Chỉ tại mùa đông
Cũng tại mùa đông
Lê Minh Hà
Ở
Sài Gòn thì thế nào cũng được.
Ngủ dậy vặn lưng vung tay vung chân dăm
cái rồi đạp xe dạo bộ, về
tiện chân đá phải cái ghế
hàng hủ tiếu đầu hẻm thì
ngồi xuống, ăn xong quay qua hàng cà
phê cùng kiểu ngồi như cóc bên
cạnh làm một cốc. Cũng có khi về
nhà tắm táp đóng bộ thẳng
thớm rồi gọi taxi ra một tiệm ăn
uống thật sự. Nhạc dìu dặt. Nước
rì rào. Nhân viên đồng phục
đồng diễn một vẻ mặt, một
động tác bưng bê, cúi xuống
đứng lên, chào và tiễn khách.
Vào những khoảng thời gian nhất định
trong ngày, những khoảng đó thì
nhiều, ở những tiệm đó rất
dễ có cho mình một không gian chẳng
có ma nào nếu không định có
người. Bát hủ tiếu. Bát mì.
Hay đĩa trứng bánh mì nướng
kiểu Pháp. Rồi là cà phê. Đen
không đường. Mấy chục năm rồi
ông chỉ dùng đúng cái thứ
đắng không dư hậu này. Mấy
chục năm? Có lẽ cũng phải hơn
nửa thế kỉ. Từ cái hồi thằng
bé theo chị sen xuống bếp ngửa cổ
chờ giọt cà phê nguội ngắt chảy
từ đáy tách của ông bố
xuống cái cổ họng bé nhỏ của
mình rồi nhăn mặt nhổ phì
phì.
Ngày của mỗi tuần của ông ở Sài Gòn nối từ quán cà phê bình dân qua tiệm sang trọng như thế. Ở đó ông ăn và uống, như một việc phải làm. Cho xong. Bát mì rõ đẹp thằng bé áo trắng gile xám quần đen đĩnh đạc bê ra từ căn bếp đặt đâu đó góc vườn của quán đặt trước mặt ông không bao giờ đủ nóng như ông muốn. Vì khoảng đường nó bước hay tại vì đất phương nam này không lạnh, một làn hơi như thế với tất cả đã quá đủ nóng rồi? Cũng vì cái nóng chưa bao giờ đến độ này mà ông không bao giờ ăn phở ở Sài Gòn, cũng chẳng bao giờ gọi cà phê như ở Hà Nội. Cà phê phin, từng giọt ép mình rơi, trong gió trở đầu mùa se sắt hay trong hơi mưa phùn run rẩy. Những cuối thu đầu đông. Những chiều xuân chưa thấy hơi ấm. Bè bạn. Một mình. Bè bạn thì cũng đã mấy thằng đi rồi kể từ ngày cả lũ đến tuổi hưu, không tính những thằng đã thành đất ở xó rừng nào ngày chiến tranh, đau ốm chết trẻ lúc hòa bình, trong đó có một thằng treo cổ. Vì trầm cảm? Bây giờ người ta rất dễ tìm câu trả lời chính xác về sự đó. Còn lúc đi đưa đám, bạn bè chỉ nhìn nhau lắc đầu: Thằng tài thế mà khổ quá. Khổ quá. Khổ quá. Khổ quá. Đến một lúc chính mình cũng khổ quá, cũng muốn được như nó mà không được, lại tự bảo tài như thế thì mới nên được chết, trời chẳng cho nhiều. Thằng bạn đã không bao giờ biết rằng có một ngày người ta có thể sống đủ đầy, thừa mứa nữa như bây giờ. Còn chuyện ngay bên hông tiệm cà phê sân vườn tranh nhạc này đang có những người đàn ông đàn bà mốc thếch bên cái bàn gỗ tạp với những món hàng ông luôn tự hỏi bán cho ai để làm gì thì đấy lại là chuyện khác. Có xó nào trên quả đất này không có bất công. Quân bình chủ nghĩa cũng là một kiểu bất công vậy. Nghĩ ngợi để mà tự nhấc mình lên bằng một sợi dây tròng cổ như thằng bạn cũng là một cách nó bất công không với mình thì với người. Nó làm cho người khác nhỡ tự dưng nhớ là không sao bình yên trọn vẹn.
