Bạn đang ở: Trang chủ / Sáng tác / Chạy qua miền hơi thở -- Lauf durch die Atemdomäne

Chạy qua miền hơi thở -- Lauf durch die Atemdomäne

- Lưu Thuỷ Hương — published 25/10/2021 12:00, cập nhật lần cuối 25/10/2021 22:26

Số đặc biệt Diễn Đàn 30 tuổi


Truyện ngắn song ngữ


Lưu Thuỷ Hương


Bản tiếng Việt

Chạy qua miền hơi thở



Chiếc xe tăng tốc vượt qua cây cầu dây bắt ngang thung lũng.

Bốn chiếc bánh cao su nhảy lóc cóc trên những tấm ván gỗ mục. Nhiều tấm hư hỏng rơi theo vòng quay của bánh xe, rơi mông lung xuống vực thẳm mù mịt.

Phía trước là đỉnh núi mù sương. Phía sau là màn mưa giăng xám ngắt. T thì thầm:

“Lạy Trời. Bên kia là vùng tự do.”

Sương tràn vào miệng cô, lạnh lẽo. Trên vùng cao thiếu dưỡng khí, cổ người teo lại như trái táo khô, da người hóa xanh xao như lá chuối non.

“Cố lên. Bên kia là vùng an toàn.”

T cố gắng kêu lên trong tiếng thở. H ngồi sau tay lái, không nói gì. Anh đang tập trung cho xe chạy lên những tấm ván mục. Cuộc săn đuổi sẽ đến hồi bi thảm. Hoặc là chúng kéo đến hủy diệt mạng sống của hai người. Hoặc là chiếc xe rơi xuống vực thẳm trùng trùng, mang theo hai mạng sống và ba cái xác chết.

L, V, A nằm trên băng ghế sau, đầu nghẹo qua một bên, miệng há hốc. Khi H cuống cuồng lái chiếc xe ăn cắp chạy đi, ba người này đã nhảy lên theo. Trong cơn hoảng loạn, chiếc xe tông sập cánh cổng trại đã được hàn kín, càn lên những cuộn dây kẽm gai. H bẻ tay lái, cho xe lao vào khu rừng dương sỉ rậm rạp. Vực thẳm bát ngát đột ngột hiện ra trước mặt. Nó ở đó từ bao giờ chờ nuốt trọn những mạng người trốn ra từ trại tập trung. Nó không đen như địa ngục mà lại trắng như sương. Cây cỏ, rong rêu bám hai bên bờ vách đá cũng trắng. Đá cũng trắng. Một màu trắng khủng khiếp.

H ra lệnh:

“Em cầm súng, quay lại phía sau, bắn vào bất cứ thứ gì chuyển động.”

T hiểu, mệnh lệnh này không chỉ nhằm vào bọn săn người mà còn nhằm vào V. Phải. V là kẻ từng quản thúc họ trong trại tập trung. Hắn từng có trong tay một trung đội chó săn, giữ nhiệm vụ canh gác và xử tử những kẻ chống đối. Nhưng những con chó dữ của V đã rơi vào tay bọn săn người. Từng con, từng con một. Rồi theo thời gian V cũng trở thành một phạm nhân bị giam trong trại tập trung, như những con người khác. Một phạm nhân bị cả trại giam căm ghét. Chủ của V đã quên hắn, bỏ mặc hắn trong đói khát.

Trong bóng đêm bọn săn người tràn vào trại tập trung. Chúng đến từng phòng, điểm mặt từng người. H kéo T chạy ra lối sau. Lối sau bị khóa kín. V thường khóa cổng sau vào ban đêm. H kéo T chạy ra lối trước. Lối trước đầy tiếng kêu gào than khóc. Hai người chạy loanh quanh mãi trong bãi sậy đầy cọc nhọn lởm chởm. Vải màn bay bay như mây.

Giờ đây, họ ở trong xe và bọn săn người đang ở phía sau. Chúng ráo riết lần theo dấu bánh xe.

Đầu tiên là A, cơ thể anh ta nóng lên, đôi mắt dại khờ. Sau đó, là L. Rồi đến V.

