Chuyện của Thuỷ, Tranh của Thuỷ
Chuyện của Thuỷ, Tranh của Thuỷ
Hoàng Hưng - Hoàng Thị Ngọc Dung
Tôi vừa nhận được bức thư ngắn từ anh Nguyễn Triệu Đào, một trí thức người Việt ở Paris, nhân danh con gái anh, Thanh Thuỷ:
“Thanh
Thuỷ rất cảm động được
sự khen và khuyến khích của các
bác, anh chị và bạn. Thanh Thuỷ thành
thật cảm tạ và xin giới thiệu
triển lãm tranh của Thuỷ tại Sceaux và
Chatenay Malabry (Pháp), và Hà Nội
trong tháng giêng và tháng hai 2013.
Một
phần tiền bán tranh sẽ được
biếu hội từ thiện.
Với các
bác và các bạn không đến
tham dự được, Thuỷ xin trình bày
trên trang mạng http://www.eaufine.com, mục
Tranh của Thuỷ, trang 3/3, một số tranh
riêng của Thuỷ”.
Ba lần có dịp xem tranh của Thanh Thuỷ cách nhau vài năm tại gia đình cháu, hồi hộp theo dõi bước đi của cháu, tôi thật vui mừng và cảm động với thành quả hôm nay, thành quả ngoài sự chờ đợi của gia đình và bè bạn.
Năm nay, Thuỷ đã là một phụ nữ, nhưng đời sống và tính cách của cháu vẫn là của một cô bé con, do hậu quả của chứng Trisomie 21 (ở Việt Nam quen gọi là chứng Down). Song, điều đáng nói là cô bé thiệt thòi bẩm sinh này đang trở thành một cây cọ gây bất ngờ cho những ai có dịp thấy tranh của cô. Vài chục tác phẩm màu nước thể hiện cảm nhận độc đáo về cảnh vật và nhiều tâm trạng phong phú, có thể nói là tinh tế, trong một bảng màu tài hoa và không thiếu sự điêu luyện - kết quả của một quá trình học, rèn nghiêm chỉnh.
Người ta nói nghệ thuật là sản phẩm của trực giác, bản năng hoà hợp với sự điêu luyện. Những người có khiếm khuyết về hệ thần kinh nhiều khi lại mạnh về trực giác, bản năng. Trên thế giới đã có những triển lãm tranh của các người bệnh tinh thần được trị liệu bằng họa pháp. Chắc Thuỷ không là trường hợp khác biệt. Còn sự điêu luyện mà Thuỷ có được thì do công phu lớn lao của gia đình cháu, mà lòng thương yêu, sự kiên nhẫn, đức hy sinh xứng đáng là tấm gương cho mọi gia đình gặp phải cảnh con cái không may mắn. Điều không ngờ là việc gia đình cho Thuỷ học vẽ như một liệu pháp và một nỗ lực để cháu có thể hoà nhập với cuộc sống bình thường (bên cạnh học piano, học chữ, học bơi, học aikido…) cuối cùng lại hiến cho đời một cây cọ thực thụ. Tranh của Thuỷ đã được bày ở một vài phòng tranh Paris. Và bây giờ…
Nhân đây, tôi xin giới thiệu với bạn đọc câu chuyện của Thuỷ qua những dòng tâm sự của mẹ cháu, bác sĩ nha khoa Hoàng Thị Ngọc Dung, cũng là nội tướng của một gia đình trí thức gốc Hà Nội rất ý thức bảo vệ, duy trì một gia phong truyền thống quý báu của ông cha hài hoà với nếp sống văn minh hiện đại của thủ đô nước Pháp. Nếu trong những ngày lang thang Âu Mỹ, có một số cơ hội khiến tôi có thê có được chút tự hào về hai tiếng Việt Nam, thì có lẽ sự hoà hợp văn hóa ở những gia đình như gia đình này là nguyên cớ.
Hoàng Hưng
(Toàn bộ bài viết và các tư liệu về Thuỷ có thể xem trên website Le site de Thanh Thuy http://eaufine.com và được giới thiệu lại trên website http://www.t21.ch/ của ART 21 (Association Romande Trisomie 21) Thụy Sĩ. Bản tiếng Việt của HH)
Chuyện
của Thanh Thuỷ, hai thập niên đầu
(Chuyện của Thanh Thuỷ do mẹ em kể, năm 2000 và 2012)
Ngày 23 tháng 2 năm 2001, Thuỷ sẽ tròn 21 tuổi…
Hơn 20 năm trước, trong khi hành nghề của mình với đầy nhiệt huyết, tôi đón chờ đứa con thứ ba ra đời, với hy vọng nồng nàn sinh một cháu gái.