Như ông. Chẳng hạn thế. Như ông đang ngồi đây, nhìn cốc cà phê và châm điếu Marlboro.
Ông đang nghĩ
về ngày mai. Ngày mai ăn và uống
với ông là trở lại một nghi
thức. Ngày mai giờ này ông đã
ở Hà Nội.
Không có việc gì chờ ông nơi này. Chỉ là vì cơn gió trở trong bản tin thời tiết. Thành phố khô xám. Taxi thả ông chỗ Bờ Hồ, nơi Tràng Tiền nhào qua Hàng Khay. Bố khỉ. Đã bảo thả bác Bờ Hồ, thằng cu lại hỏi hồ nào bác. Chạy gần tới quán cà phê thường ngồi, bảo nó họ họ thả bác đầu Bảo Khánh, nó nhấn ga đánh một vòng quanh hồ rồi mới nhả ông ra, ngượng nghịu bảo cháu biết hồ Hoàn Kiếm nhưng chưa biết phố. Trả tiền cậu lái taxi, ông cười, tự dưng thấy khinh khoái. Rồi cũng chẳng lâu đâu, chỉ cần chạy xe một năm ở đất này nó sẽ thạo còn hơn ông, kẻ sinh ra lớn lên và già đi ở phố mà cuối cùng chỉ còn biết Hà Nội ở những phố cũ, còn những đường mới mở, những khu mới xây, những làng ven đô giờ thành đất vàng không còn là làng, chịu chết.
Bờ Hồ là nơi ông biết nhất.
Ngôi nhà nơi ông được sinh ra
ngay Hàng Bài, nhìn qua là Tràng
Tiền Plaza. Bà mẹ ông lúc còn
sống thì vẫn gọi là nhà Goda,
bảo vào đó đếm cũng ra hơn
trăm thứ hàng hóa, hơn một bách,
mỗi tội ông nhà nước chỉ
bày chẳng thấy bán. Mười năm
cấp một hai ba trường ông học
loanh quanh nơi này cả. Đi dạy cũng
chỉ cần thêm vài ba bước là
tới Quang Trung Lý Thường Kiệt, chỗ
hai cụ anh hùng con cháu cho gối lưng
nhau. Mười một mười hai tuổi tháng
tháng còn bị mẹ lệnh mang đầu
đi húi cua, húi xong lang thang ra chỗ câu
lạc bộ Thống Nhất nhòm xem cụ Lê
Lợi của thời Khai Trí Tiến Đức
đứng thu lu trong vườn sau hàng rào,
nhòm chán lôi nhau ra rê dăm ba đường
bóng vặt ở vỉa hè trước
cửa câu lạc bộ. Tháng ba đi nhặt
hoa gạo chân đài Nghiên tháp Bút
ăn chơi. Chầm chậm chút thì tới
ngày quả thối rụng rủ nhau đốt
chòng các đôi tình nhân đang
ngồi cách nhau chừng gang tay trên ghế
đá. Tháng tư tháng năm lớn
hơn một chút tha sách vở kéo
nhau vào trấn Ba Đình nghe ve kêu vọng
bốn phương tám hướng, ngắm
ông thợ cắt tóc kiệm lời, không
biết ông ấy là người lắm
chữ. Rồi tha thẩn ra đền Bà Kiệu
ngó nghiêng mấy ông thợ khắc
kính bút, nhìn tàu điện đi
ngang để lại tiếng chuông và đôi
khi bóng ông xẩm lập cập đi ngang
phố, nhập vào đám các ông
cắt tóc khắc bút vẽ truyền thần
với dựng khung vẩy bút làm hẳn
một dòng tranh Bờ Hồ. Lúc bấy
giờ trẻ con, nhởn chán khô cổ
thì rủ nhau làm hào một que kem. Đến
cái lúc chẳng vì khát vẫn
phải ngồi quán thì lại vì cơn
cớ khác.