T lăm lăm cây súng, chĩa nòng về phía sau. Giữa sương mù dày đặc, khuôn mặt đau đớn của L, V, A hiện ra như những con nhện đói đeo trên chiếc màng tơ trắng. Họ đói lắm. Từ suốt một tuần nay họ kêu gào vì đói. Cả trại tập trung đều đói thảm thương. T chĩa nòng súng vào lưới nhện, bóp cò. Âm thanh nghẹn ngào rơi vào khoảng không. Tạch. Tạch. Súng không có đạn.

H bật chửi thề một tiếng rồi nói:

“ Đủ rồi.”

T nhìn sững cây súng. Nhãn hiệu nhà sản xuất hiện ra lờ mờ trên cây súng. Mắt T cay xè sau nhiều đêm không ngủ. Made in...

“Tại sao chúng ta phải sử dụng thứ vũ khí không có khả năng bảo vệ này?”

H nhếch môi cười căm phẫn:

“Vì bọn họ giao nó cho chúng ta. Không có sự lựa chọn nào khác.”

Tất cả thanh niên trong trại đều biết, những cây súng giao cho họ bảo vệ khu tập trung không hề có đạn. T cũng từng bị lùa đi. Cô bị buộc phải học cách sử dụng súng, học cách bắn vào khoảng không, học cách cúi đầu cảm ơn. Những cây súng to lớn hung hãn không giúp những người cố thủ trong trại giết được kẻ thù. Chúng không có khả năng bảo vệ. Nhưng chúng giúp mọi người an tâm, ít ra cũng còn một cái gì đó để bám víu, để lừa dối lẫn nhau. Để ngụy biện rằng, có còn hơn không. T lại nâng súng lên, bắn hoảng loạn vào khoảng rừng phía sau. Tạch. Tạch. Có súng, nhưng không có đạn.

Họ đã ra đến giữa thung lũng. Trong làn sương trắng xóa, T nhìn thấy những mái nhà tôn bên dưới. Nhà xếp hàng hàng lớp lớp, thân thuộc lạ lùng. Kia là đầu ngõ mỗi sáng đầy quán hàng rong. Con mèo xám của chú Năm ngồi trên cổng đình, kêu meo meo. Chỗ bức tường có cái đu đong đưa theo gió là nhà trẻ. T nghẹn ngào kêu lên. Cô từng ở đó từ thứ hai đến thứ sáu, ca hát với tụi con nít. Bây giờ cửa lớn, cửa nhỏ đều đóng im ỉm. Tất cả các cánh cửa trong con hẻm đều đóng kín. Cả thành phố đóng kín, hoang vu kỳ dị. Hoang vu đến đau lòng.

H lo lắng hỏi:

“Em có thấy giàn bông giấy không?”

“Không. Chỉ có những con hẻm quanh co, những hàng me già, không có bông giấy.” T hờn dỗi đáp lời.

H cười buồn thiu sau tay lái, chân đạp lên bàn ga. Chiếc xe lao đi trên cây cầu đong đưa như cái võng lớn giữa những đám mây. Loáng thoáng từ cánh rừng phía sau vọng đến những tiếng động ghê rợn. Chúng rõ dần rồi dữ dội hơn. Những bánh xe bằng sắt lăn trên mặt đá tạo ra những âm thanh lóc cóc dễ sợ. Mưa xám kéo đến trùng điệp, bắt đầu nhỏ những giọt nước thật to trên mặt cầu.

T cầm chặt cây súng, la lên hoảng loạn:

“Em sẽ không bỏ cuộc. Chúng ta không thể bỏ cuộc.”

Hai bàn tay H trên vô lăng bắt đầu run lẩy bẩy. Chiếc xe lảo đảo trên cây cầu cũ nát như thằng say rượu. Mấy thanh gỗ mục bắt ngang trên cầu lại rơi xuống, chao đảo trong màn sương như những cánh hoa gỗ.

T nhìn sững những chiếc cánh hoa gỗ, nhìn sang khuôn mặt xanh mét của H. Từ khuôn mặt của H ứa ra những giọt nước mưa. Cách đây năm ngày H đã nhường phần ăn ít ỏi cuối cùng của anh cho cô.