Từ
một năm, gia đình tôi sống trong
sự nôn nóng đón cháu bé
thứ ba từng được mong ước.
Vì
sau hai cậu con trai khoẻ mạnh, xinh đẹp
và thông minh như mọi cậu bé
trong mắt mẹ chúng, cuộc đời hứa
hẹn với chúng tôi những ân phúc
mới…
Mong muốn có một bé gái xinh xắn đã thúc đẩy tôi theo một chế dộ dinh dưỡng do một bác sĩ của bệnh viện chỉ định, chế độ này còn được đi đôi với liệu pháp chà xát hoóc môn lên ngực nhắm tăng thêm cơ may cho ra đời một cô gái.
Và
quả thật một bé gái thật xinh
xắn đã chào đời.
Ngay
từ tiếng khóc đầu tiên, gương
mặt của bé đã trở nên thân
thiết với tôi. Bé có khuôn mặt
giống anh cả, số đo chiều cao và
cân nặng lúc mới sinh cũng gần
tương tự, và nhất là nước
da hồng tươi như trái đào.
Nhưng
khoảnh khắc toàn phúc ấy đã
vụt biến, vì gần như lập tức
ông bác sĩ sản khoa đến thông
báo cho tôi với vẻ mặt nghiêm
trọng là người ta đã phát
hiện ở cháu bé những dấu hiệu
của hội chứng Down-Trisomie 21.
Trong
sự bối rối cực độ, tôi vẫn
còn chút sức lực để hỏi
ông : “Vậy tôi phải làm gì
cho cháu ?”
Hôm sau, chồng tôi là người duy nhất được biết bản án của bác sĩ ; những người thân của tôi hơi ngạc nhiên trước nụ cười gượng gạo của người mẹ khi sự sinh nở này đã được mong muốn đến thế.
Phải chăng chỉ là sự mệt mỏi do sinh nở ?
Tôi lấy được số liên lạc của văn phòng Giáo Sư Lejeune, chuyên gia chữa trị các bệnh về gien và là người đã chứng minh nhiễm sắc thể X21 chịu trách nhiệm về bệnh Trisomie 21, để có thể đưa con mình đi khám vào thời gian sớm nhất.
Trong
thời gian ở bệnh viện phụ sản,
hai vợ chồng tôi đã sống trong
niềm đau dai dẳng, khi phải giấu sự
thử thách của mình với gia đình
và bạn bè.
Thử
thách càng nặng nề trước những
lời chúc mừng vẻ đẹp rạng
ngời của bé Thuỷ, khi chúng tôi
biết rằng bé sẽ không bao giờ là
một đứa trẻ giống như những
trẻ khác.
Bố
mẹ chồng tôi mừng khôn siết khi
được báo tin cô cháu gái
nội ra đời. Nhưng bà mẹ chồng,
luôn luôn là người quan sát tinh
tế, đã băn khoăn về cái thóp
mềm trên đầu và cái lưỡi
nhọn của cháu.
Sau
đó ông bà là những người
đầu tiên được thông báo
về bệnh tình của cháu.
Các
cụ nhận tin với thật nhiều minh triết
và tình thương.
Điều
đó đã làm chúng tôi bớt
được gánh nặng phần nào.
Bù
lại, hai đứa con trai của tôi hết
sức vui mừng vì cuối cùng đã
có một cô em gái.
Chúng
tôi không thể nào nỡ làm nguội
bớt nhiệt tình của chúng.
Dẫu
sao, chúng còn quá nhỏ, không thể
lường được mọi hậu quả
của chứng bệnh đánh vào em gái
chúng.
Và
cứ như thế trong nhiều năm trời.
Chúng
đã sống bên đứa em gái
thường xuyên có vấn đề sức
khỏe, chịu đựng, nâng đỡ
và về sau thương yêu em mà không
bao giờ đặt dù chỉ một câu
hỏi.
Tiếp
đó, tôi thường xuyên nghĩ về
những nguyên do có khả năng dẫn
tới chứng bệnh của con gái bé
bỏng của mình.