Ông bảo tôi "thì với một thằng con trai lúc phải làm ra vẻ đàn ông sẽ cần chất xúc tác gì?" Vẫn cái nhìn hơi quái quái và vẫn nụ cười nửa miệng bên dưới hàng ria rậm, chắc là cứng. Từ khi tôi biết ông thì hàng ria này đã chớm bạc rồi, và đã thấy ông quái quái lừng khừng thế này rồi. Chừng ba mươi năm trước. Khi tôi về trường. Tất cả giáo viên trong trường đều là người mới giữa không gian vừa xây dựng mới tinh đó. Cũng như phần lớn giáo viên trong trường, ông thì không phải là giáo viên trẻ, giáo viên ranh con như tôi. Họ là những nhà giáo kì cựu và kì tài của Hà Nội, vì đủ thứ, kinh nghiệm, duyên với nghề và với người, vì thông tuệ. Tôi thì cho rằng còn vì xuất thân của họ nữa. Rất nhiều người trong số họ đã từng khốn khổ mới vào được đại học và chỉ được phép học sư phạm, học xong thì đi dạy chán chê ở Lai Châu, Sơn La, Yên Bái, Cao Bằng. Nhưng mà sự thông tuệ và ý chí của họ không cùn mòn đi vì những khốn khổ của đời sống, vì sự nhỏ mọn của lòng người hay là sự hẹp hòi của cách nhìn một thời. Họ là thị dân thật sự của thành phố này, thuộc nhóm người mang lại cho thành phố này vẻ đẹp dù bây giờ đã tàn suy cùng mạt rồi thì vẫn là một nuối tiếc với ai chỉ nghe nói và thương nhớ với ai từng sống cùng. Họ là nghệ sĩ trong cái nghề đòi hỏi rất nhiều và rất bó buộc con người này. Tôi tin nghề nào cũng có những người như thế, những người biến nghề của mình thành nghệ thuật mà ở đó nghệ sĩ không cần phải trang điểm hay thay phục trang giữa giờ. Nếm rượu hay là nếm mắm. Hát hay nói, như nghề giáo.
Thật may là ông chưa từng dạy tôi như một vài thầy cô trong trường và thật may là ông không quá già đủ để nhìn tôi mà không nghĩ tôi là đồng nghiệp và chỉ dẫn tận tình học sinh các em có căng tin và toilett riêng. Thế nên tôi gọi ông là anh. Anh em là đồng nghiệp cả mười năm nhưng cũng chỉ chờn vờn đôi ba lần gặp, giữa cuộc họp hội đồng, giờ trống tiết, hay khoảng giữa hai giờ giảng cùng đứng bên bàn uống nước. Ngày đó, với một vài giáo viên chỉ thích chuyên môn thuần túy ở trường này như ông và tôi thì thời gian là cơm áo. Đâm ít thời gian dành cho tình đồng nghiệp hay gì gì. Thì cứ tự giải thích như thế cho nhanh, đỡ áy náy. Chứ thực tình nguyên cớ là ở tính trời. Tôi nghĩ tôi và những người như ông luôn sống giữa nhiều cuộc đời riêng, trong và ngoài công việc, rất mô phạm lại rất không mô phạm, cái gì cũng muốn cạn mình thì còn đâu ra thì giờ. Ngoài ra, cùng nghề, tôi khá là mẫn cảm trước typ đàn ông như ông. Giáo học, giỏi mà không ra vẻ gánh vác sứ mệnh trồng trọt gì cao cả, thân tình mà bí hiểm, như thể và chắc cũng đúng là đằng sau những giờ cùng lên lớp nhận lương của ông nhà nước là một con người khác hẳn khó mà hình dung ra. Kinh nghiệm rồi: các ông thầy kiểu này, lừng khừng trong đời sống và nhạy bén trong công việc, nói rất ít mà biết rất nhiều, lại còn độc thân nuôi con thì đám nữ sinh mười bảy mười tám hay mấy cô gái trẻ làm việc ở bộ phận hành chính thường thương yêu lắm, chưa nói tới đám đồng nghiệp con gái tuổi tôi cùng tổ chuyên môn với ông, chưa nói tới đàn bà con gái trong các mối quan hệ riêng không cùng giới giáo. Ông hội đủ các điều kiện cần và đủ để làm cho đàn bà con gái trọng, yêu, thương, tò mò. Sẽ thật là không may cho người đàn bà nào sống với mấy ông đàn ông như thế này. Ai không biết chứ đám học trò vú nẩy tưng tưng mê thầy dễ coi như cô nhà thầy không tồn tại lắm, ngay cả trong ngày 20.11.