T quyết định nói:

“Hoa dầu kìa. Em thấy cây dầu ở đầu ngõ.”

Nụ cười thoáng qua trên khuôn mặt của H:

“Bên dưới bóng cây dầu ắt phải có giàn bông giấy màu tím.”

T nhìn vào màn sương trắng đục, lặp lại dịu dàng:

“Vâng. Dưới bóng cây dầu có giàn bông giấy màu tím.”

H ho một hồi, mấp máy đôi môi nứt nẻ:

“Vợ anh ở đó. Dưới giàn bông giấy là xe bánh mì. Giờ này cô ấy chuẩn bị dọn hàng về.”

Mặt trời lên cao trên đỉnh đầu. Từ đó tỏa ra vùng ánh sáng vàng vọt, nhớp nhúa. Tim T như thắt lại, giữa lúc này, chỉ còn hai đứa với nhau, H lại nhắc đến người thứ ba.

Chiếc xe chậm dần, bờ bên kia hiện ra mờ ảo. Hoa chuối đột ngột nở đỏ rực trên đỉnh núi xanh. Màu hoa làm T sợ hãi. Nó báo hiệu điềm không lành. Tiếng la thét hung hãn nổi lên giữa tiếng bánh xe sắt lăn lóc cóc. Những cái bánh xe tròn có gai nhọn của bọn săn người. Chúng đã đuổi đến đầu cầu, đang chuẩn bị cho những khối cầu có gai vượt qua thung lũng. Bờ bên kia rồi cũng không bình an. Sẽ không còn nơi nào trên thế giới này bình an.

“Nhấn ga. Nhấn ga. Nhanh lên.”

Nhưng H không nhấn ga. Khuôn mặt xanh mét của H đã đổi sang màu đỏ. T biết cái màu đỏ này. Đó là dấu hiệu. Bàn tay của H trên vô lăng đã thôi run rẩy, nó mềm oặt và nóng rực. T giận dữ chĩa súng vào V, gào lên:

“Thằng ác quỷ.”

V cười như ác quỷ. Gã quyết không bỏ cuộc và gã đã tóm được H.

“Đừng H. Em xin anh, đừng đi. Có ai ở đây không? Cứu chúng tôi với.”

Có ai ở đây không? Có ai ở đây không? Trên vách đá vọng lại tiếng kêu tuyệt vọng. Không có ai ở đây cả.

H mỉm cười yếu đuối:

“Em đừng quên giàn bông giấy dưới gốc cây dầu. Đạp ga là đến bờ bên kia.”

Tiếng nói của H tắt vào khoảng không gian mù đặc sương. Sau những ngày chia sẻ hoạn nạn, sau những ngày cùng nhau cầm cự trong trại giam địa ngục, H chỉ nghĩ đến giàn bông giấy dưới gốc cây dầu. T hít một hơi thở, cố tìm bàn đạp ga, nhưng chiếc xe cứ tròng trành trên cây cầu chao đảo. “Mình phải đến được bờ bên kia.”

Mặt trời trên cao vẫn tỏa màu sáng vàng vọt. Loáng thoáng có tiếng người gọi nhau trong màn sương trắng và những cái bóng trắng. T thở từng hơi đứt quãng, cô khó nhọc ngóc đầu lên. Ba người phía sau thùng xe đã biến mất. Chắc họ đã văng khỏi xe, rơi xuống vực thẳm. H cũng không còn ngồi bên trái, chỗ đó là một người khác. Một người đàn bà xa lạ với khuôn mặt bịt kín một nửa. Cặp mắt bà ta trợn trừng như bị bóp cổ.

T hoảng sợ la lên:

“H đâu rồi?”

Tiếng ai đó suỵt khẽ nơi nào:

“Đừng la lớn. Bây giờ là hai giờ sáng.”