Thật
là với đứa con thứ ba, tình
trạng sức khỏe thể chất và tinh
thần của tôi không tốt bằng khi
mang thai hai đứa đầu.
Với đứa thứ nhất, tôi trong thời kỳ sung sức nhất ; tuy đã có bằng nha sĩ, tôi vẫn chưa hành nghề vì muốn cống hiến toàn bộ cho việc giáo dục con, ít ra cũng trong những năm đầu tiên của con mình.
Trong
thời gian mang thai, tôi đã rất cẩn
thận theo lời khuyên của các bác
sĩ nhi, đặc biệt những lời khuyên
trong cuốn sách của BS Laurence Pernoud và
những lời khuyên của bà mẹ chồng
xuất phát từ truyền thống Việt
Nam.
Đó
là những chế độ dinh dưỡng,
các món ăn giàu sinh tố, nhất
là nhân sâm được mẹ chồng
bồi dưỡng, hay những buổi đi dạo
thư giãn hàng ngày.
Mỗi ngày, tôi xen kẽ việc đọc sách (thường là những tiểu thuyết về các anh hùng trong lịch sử Việt Nam hay những tiểu thuyết võ hiệp Trung Hoa) với việc đi dạo đều đặn của gia đình, nhắm có được sự hài hoà cho cả thể xác lẫn tinh thần.
Khi bé sinh ra, ông bác sĩ nhi ca ngợi tôi đã cho ra đời “cậu bé đẹp nhất” mà ông từng được thấy. Và dù tôi ngờ rằng ông cũng tế nhị như thế với mọi bà mẹ trẻ, tôi vẫn sẵn lòng tin ông, vì quả là đứa bé đẹp thật !!!
Đứa
con trai thứ hai của tôi ra đời hơi
bất ngờ sau đó hai năm.
Và
trong mắt tôi cậu bé không chỉ
đẹp như anh, mà còn tỏ ra là
đứa bé toàn thiện toàn mỹ.
Mặc dù có những vấn đề nho nhỏ về sức khỏe giống như mọi đứa trẻ, hai cậu con trai lớn lên dễ dàng và trở thành hai đứa trẻ thật đáng yêu.
Hai
năm sau khi đứa con thứ hai ra đời,
tôi bắt đầu hành nghề của
mình.
Trong
suốt những năm ấy, cuộc sống gia
đình và đời sống nghề
nghiệp của tôi có một nhịp điệu
sôi động giữa các bệnh viện,
phòng mạch, phòng răng, những bận
bịu gia đình, việc trông nom các
con, việc kèm chúng học hành. Thêm
vào đó là những thử thách
và biến chuyển của đại gia đình
của tôi và Đất Nước.
Tôi vắt sức mình và đòi hỏi rất cao trong việc dạy dỗ con cái, vì vậy tôi không còn sung sức nữa, cả về thể chất lẫn tinh thần.
Phải chăng là : sự mất sức ấy, những
hậu quả có
thể do một dụng cụ X quang
cũ kỹ trong phòng răng, những buổi sát hóc môn lên ngực, hay sự phối
hợp của
tất cả nguyên nhân trên, dã làm thay đổi các thành tố sinh lý học của
tôi ?
và khiến cho tám năm sau sự ra đời của đứa con cả,
tôi đã sinh hạ một bé gái đáng yêu về mọi mặt nhưng không may lại bị
nhiễm
Trisomie 21 .
Việc cháu gái bé đến với tổ ấm của
chúng tôi đã
là một sự kiện .
Những buổi cầu nguyện trước bàn thờ Phật và bàn thờ
tổ tiên trở nên tha thiết hơn , so với những buổi cầu nguyện cho hai
đứa anh .
Ngay những ngày đầu, chồng tôi đã đem về nhiều sách khảo cứu về bệnh Trisomie 21, về sự giáo dục đặc biệt đối với những đứa trẻ mắc bệnh ấy, về những sự săn sóc đặc thù phải dành cho chúng .
Làm bộ vui vẻ để giấu bệnh tật của đứa con gái đã là nỗi đau khổ lớn đối với chúng tôi .
Và chính cuộc gặp gỡ đầu tiên với Giáo
Sư
Réthoré, người đã đóng vai trò
thật tốt lành trong cuộc đời của Thuỷ, đã giúp chúng tôi ra khỏi nỗi
tuyệt vọng
và mang lại hy vọng cho chúng tôi .