Vậy là tôi có mười năm làm
đồng nghiệp nửa thân nửa sơ
cùng ông. Rồi đi.
Khoảng
thời gian tôi bỏ chỗ làm, rồi bỏ
nghề hớt hải theo chồng thì ông
kịp cưới thêm hai người đàn
bà. Là tôi nghe đồng nghiệp cũ
kể thế. Hai mươi năm, chia cho hai người
đàn bà theo bất kể tỉ lệ
nào thì cũng chẳng có gì
nhiều. Mà nói chung, chuyện vợ chồng,
một là đủ, nhưng đã phải
hơn một thì bao nhiêu cũng vậy,
lần nào chả như lần nào. Một
cậu bạn khá là tốn vợ của
tôi đã từng giảng cho con bạn chỉ
biết một chồng vậy. Kể cũng đúng.
- Bạn nhầm rồi – Ông mủm mỉm cười, môi trên lấp hẳn sau hàng ria bàn chải trông thật ngộ. Cái nhìn của ông vẫn tinh quái như độ nào – Không có người đàn bà nào giống người đàn bà nào ngay cả khi họ dàn hàng ngang xung phong vào đời một người đàn ông. Thì làm sao bọn mình có thể đánh đồng họ được. Như mình, từng cưới bốn bà, mình nhớ cả bốn bà, sám hối trước cả bốn bà…
- Tội
anh to thế cơ à? – Tôi cười.
-
To lắm. Vì…
Tôi
cười. Chẳng lẽ với bốn bà
vợ ông đều mắc cùng một quy
mô tội như thế. Nhưng mà bỏ
qua cái kiểu nhìn rất quái, giọng
ông vô cùng nghiêm chỉnh:
- Thật
mà. Cùng một tội và to như
nhau. Với cả bốn bà. Không phải
vì mình bỏ họ đâu. Tội của
mình khó tha thứ lắm. Mình không
yêu họ.
- Không yêu mà anh sống
qua mấy đời?
- Bạn chẳng còn
là cô giáo trẻ bọn mình không
dám đùa ngày mới về trường,
phải hiểu cho mình chứ. Người ta
có thể không cần vợ. Nhưng người
ta cần đàn bà. Thời mình an
toàn thì vợ phải là đàn
bà và ngược lại. Nhưng vợ
thì rất khó là người đàn
bà thứ nhất, người cho một thằng
con trai hiểu nó sẽ thực sự là
đàn ông, cho nó biết những ý
nghĩ, những cảm giác đầu đời.
Mình sẽ rất ghen tị đấy nếu
biết ở đời này có tay nào
trong số thân quen có may mắn ấy.
Tôi
không phải là đàn ông. Tôi
không biết mình lúc mười lăm
mười bảy có từng mang lại được
cho một người con trai những cảm giác
đầu đời đáng nhớ gì
không. Nó như thế nào mà một
người đàn ông dày dạn ở
tuổi sáu mươi ngoài còn nhắc
tới. Có điều ở đây khó
nghe quá. Ồn quá. Hà Nội bây
giờ.
- Người ấy không bao giờ biết điều ấy. Bạn biết không? Hôm nay mình hẹn bạn ở quán cà phê đầu tiên mình ngồi một mình trong đời. Bám rễ ở đó bao nhiêu năm. Cho tới khi lấy vợ. Cứ sau mỗi một lần cưới thì mình lại đổi một quán. Mình đã rời thành phố này đi… xa có gần có… rồi loay hoay vẫn phải trở về. Bao nhiêu vòng đi về như thế rồi. Nhưng cứ nghĩ những quán cà phê quen sẽ chỉ nằm dọc đường đời thôi. Chỗ này…
Hẳn
là nơi ông đã biết những
cảm giác sắc đặc lại, đắng
ngọt gì thì tuổi ngoài sáu
mươi ngoài đã không phai cũng
sẽ không phai. Nhưng mà tôi không
ngờ được rằng cái người
mang lại điều ấy cho người con trai
hơn bốn mươi năm trước mới
ngoài hai mươi lại là người
đàn bà ấy.