T im lặng, lại hoảng sợ nhiều hơn. Phải, nếu cô la lớn, bọn chúng sẽ phát hiện ra và tìm đến. Đầu T đã ngưng nóng, cô biết mình có thể lái xe đi tiếp. Khi nào mặt trời ngưng tỏa ra thứ ánh sáng vàng vọt kinh tởm thì T sẽ thoát khỏi nơi này và cô sẽ tìm ra giàn bông giấy tím. Có hàng ngàn, hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn giàn bông giấy tím trong thành phố, nhưng chắc là T sẽ tìm được giàn bông giấy có người đàn bà bán bánh mì với nụ cười rất hiền. “Buổi tối ở nhà luôn thơm mùi pate. Tiệm bánh mì của vợ anh có món pate ngon nhất khu phố.”

Cô cần phải nói với người đàn bà ấy, H đã ra đi. Anh không hề đau đớn và vẫn nhớ những buổi tối trong căn nhà nhỏ xíu luôn thơm mùi pate.

Người đàn bà ngồi bên trái quẫy mạnh, vừa ho vừa rên rỉ:

“Tôi không thở được.”

Cái đèn bóng tròn lắc lư trên trần nhà, tiếp tục tỏa ra thứ ánh sáng vàng vọt, nhớp nhúa. Từ ngoài hành lang vọng đến tiếng những người y tá lao xao. Tiếng bánh xe sắt của bình dưỡng khí lăn lóc cóc trên sàn nhà gạch bông hư hỏng. T lo sợ nghĩ, nếu bây giờ cô không hỏi bà ta ở đâu, sau này lại phải khó nhọc đi tìm khắp thành phố.

“Bác cho con xin số nhà, tên đường.”

Người đàn bà co rúm lại, ho những tiếng tắt nghẹn.

“Quận nào? Đường nào? Số nhà? Có ai chờ bác không?” T khẩn khoản lặp lại.

Có ai chờ mình không? T ngậm ngùi nghĩ. Không ai chờ T cả. Ba má cô đã ra đi từ hai tháng trước. Vĩnh viễn. T nhấn ga, chiếc xe lao đi trên đoạn đường đào thoát cuối cùng.


*
*      *


Bản tiếng Đức

Lauf durch die Atemdomäne



Das Auto beschleunigte und begann auf der Seilbrücke über das Tal zu fahren.

Die vier Gummiräder drohten, von den verrottenden Holzbrettern abzurutschen. Einige beschädigte Platten zerplatzten bei der Drehung des Autos und stürzten ziellos in den düsteren Abgrund.

Vorne lag der neblige Berggipfel. Hinten war der graue strömende Regen. T flüsterte:

"Gott, bitte hilf uns. Auf der anderen Seite ist die Freizone.“

Kalter, nasser Nebel befüllte ihren Mund. Im sauerstoffarmen Hochland schrumpfte die Kehle wie getrockneter Apfel, und die Haut wurde so blass wie junges Bananenblatt.

"Komm schon. Die andere Seite ist die sichere Zone.“

T versuchte zu atmen… zu schreien. H saß hinter dem Steuer und sagte nichts. Er konzentrierte sich darauf, den Wagen die morschen Planken hinaufzufahren. Die Verfolgungsjagd wird ein tragisches Ende nehmen. Sie werden kommen, um das Leben von zwei Menschen zu vernichten. Oder das Auto, welches zwei Leben und drei Leichen trug, könnte in den dämmerigen Abgrund stürzen.

L, V und A lagen auf dem Rücksitz. Die Köpfe waren zur Seite geneigt und die Münder aufgerissen. Als H stürmisch das gestohlene Auto fuhr, sprangen auch diese drei Leute auf der Sitzbank auf. In Panik krachte er das Auto durch das versiegelte Lagertor und rammte die Stacheldrahtspulen. H drehte das Lenkrad und fuhr mit dem Auto in den dichten Farnwald. Der riesige Abgrund tauchte plötzlich vor ihnen auf. Er wartete schon lange darauf, alle fünf Menschen zu verschlucken, die aus dem Quarantänelager geflohen sind. Er war nicht so dunkel wie die Hölle, sondern so hell und weiß wie der Nebel. Sogar die Pflanzen und das Moos, die an beiden Seiten der Klippen hafteten, waren nebelweiß. Die Steine waren auch weiß. Ein schreckliches Weiß.