GS Réthoré đã giúp chúng tôi chấp nhận bệnh tật của
Thuỷ, đối mặt với nó để giúp nó giảm bớt .
Trong ba đứa con của chúng tôi, Thuỷ đã
được
buổi tiệc thôi nôi thực sự
thịnh soạn, hai cuộc hội dải ra hai tuần lễ dành cho gia đình và bạn
bè, mỗi
cuộc tập họp hơn 60 khách mời .
Thuỷ mặc một chiếc áo
đầm màu hồng đậm tôn lên nước
da màu hồng đào của cháu. Mái tóc lơ thơ và một bên tai bị giỏng của
cháu được
che đi một cách nghệ thuật bằng chiếc mũ mềm được sáng tạo nhằm đạt
hiệu quả
ấy. Gương mặt xinh xắn của cháu làm vinh dự cho cả gia đình .
Những
người có mặt liệu có nghi ngờ điều gì không ?
Dù sao , mọi người đều rất vui vì buổi tiệc và khen
ngợi Thuỷ vì nước da đẹp đẽ của cháu .
Suốt năm ấy, chúng tôi đã dành cho cháu tất cả lòng thương yêu và trìu mến, và điều ấy khiến cho chúng tôi và cháu thật gần gụi .
Nói cho đúng, Thuỷ không thực sự chậm
phát
triển, những điều cháu thu nhận
được cũng gần bằng những đứa bé cùng tuổi.
Đó là sự khích lệ rất lớn đối với chúng tôi .
Sau buổi thăm khám đầu tiên trong phòng
mạch
của GS Réthoré, bà đã kê cho
cháu những thứ thuốc dùng trong sáu tháng.
Những thuốc này chủ yếu nhắm bù đắp những thiếu hụt
về a xít amin và làm dịu thần kinh.
GS Réthoré, người mà chúng tôi không
bao giờ có
thể ca ngợi cho đủ tài trí
và lòng tận tụy, được chúng tôi thông tin đều đặn về sự phát triển của
Thuỷ,
cân nặng, chiều cao, các phản xạ và sự thu nhận .
Tôi luôn nhớ hôm bà báo tin với chúng tôi là bà
thấy Thuỷ lanh lợi và ít bị tác động xấu của bệnh tật .
Thât như một tia nắng xuyên qua bóng tối, điều này
là phần thưởng đẹp đẽ cho mọi thử thách và mọi nỗ lực của chúng tôi .
Lúc ấy, ký ức tôi hiện lại một cách lộn xộn những giờ dài tôi bế Thuỷ trong lòng, những giờ dài tôi cố chuyển sang cháu tất cả sức mạnh trong tôi, những giờ dài tôi cầu nguyện cùng cháu và cho cháu trước bàn thờ, xin Đức Phật Thích Ca và Đức Quán Thế Âm Bồ Tát thương xót và ban phước lành cho cháu .
Ước muốn thiết tha Thuỷ có thể giống như những đứa trẻ khác trở thành sự ám ảnh thường trực, lẽ sống và cuộc sống của tôi .
Trong những buổi thăm khám đầu tiên, tôi đã hỏi GS Resthoré những câu mà mọi bậc cha mẹ của những đưa trẻ bị khiếm khuyết về tinh thần đều hỏi: “Con gái tôi sẽ biết làm gì?”, “sẽ biết đọc không?”, “biết viết”, “biết nói”?
“Phải, bé sẽ biết nói, bé sẽ biết làm gần như tất cả mọi việc giống như những đứa trẻ khác nhưng là theo nhịp điệu của bé, chậm chạp, và trình độ hiểu biết sẽ liên quan đến mức độ của bệnh. Đối lại, bé sẽ không thể học được những việc trừu tượng như xướng âm, lái xe hơi.”
Mỗi lúc tôi đều thầm điểm trong óc cái danh mục những điều mà Thuỷ sẽ biết hay không biết làm .
Cuộc sống xoay quanh Thuỷ như thế giống như một màn sương mù dày đặc.
Tôi cố cho mình một cụôc sống gia đình và nghề nghiệp bình thường, tham gia hoạt động với cường độ cao qua các hội đoàn xã hội và từ thiện . Nhưng đó cũng chỉ là bề ngoài .
Ở nhà, tôi dành hầu hết thời gian chủ
yếu để
dạy Thuỷ học đọc với những
phích liệt kê các bộ phận chính của cơ thể người, lấy cảm hứng từ một
cuốn sách
dịch của tác giả người Mỹ Glen Doman.