- Nổi tiếng và
xa cách là với những ai chỉ biết
cô ấy dưới ánh đèn sân
khấu thôi. Với bọn mình thì cô
ấy mãi là cô bé mười lăm
tuổi lúc bọn mình vừa từ nơi
sơ tán trở lại nhạc viện. Bạn
không biết mình vốn dân trường
nhạc nhỉ. Không thành nghề nhưng
vẫn là nghiệp một đời. Rời
nhạc viện mình vào sư phạm, định
hướng của ông bố mình, cũng
là tự định hướng. Nghệ thuật
là thứ không nên à ơi với
nó trong tinh thần nghiệp dư. Ta có
quyền say đắm nó, nhưng thiếu tài
mà đánh đu với nó thì...
-
À, sẽ là thảm họa ngu dân với
bọn tôn kính bất kể cái gì
tưởng là nghệ thuật như em đấy.
Thế rồi anh với chị ấy không chơi
với nhau nữa à?
- Còn chưa bao giờ
là bạn ấy chứ.
Thế
mà người đàn ông ấy đã
ngồi ở đúng cái quán này,
thuở nó còn nằm trong căn phòng
sát hàng rào của ngôi biệt thự
xập xệ, đêm từng đêm, chỉ
để ngóng nhìn mọt dáng người
đạp xe ngang. Từ lúc còn phơi
phới chưa yêu. Rồi yêu, rồi lấy
chồng, rồi bỏ, rồi lại lấy, rồi
ra đi.
- Thật ra nhà bọn tôi cùng phố. Tôi còn chơi với cả ông em trai của cô ấy, đánh khăng đánh đáo đánh nhau trèo leo bơi lội nhảy tàu bổ cắm bổ xuôi đủ hết. Bặt mất mấy năm sơ tán. Lúc gặp lại cô chị ở nhạc viện thì mình thôi không gặp cậu em nữa, không đến nhà nhau nữa. Chẳng biết tại sao. Chỉ muốn…
Ông thì ghen tị nếu có một ai lấy được vợ là người con gái đầu tiên đánh thức được trong mình những cảm xúc đầu đời của đàn ông. Còn tôi, ngồi đây, lại thấy mình ghen tị với người đàn bà mình chỉ biết trên màn ảnh và sân khấu, không phải vì thua thanh sắc hay tăm tiếng, chỉ vì... Có ai từng dõi theo mình như thế không? Âm thầm vui khi mình phơi phới đạp xe trong mưa xuân nhoè ánh điện? Đau đớn cùng mình vì khuôn mặt đầm đìa nước mắt lúc mình tưởng mình chỉ có một mình? Những mùa. Phố vào khuya, vắng.
- Cô ấy chịu trách nhiệm về bốn lần lấy vợ của mình đấy! – Ông tuyên bố, rồi mủm mỉm châm thêm một điếu Marlboro – Nhưng cả bốn bà vợ của mình may sao đều không biết điều này. Họ mà biết thì chắc họ không đau đớn uất hận đến thế với mình. Họ sẽ lấy làm mừng khi tin là mình dở hơi.
Tôi
không may mắn gặp được một
ông dở hơi như thế trong cuộc đời
dài đủ rồi của mình. Tôi
chỉ biết nhà ông và chút chút
về ông. Mặt ngoài số nhà ấy
một dạo đỏ đỏ vàng vàng
rực rỡ. Biển hiệu nền xanh bẩn
bẩn, chữ đỏ tái tái, lúc
mới chắc là rất choé: Hợp tác
xã thêu may. Từ ngoài vào trong, đi
ngang cửa hàng thấy toàn cờ nước,
cờ quyết thắng luân lưu và trăm
thứ cờ với bằng chứng nhận bằng
sa tanh đỏ bóng mượt, tua rua vàng,
chữ thêu nổi cũng vàng treo kín
tường. Bà mẹ ông hồi cái
tạo công thương nghiệp xin vào làm
ở hợp tác xã này, chiến tranh
đánh phá lần thứ nhất đưa
con cái đi sơ tán nghĩ thế nào
lại gật cho hợp tác xã mượn
nhà. Về thì mất. Cả nhà dồn
hết lên tầng trên. Riêng ông có
cái phòng trong sân. Chắc phòng dành
cho con sen thời Tràng Tiền Plaza còn là
nhà Goda. Lúc tôi mang cho ông suất
cá biển công đoàn tổ ngoại
ngữ gửi, tôi nhớ tôi đã rất
lúng túng vì cái đàn piano kê
trong phòng và vì cái mùi cá
biển tan hết nước đá rất khó
tả bốc quanh mình. Thoắt cái hai lăm
năm qua rồi.