H befiehl:

"Du nimmst die Waffe, schau hinter dich und schieße auf alles, was sich bewegt."

Soweit T wusste, galt dieser Befehl nicht nur für die Menschenjäger, sondern auch für V. Ja, für ihn. V war derjenige, der sie im Quarantänelager festgehalten hatte. Er hatte einen Zug von Hunden gehabt, deren Aufgabe es war, die Aufständischen zu bewachen und zu exekutieren. Aber Vs bissige Hunde waren den Jägern einer nach dem anderen in die Hände gefallen. Mittlerweile wurde V ein Gefangener, der wie jeder andere Mensch im Quarantänelager gehalten wurde. Ein Gefangener, der vom ganzen Gefängnis gehasst wurde. Vs Boss hatte ihn vergessen und verhungern lassen.

Im Dunkeln waren die Jäger in das Lager geströmt. Sie waren von Raum zu Raum gegangen und hatten einen nach dem anderen eingeholt. H hatte T zum Hintereingang gezogen. Der Hintereingang war verschlossen. V hatte nachts oft die Heckklappe verriegelt. Dann hatte H T zum Vordereingang gezogen. Der vordere Weg war geprägt von Schreien und Schreien. Die beiden waren um das Schilffeld gelaufen. Scharfe Pfähle hatten aus dem Boden geragt. Die Moskitonetze waren geflogen wie Wolken.

Jetzt saßen sie im Auto und die Bestien jagten ihnen hinterher. Hastig folgten sie den Reifenspuren.

Der erste war A, sein Körper erwärmte sich, seine Augen wirkten töricht. Der nächste war L. Dann kam V.

T hielt das Gewehr und richtete den Lauf nach hinten. Inmitten des dichten Nebels erschienen die schmerzerfüllten Gesichter von L, V und A wie hungrige Spinnen im weißen Netz. Sie waren hungrig gewesen. Eine Woche lang hatten sie nur vor Hunger geschrien. Das ganze Quarantänelager war sehr hungrig gewesen. T richtete den Gewehrlauf auf das Spinnennetz und drückte ab. Das gedämpfte Geräusch fiel ins Leere. Klick. Klick. Die Waffe hatte keine Munition.

H fing an zu fluchen und sagte:

"Das reicht."

T starrte auf das Gewehr. Ts Augen brannten nach vielen schlaflosen Nächten. Die Herstellermarke schimmerte blass auf. Made in...

“Warum sollten wir diese wertlose Waffe benutzen?“

H grinste empört:

“Weil sie uns von dem Typen gegeben wurde. Wir haben keine andere Wahl.”

Alle Jugendlichen im Lager wussten, dass ihnen die Gewehre ohne Kugeln zugeteilt wurden, um das Quarantänelager zu schützen. T musste lernen, die Waffe zu benutzen und in die Luft leerzuballern. T musste auch lernen, sich zum Dank zu verbeugen. Diese riesigen Geschütze halfen den Verschanzten im Lager nicht, den Feind zu töten. Sie konnten keinen schützen. Aber sie beruhigten die Menschen. Zumindest gaben sie etwas zu glauben, um sich gegenseitig zu betrügen. T hob ihr Gewehr wieder und schoss panisch in den Wald hinter ihr. Klick. Klick. Keine Munition.

Sie haben die Mitte des Tals erreicht. Im weißen Nebel konnte T die aufgereihten Blechdächer darunter sehen. So anschmiegsam. So antik. Da war die Gasse, an der jeden Morgen zahlreiche Verkaufsstände betrieben wurden. Da. Onkel Nams graue Katze saß miauend am Tor des Tempels. Da war die blaue Wand, da war eine Schaukel im Wind, da war der Kindergarten. T rief bitterlich: “Da!”. Sie hatte jede Woche von Montag bis Freitag da verbracht und mit den Kindern gesungen. Nun waren die großen und kleinen Türen geschlossen. Alle Türen in der Gasse waren geschlossen. Die ganze Stadt war geschlossen, seltsam öde, seltsam traurig.