Sau đó tôi mới biết rằng phương pháp này được dành
cho việc đào tạo những đứa trẻ siêu thông minh!
Dẫu sao thì đến 18 tháng tuổi, Thuỷ đã
thuộc
lòng khoảng một trăm từ.
Và cháu tiếp tục cần cù học tập trước khi đến
trường mẫu giáo, rồi sau đó đến một lớp học mẫu ở đó cháu có thể tiếp
nhận một
nền giáo dục học đường rất thích nghi, cho đến lớp hai .
Sau đó, cháu theo học những cơ sở giáo dục –chữa
bệnh gồm các lớp học có sĩ số rất nhỏ .
Hai anh trai của Thuỷ lớn lên trong
hoàn cảnh
ấy, hoàn cảnh chắc là rất
thất vọng đối với chúng, vì tất cả sự chú ý đều được dành cho Thuỷ .
May sao, hai cháu có bản chất nhân hậu và chắc
chúng nghĩ rằng em gái mình, một cô bé, hơn nữa cô bé rất
mảnh mai, phải
giành được mọi sự chăm sóc của gia đình.
Không chỉ không hề cảm thấy bực bội vì Thuỷ chiếm
hết không gian gia đình, mà bản thân hai cháu còn lo toan cho em một
cách yêu
thương và dịu dàng, lấp đầy những lúc hiếm hoi chúng tôi vắng mặt .
Và trong thử thách ấy, chúng có phần may mắn vì
không những phải tự cáng đáng hoàn toàn, chúng còn phải cáng đáng cả
bệnh tật
của cô em gái.
Và thực sự chúng đã trở nên hoàn toàn có tinh thần
trách nhiệm ngay từ khi còn bé.
Chỉ đến sinh nhật thứ tám của Thuỷ, khi
hai anh
của cháu lên 17 và 15,
chúng tôi mới nói chuyện dài dòng với hai cháu về căn bệnh quái ác đã
đánh vào
em gái chúng.
Cũng như sự may mắn cho Thuỷ được sinh
ra trong một gia đình hòa hợp, tận tụy và gắn kết trong thử thách, và
sự may
may mắn cho hai anh vì có thể tự rèn rũa và cống hiến một phần cuộc đời
của
mình cho những người khác.
Và phần thưởng lớn nhất của chúng tôi là được nghe
hai cậu con trai bảo đảm với cha mẹ rằng chúng luôn luôn chăm lo đầy đủ
cho
tương lai của Thuỷ.
Trong suốt tuổi thơ, Thuỷ thường mắc
chứng viêm
tai và nhiễm trùng mắt. Lúc
cháu mười tháng tuổi chúng tôi đã phải cắt bỏ chỗ sùi vọm họng .
Nhất là cháu bị tiêu chảy hàng ngày, và đến mức
chúng tôi tự hỏi không biết cháu có vượt qua nổi hết những bệnh tật ấy,
vì cháu
đã trở nên thật mỏng manh .
Thế là thời gian của chúng tôi bị chia ra giữa các phòng mạch nhi khoa, và Thuỷ uống hết thuốc này đến thuốc nọ, tiêm hết mũi này đến mũi nọ .
Tình cờ, hay đúng hơn là nhờ
cơ duyên
phúc đức mà chúng tôi tìm lại
được ông bác sĩ nhi khoa của hai anh cháu, BS Bissery, khi ông đang
chuẩn bị về
hưu.
Chính BS Bissery chứng minh rằng Thuỷ dị ứng với
sữa bò, chứng này thường có ở những đứa trẻ mắc bệnh Trisomie 21.
Tôi còn nhớ nhãn hiệu của loại sữa thay thế,
Nutramigen, có gốc đậu nành, bán ở hiệu thuốc của các bệnh viện Paris,
đã làm
cho Thuỷ hồi sinh .
Thật tôi không biết được một cách chính xác làm thế nào đã tìm được đủ ý chí và sức mạnh để vượt qua những năm thử thách ấy, và tôi chỉ đơn giản gán nó cho cái sức mạnh bất tận mà mọi người mẹ đều có ngay, khi sự sống của những đứa con họ bị đe dọa .
Trong suốt thời kỳ này, cuộc sống của
tôi phụ
thuộc vào cuộc sống của Thuỷ.