- Hợp
tác xã của nợ ấy mình chẳng
biết còn không. Hồi thành phố
có chủ trương trả nhà trưng
thu hay mượn nhà mình cũng làm
đơn xin lại mấy phòng mà chịu
chết không lấy được. Khổ cái
nguời ta chiếm mặt tiền, nhà lại
trung tâm quá… Sau khi cụ bà đi
theo cụ ông anh em bàn nhau bán hết
phần còn. Không biết bây giờ cả
số nhà đó nơi nào quản.
Nhưng mặt tiền chỗ có hợp tác
xã thì người ta làm quán cà
phê, cửa giả phá tung ốp kính.
Ba bà vợ đầu của mình đều
sống ở đó… À mình biết
bạn tò mò về cái gì rồi…
Ông lại cười. Rồi kể về người vợ đầu mẹ của thằng con trai, người đàn bà giờ đang là chủ một của hàng bán sỉ trong chợ Sapa của người Việt bên Praha. Tôi tự nhủ khi nào qua đó nhất định phải tìm xem mặt. Ông bảo khi trẻ bà rất đẹp, và bà cũng là giáo viên như ông.
- Lần đầu mình đưa cô ấy về giới thiệu với gia đình, mẹ mình tiếp đãi rất ân cần, nhưng đêm thì cụ gõ cửa vào phòng tôi bảo mợ thấy khó con ạ, cậu con nói… Sau này tôi nghĩ giá các cụ đừng tìm cách ngăn cản có khi mình không lấy mẹ thằng Hoài. Con giai máu nóng mà. Nhưng mà các cụ có lí. Khi mình thấy hai đứa em gái thu thu mấy cái áo gối thêu chỉ trắng tinh chuẩn bị đám cưới cho anh đứng nhìn cái giường tân hôn cô vợ tôi chỉ đạo bạn tới trang hoàng, mình biết mình hỏng rồi. Bạn không thể hình dung được phải không? Đêm tân hôn mình gối đầu trên một cái gối viền ren, có tua rua, thêu nổi kín một góc rực rỡ y như hàng của hợp tác xã thêu cờ nhà ngoài. Có khi hơn. Nhị vàng, hoa đỏ, lá xanh, lại còn đôi chim bay lượn.
Tôi cười phá lên. Rồi ngượng nghịu vì cười. Rất đồng ý với ông rằng là bà vợ đầu của ông lấy ông thì vất vả. Khó sống nữa. Bây giờ thì tôi chấp nhận rất dễ dàng sự con người có những khoảng riêng không thể dung hòa với nhau, kiểu mê đi thi các nhóm ca khúc chính trị thì không chịu nổi classic ấy. Không bao giờ. Không phải vì kém hay hơn. Chỉ đơn giản vì quá khác. Tôi hình dung ra những đêm ông ngồi với phin cà phê ngóng một dáng người, một nét mặt từng là biểu tượng về cái thanh tú, cái trang nhã, cái tinh tế của đàn bà thành phố này, và tự gật gù thầm với mình về vẻ đẹp chắc phải rất hồng hào, rất đầy đặn, rất bừng bừng của vợ ông. Và không hiểu. Thật có những người những thời kì quặc thế? Cứ phải đi tìm lấy một tia sáng cho đời mình, càng mơ hồ càng thiết tha, càng thiết tha càng mờ mịt? Hay tại ngày sống mờ mịt quá nên phải tìm ánh sáng? Một cánh đồng hoa vàng trên cỏ? Một vầng mây? Khí núi đêm rừng? Có thể là bất kì cái gì, nhưng khi nào cũng gắn với con người. Một vóc dáng? Một gương mặt? Một giọng nói? Hơi ấm? Mùi hương? Những ý nghĩ về nhau? Những ý muốn vì nhau? Và chỉ những thứ 1, 2, 3, 4 ấy mới làm cho người ta thấy mình biết sống hay là còn muốn sống? Thằng bạn tốn vợ của tôi có lí. Trong chuyện riêng tư, bao nhiêu đời cũng là không đủ, lần nào chả như lần nào nếu không đạt tới cái người ta thiết tha, càng dữ dội thì càng có vẻ âm thầm.