H fragte besorgt:

“Siehst du den Bougainvillea Bogen?“

“Nein. Sehe ich nicht. Nur verwinkelte Gassen, Reihen alter Tamarinden, aber keine Bougainvillea”, erwiderte T mürrisch.

H lächelte traurig hinter dem Steuer, drückte sein Fuß auf das Gaspedal. Das Auto raste über die schwingende Brücke, die wie eine große Hängematte zwischen zwei Wolken hing. Aus dem hinteren Teil des Waldes kamen fürchterliche Geräusche. Sie wurden lauter und dann aggressiver. Die eisernen Räder, die auf dem Steinboden rollten, machten einen schrecklichen Lärm. Der graue Regen kam dichter und begann, große Wassertropfen auf die Brücke zu verteilen.

T schnappte sich die Waffe und rief bestürzt:

“Ich werde nicht aufgeben. Wir können nicht aufgeben.”

Hs Hände am Lenkrad begannen zu zittern. Das Auto schlängelte sich mitten auf der baufälligen Brücke wie ein Betrunkener. Die verrotteten Holzbretter von der Brücke fielen herunter und schwankten im Nebel wie Flügel.

T starrte auf die Holzflügel und betrachtete das blasse Gesicht von H. Aus Hs Gesicht sickerten Wassertropfen. Vor fünf Tagen hatte H ihr seine letzte kleine Mahlzeit überlassen.

Dann sagte sie entschlossen:

“Zweiflügelfrucht. Ich sehe den Zweiflügelfruchtbaum am Eingang.“

Ein glückliches Lächeln huschte über Hs Gesicht.

“Unter dem Schatten des Baumes muss die lila Bougainvillea sein.“

T blickte in den dichten Nebel und wiederholte leise:

"Ja. Unter dem Baum ist der lila Bougainvillea Bogen."

H hustete und hustete. Die rissigen Lippen ließen sich schwer bewegen:

„Meine Frau ist dort. Unter dem Bougainvillea Bogen ist ein Stand, wo frisch belegte Brötchen verkauft werden. Jetzt macht sie bereits zu."

Die Sonne stand hoch oben. Von dort strahlte ein trübes und schmutziges gelbes Licht. Ts Herz verkrampfte sich. Mittendrin waren nur noch die beiden übrig, doch H erwähnte immer die dritte Person.

Das Auto wurde langsamer. Die andere Seite wirkte verschwommen. Plötzlich erschienen die rot blühenden Bananenblumen oben auf dem grünen Berg. Die Farbe erschreckte T. Es deutete auf Unglück hin. Die wilden Schreie übertönten das Klappern von Eisenrädern. Die stacheligen Rundräder gehörten den Jägern. Sie erreichten die Brücke und bereiteten sich darauf vor, wie die Stachelkugeln das Tal zu überqueren. Die andere Seite wird eben nicht mehr friedlich. Es wird dann keinen sicheren Ort auf dieser Welt geben.

“Gib Gas. Drück auf das Gas. Beeil dich.”

Aber H drückte nicht auf das Gas. Sein blasses Gesicht wurde rot. T kannte diese rote Farbe. Das ist das Zeichen. Hs Hände am Lenkrad hörten auf zu zittern, sie waren leblos und heiß. T richtete die Waffe wütend auf V und rief:

“Teufelsjunge.”

V lachte wie ein Teufel. Er hatte nicht aufgegeben und er hat H erwischt.

“H! Bitte, geh nicht. Ist jemand hier? Bitte rette uns.”

Ist jemand hier? Ist jemand hier? Von der Klippe ertönten die Schreie der Verzweiflung. Niemand war hier.

Hs Lächeln war schwach:

“Vergiss die Bougainvillea unter dem Zweiflügelfruchtbaum nicht. Gib Gas, zu der anderen Seite.”

Hs Stimme verschwand im Nebel. Nach gemeinsamen Leidenstagen und gemeinsamen Kampftagen im Gefängnis der Hölle, dachte H nur an die Bougainvillea unter dem Zweiflügelfruchtbaum. T holte tief Luft und versuchte, das Gaspedal zu finden, aber der Wagen taumelte nur auf der wackligen Brücke. "Ich muss die andere Seite erreichen."

