
một chân trên thanh gỗ nằm ngang,
Chiếc
sơ mi xanh phơi cần cổ bạnh bộ ngực
to lỏng khuy tới rốn,
Ánh
mắt chỉ huy bình thản, anh hất vành
mũ cong lộ ra vầng trán,
Nắng
đổ xuống tóc râu quăn tít,
xuống màu đen hai cánh tay hoàn hảo
bóng như gương.
Bài hát chính tôi luôn nhấn mạnh đến những con người bình thường. Nhiều đoạn thơ, trong đó có đoạn dài nhất (Đoạn 33) là sự mô tả cụ thể, chi tiết các cảnh sinh hoạt, lao động của nhiều loại người rất khác nhau từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc, từ rừng ra biển, từ thành thị tới thôn quê. Có thể coi đó là những khúc ca lao động đầy sảng khoái trong hình thức bản danh mục liệt kê (catalog) dường như có thể kéo dài mãi. Và tác giả xác định mình luôn đi trong“đám rước của mọi người bình thường, đám rước dài bất tận” ấy. Ông cũng khẳng định tiếng nói của mình, tiếng nói thời đại, là tiếng nói của Đại Chúng: “Và từ của tôi từ của thời hiện đại, một từ Đại Chúng”.
Ở đây ta thấy ảnh hưởng rõ rệt của Ralph Waldo Emerson, triết gia “Siêu nghiệm” đối với định nghĩa về Căn tính Mỹ. Theo Emerson, triết học Mỹ dựa trên khái niệm “cái thông thường” (the common). “Tôi không yêu cầu cái lớn lao, cái xa xôi, cái lãng mạn; cái đang làm ở Ý hay Arabia; cái là nghệ thuật Hy Lạp, hay nghệ thuật hát rong xứ Provencia; tôi bao quát cái thông thường, tôi thăm dò và ngồi dưới chân cái thân quen, cái thấp. Hãy cho tôi nhìn sâu vào ngày hôm nay, và bạn có thểcó được những thế giới cổ đại và tương lai” (The American Scholar (Học giả Mỹ). Cái thông thường, đại chúng được xây dựng đối lập với chủ nghĩa ưu tuyển (elitism) của văn hóa châu Âu.
Các nhà nghiên cứu đều thống nhất gọi Whitman là “Nhà thơ của nền Dân chủ”. Tác giả cũng tự khẳng định thơ ông chứa đựng “mật khẩu”, “dấu hiệu” của Dân chủ:
Tôi
nói câu mật khẩu ban sơ, tôi cho
dấu hiệu nền dân chủ,
Thề
có Trời, tôi sẽ không chấp nhận
bất cứ gì mà mọi người
không thể có cái tương đương
với mọi mặt tương đồng.
Từ “Dân chủ” chỉ được tác giả nói ra có một lần duy nhất ở câu thơ trên. Và Bài hát chính tôi không trực tiếp bàn về Dân chủ, nhưng nó rao giảng cho người đọc cơ sở triết lý, tư tưởng của Dân chủ. Điều thú vị là triết lý ấy lại có nguồn gốc sâu xa từ Ấn giáo, Phật giáo. Ta thấy dường như nghịch lý, Dân chủ xuất phát từ chỗ đề cao Cái Tôi, cái Cá Nhân; nhưng một khi mọi cái Tôi, mọi Cá nhân đều là Một, đều bình đẳng, không phân biệt (chứ không phải “ta là Một, là riêng, là thứ nhất” như Xuân Diệu từng tuyên bố do ảnh hưởng một thuyết duy ngã lãng mạn chủ nghĩa của Âu Tây), ta có Dân chủ đích thực. Ngược lại, khi nhân danh cái “Ta” mơ hồ để tiêu diệt cái “Tôi” cụ thể, kết quả sẽ chỉ là sự thống trị của một hoặc một nhóm Tôi bên trên tất cả cái “Ta” mơ hồ ấy.
Câu hỏi “Là người Mỹ có nghĩa là gì?” có thể chưa được Whitman cũng như dân tộc Mỹ trả lời đầy đủ vào thời đại của ông. Nhưng chắc chắn tinh thần Tự do – Dân chủ, chấp nhận những Khác biệt, đề cao Cá nhân trong sự hòa hợp với cộng đồng, ngay từ thuở lập quốc đã là những yếu tố chủ đạo hình thành và hoàn thiện căn tính Mỹ trong hơn 200 năm qua.
Ta cũng hoàn toàn có thể nói rằng: những nét lớn của con người Mới mà Walt Whitman khắc họa từ hiện thực nước Mỹ thuở ban đầu cộng với dự phóng đầy hoài bão của tác giả cũng ngày càng trở thành mẫu hình lý tưởng của cư dân cái Làng Toàn cầu hôm nay.
Hoàng Hưng
Thủy
Tiên, mép Bãi Dâu
4/7/2015
Nguồn: Bài đã in trong sách “Bài hát chính tôi” thơ Walt Whitman, Hoàng Hưng dịch, NXB HNV 2015. Tác giả vừa đăng lại trên FB của anh, và gửi cho Diễn Đàn.
Các thao tác trên Tài liệu