Cái
Smartphone của ông ting một tiếng. Dụi
điếu thuốc cháy dở vào gạt
tàn, ông nhoay nhoáy bấm máy trả
lời. Rồi ngẩng lên:
- Thằng con
mình. Bạn còn nhớ nó chứ? Ngày
trước trường họp hội đồng
hay hội hè gì nó toàn theo chân
mình. Bốn vợ mà chỉ có độc
nó. Bố con sống với nhau bao năm trời.
Sau này, rơi vào cảnh của bố, nó
bảo mình bố có công nhận con
ngày bé là lá chắn chuẩn cho
bố không rồi cười hi hi.
À thằng con ông. Nghe nói giờ nó nổi tiếng lắm trong giới nghệ thuật, và lắm tiền lắm. Hồi ông hay tha con đến trường, trước mặt nó tôi rất ngần ngại gọi bố nó là anh, càng không dám gọi nó là cháu. Khi đó nó cũng phải mười một mười hai, cũng phải bằng nửa tuổi tôi, nhưng cái đó không quan trọng. Quan trọng là cái vẻ lặng lẽ đầy nhạy cảm của nó. Giờ nó cũng phải ngoài bốn mươi rồi.
- Phải thế không anh nhỉ? Bạn ấy nhà anh kém em chừng…
Ông cười:
-
Đúng rồi. Nó đang ở Miền
Tây… đang than mùa nước nổi
mà nước còn ít lắm. Lại
hỏi bố bao giờ bố vào thì con
ra. Hậu sinh khả úy. Bằng tuổi mình
khi độc thân nuôi con thì nó đã
hơn đứt bố một đời vợ.
Nhưng mà hậu sinh vẫn là hậu
sinh. Thằng con mình lắm vợ nhiều bồ vẫn không bằng bố. Là nghệ sĩ
mà tiếng vậy nó chưa hề có
một tình yêu nào ở đất
này.
Tôi
nhìn ông, muốn chọc một câu ai
bảo anh thế. Tình yêu? Đất này?
Nhưng rồi tôi lại im. Lại vẫn thấy
từng trải thế mà chưa tự giải
thoát được khỏi phản xạ rụt
rè có điều kiện trước ông
đồng nghiệp.
Nếu can đảm, tôi
sẽ hỏi ông về cái tình yêu
ấy. Nó là sự chờ đợi để
không mòn mỏi? Có nên coi nó
thực sự là một mối tình không
và dành cho ai? Với lại ai cần mới
được chứ? Không phải tôi!
Thề!
Hà Nội đã vào đông. Nóng hực. Những người đàn bà bịt kín mặt mũi đang nhẫn nại trồng lại đám hoa cúc vạn thọ trong hình ngôi sao bên Bờ Hồ. Phố lủng lẳng dây nhợ. Lát nữa tối hẳn những dây nhợ đó sẽ bật sáng hoa đỏ lá xanh chen với những khúc vảy rồng vàng cùng vô khối khẩu hiệu. Nghĩ mà xem, rực rỡ thế thì ai cần ánh sáng?
Thằng
bé phục vụ rất có dáng sinh
viên ra xin lỗi và nhấc đi cái
gạt tàn đầy những điếu
Marlboro ông châm rồi dụi đó.
Chúng tôi ngồi vậy là qua một
chiều. Tới nửa đêm thành phố
tắt điện thì Bờ Hồ sẽ có
lại những khoảng tối mềm mại và
lặng lẽ, lặng lẽ như chúng tôi
từng cùng nó. Những mùa chưa
xa.
Thằng con nổi tiếng của ông
nhiều vợ như bố nhưng thua bố vì
chưa từng có một tình yêu ở
phố. Ông bảo thế.
Nhưng có để làm gì cơ?
Tôi
nhát. Tôi không dám hỏi. Lúc
đứng lên tôi chỉ nhẹ nhàng
hỏi ông bạn ấy
ra làm gì mùa đông này anh?
Thay cho lời chào không thêm thắt câu hẹn gặp lại.
Berlin
12. 2015
Lê Minh Hà
Các thao tác trên Tài liệu