Die Sonne oben schien immer noch trüb. In dem weißen Nebel ertönte das schwache Geräusch von weißen Schatten, die sich gegenseitig riefen. T machte kurze, schwere Atemzüge und versuchte den Kopf zu heben. Die drei Personen auf dem Rücksitz des Autos waren verschwunden. Sie mussten aus dem Kofferraum in den Abgrund gefallen sein. H saß auch nicht mehr links. Nun gab es einen anderen Mitspieler, der den Platz von H einnahm. Eine seltsame Frau war mit halb bedecktem Gesicht. Ihre Augen weiteten sich, als würden sie jemand erwürgen.

T schrie panisch:

“Wo ist H?”

Irgendwer flüsterte irgendwo:

“Schrei nicht. Jetzt ist es zwei Uhr morgens.”

T schwieg und geriet noch mehr in Panik. Ja, wenn sie schrie, würden sie es herausfinden und kommen. T hatte keinen Fieber mehr, sie wusste, dass sie weiterfahren konnte. Wenn die Sonne aufhörte, ihr ekelhaftes gelbes Licht abzugeben, würde T von diesem Ort fliehen und die lila Bougainvillea suchen. Es gab Tausende, Zehntausende, Hunderttausende von den lila Bougainvillea Bogen in der Stadt. Aber sie war sich sicher, dass sie den mit der Frau finden würde, die ihr Brot mit einem sehr sanften Lächeln verkauft. “Nachts zu Hause riecht es immer nach Leberpastete. Die Bäckerei meiner Frau hat die beste Pastete der Stadt.”

Sie musste dieser Frau sagen, dass H weg ist. Er hatte keine Schmerzen und vermisste immer die Abende in dem winzigen Haus, das nach Leberpastete roch.

Die links sitzende Frau schlug heftig um sich. Sie hustete und weinte schmerzhaft.

“Ich kann nicht atmen.”

Die Glühbirne baumelte von der Decke und strahlte immer ein trübes und schmutziges Licht aus. Die Stimmen der Schwestern rauschten durch den Flur. Das Geräusch der eisernen Räder des Sauerstofftanks, das auf dem beschädigten Fliesenboden klapperte, hallte wider. T dachte ängstlich, wenn sie die Frau jetzt nicht fragte, wo sie früher gewohnt hatte, würde sie später mühsam die ganze Stadt durchsuchen müssen.

“Geben Sie mir die Hausnummer, den Namen der Straße.“

Die Frau zuckte zusammen und hustete erstickend.

“Welcher Bezirk? Welche Straße? Hausnummer? Wartet jemand auf Sie? Bitte”, wiederholte T dringend.

Wartet jemand auf mich? Sie dachte traurig. Niemand wartete auf T. Vor zwei Monaten hatten die Eltern sie verlassen. Für immer. T drückte aufs Gas, der Wagen raste auf dem letzten Fluchtweg.

Lưu Thuỷ Hương


Các thao tác trên Tài liệu

được sắp xếp dưới: Kỷ yếu 30 năm
Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
VIETNAM, DEUX DOCUMENTAIRES sur France 2 et France 5 05/03/2024 - 01/06/2024 — France 2 et France 5
Repas solidaire du Comité de soutien à Tran To Nga 22/03/2024 - 26/04/2024 — Foyer Vietnam, 80 rue Monge, 75005 Paris, Métro Place Monge
Nouvel Obs, soirée Indochine, la colonisation oubliée 25/04/2024 18:30 - 22:00 — 67 av. Pierre Mendès France, 75013 Paris
France-Vietnam : un portail entre les cultures 17/05/2024 10:00 - 11:30 — via Zoom
Ciné-club YDA: Bố già / Papa, pardon. 25/05/2024 16:00 - 18:15 — cinéma le Grand Action, 5 rue des Ecoles, 75005 Paris
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us
Kênh RSS
Giới thiệu Diễn Đàn Forum  

Để bạn đọc tiện theo dõi các tin mới, Diễn Đàn Forum cung cấp danh mục tin RSS :

www.diendan.org/DDF-cac-bai-moi/rss