Sự trìu mến ấy, sự trìu mến của cha cháu và hai anh
cháu đã giúp cháu phát triển, đứng lên và trở thành một cô gái thật
đáng yêu,
đầy thiện tâm và ý thức được những hy sinh của những người thân xung
quanh mình
và quyết nỗ lực để xứng đáng với những hy sinh ấy .
Vào đầu thế kỷ 21, Thuỷ cũng đến tuổi 21.
Ngoài ba ngày trợ học trong một cơ sở tư nhân, mỗi tuần cháu theo hai khóa hội họa, một khóa piano và một khóa Aikido .
Cháu mê bơi và bơi sải rất đẹp. Người ta biết những đứa trẻ mắc bệnh Trisomie 21 rất thích trạng thái mất trọng lượng trong môi trường nước.
Cháu giao lưu đều đặn với các anh qua email và rất khéo léo trong việc sử dụng máy tính. Cháu cũng say mê các trò chơi tin học.
Thật vậy, Thuỷ tò mò mọi thứ và thích làm mọi thứ.
Chuyện của Thanh Thuỷ, 12 năm sau
Năm
2000 Thuỷ đóng góp một cách rất
biểu tượng vào đám cưới
của anh cả.
Tấm
thiếp báo hỷ mà mọi người
đều thấy tuyệt vời là tác
phẩm của cháu.
Mô
típ là cảnh mặt trời lên ngời
sáng, mặt trời hiện ra dưới hình
dạng một trái tim Đám cưới
này thật quan trọng đối với chúng
tôi, vì đó là đám cưới
đầu tiên trong gia đình và
nhất là đó là phần thưởng
xứng đáng cho con trai cả sau bao năm
tận tụy với em gái.
Từ khi Thuỷ ra đời, chúng tôi đo rất rõ sự hy sinh tự nguyện cúa hai anh cháu, khi mà đời sống gia đình và tất cả sự chú ý của chúng tôi có thể nói là hoàn toàn dành cho Thuỷ; để bù đắp phần nào cho sự khuyết tật sẽ không bao giờ cho cháu một cuộc sống bình thường của các cô gái cùng trang lứa.
Và
hai anh cháu đã phải tự cáng
đáng từ lúc rất trẻ.
Sớm
biết sẽ phải chăm lo cho em thường
trực và mãi mãi, hai con chúng tôi
đã đạt được tinh thần
trách nhiệm và sự chín chắn,
thể hiện ở một ý chí mạnh
mẽ vượt qua chính mình và một
nghị lực lớn lao để thành
công.
Hai
cháu đã thành công xuất sắc
trong học tập, đạt bằng “tối
ưu” trong kỳ thi tú tài và được
vào những trường đại học lớn
danh tiếng của Pháp và Mỹ.
Thái độ sống của hai người anh, lòng hiếu thuận, tình yêu thương với em gái, cũng là từ tâm đối với tha nhân, và nhất là sự gắn bó mà có thể nói là sự ảnh hường lẫn nhau của hai cháu là sự bù đắp lớn lao cho chúng tôi và giúp chúng tôi chịu đựng dễ hơn những khiếm khuyết của Thuỷ.
Chúng tôi cũng vui sướng vì hạnh phúc của con trai cả đã tìm được người vợ có thể thực hiện một đời sống gia đình tràn đầy hy vọng và các dự tính.
Với
Thuỷ, sự kiện này tạo nên một
thay đổi lớn.
Kể
từ nay, anh cả của cháu sẽ rất
ít có mặt, chức trách của anh
buộc gia đình anh định cư ở
Nữu Ước và sau đó là Luân
Đôn.
Vốn
quen với sự có mặt của anh ít
ra hằng tuần, Thuỷ sẽ chỉ được
gặp anh có ba bốn lần trong năm.
Chắc
hẳn cháu cảm thấy rất đau đớn,
cho dù với bản tính rất kín
đáo cháu ít để lộ
tình cảm ra ngoài. Giống như mọi
đứa trẻ mắc hội chứng Down –
Trisomie 21, cháu cần có những điểm
tựa vững chắc để cảm thấy
được an toàn.
Và
với cháu, gia đình có những cột
mốc là cha mẹ và hai anh.
Toàn
bộ tình cảm của cháu chuyển
sang người anh thứ hai, trong khi cháu giữ
liên lạc với anh cả thông qua điện
thoại và thư điện tử.
Khi
đến lượt người anh thứ
đạt được hạnh phúc khi gây
dựng mái ấm của riêng mình thì
Thuỷ lại lâm vào một giai đoạn
xáo trộn mới.
Từ lúc 16 tuổi, Thuỷ trở thành một cô gái yêu kiều, xinh đẹp, nhí nhảnh, tinh tế và sống động.
Thời
dụng biểu của cháu được chia
sẻ giữa một trường học tư ở
Paris, những khóa học vẽ, học aikido,
bơi và piano.

Cháu
đam mê nhất là vẽ, với những
sáng tác cho các anh và các chị
dâu nhân những sự kiện quan trọng
như đám cưới, sinh nhật…
Chẳng
hạn bức tranh con hổ bên đây,
vẽ tặng người anh thứ hai cầm tinh
con hổ, được cháu thực hiện
trong những buổi học ở phòng tranh Arc
en Ciel, tại thị trấn Antony.
Lớn
lên, giống như mọi cô gái, bất
kể khuyết tật hay không, Thuỷ cảm
nhận nhu cầu mạnh mẽ được tự
quản đối với cha mẹ. Tình cảm
này lúc ấy chúng tôi chưa nhận
thức được, vì luôn luôn coi
cháu như một em bé lớn phải được
bao bọc mãi mãi, và chúng tôi
tin chắc rằng tình yêu thương của
chúng tôi hoàn toàn đủ cho
cháu.
Đó
cũng là cách hành xử thường
thấy ở các bậc cha mẹ có con
cái khuyết tật.
Không những thế Thuỷ đã được dạy dỗ một cách chặt chẽ theo lề lối Việt Nam và hẳn là cháu đau đớn chịu đựng sự ân cần tràn ngập của chúng tôi mà không thể biểu tỏ thực sự tâm trạng ấy, lại càng không thể cưỡng lại được.
Cũng
như để khẳng định nỗi thèm
khát được tự quản đối
với cha mẹ, chẳng bao lâu sự gắn
bó của cháu với hai người anh
trai càng trở nên tha thiết, vì cùng
lứa tuổi .
Điều
ấy khiến cho giai đoạn sống này
thường đầy xung đột, và đòi
hỏi về phần tôi nhiều khéo
léo và biết cách xử sự để
cho những buổi xum họp gia đình bớt
căng thẳng .
Cháu
bắt đầu đo khoảng cách giữa
mình và những người khác, bắt
đầu trải nghiệm những tình cảm
cô đơn và nổi loạn, phản ứng
với điều mà cháu thấy như
một sự bất công.
Thêm
nữa, cá tính và bệnh tật của
cháu kìm hãm cháu giao tiếp, và
thực sự không hiếm khi cháu bị
trách mắng một cách bất công về
những lỗi mà cháu không làm.
Nhất
là cháu có ý thức về những
khuyết tật về trí tuệ của mình
so với hai anh. Đây không phải là
sự ghen tuông đối với các anh,
những người cháu rất hâm mộ,
mà là một sự không hiểu được
vì sao mình không thể bằng các
anh.
Không
hiếm khi có người hỏi cháu học
những môn gì ở trường tư mà
cháu theo học, cháu đã trả lời
là môn toán hay lý.
Trong
khi thực ra trường này chuyên dạy
những căn bản để thích nghi với
đời sống hàng ngày như mua sắm,
rửa chén đĩa, hay dọn bàn
ăn.
Chúng
tôi vẫn thường thật xúc động
khi nhớ lại những buổi dài cháu
hết sức loay hoay một mình giải những
bài tính cộng đơn giản.
Việc
vẽ tranh của cháu cũng thăng trầm
theo cảm nhận của cháu về thực
tế cuộc sống, dễ chịu hay là in
dấu những thất vọng.
Các
bức tranh của cháu bộc lộ những
tình cảm bên trong. Khi thì rực rỡ
sắc màu, từ xanh lam thắm sang hồng
thắm, khi âm thầm màu xám hay đen
thể hiện những ngôi nhà trơ trọi
với cửa ra vào và cửa sổ đóng
kín bưng, hay những nét cọ màu
đen xáo động. Nhưng bao giờ cũng
rất biểu cảm.
Phản
chiếu những trạng thái tâm hồn
từng lúc, tranh của cháu gây xúc
động bởi sự sống động, giàu
tình cảm, và ngay cả sự ngây
thơ.
Tùy
theo giờ rảnh của các thầy dạy
vẽ, Thuỷ xen kẽ những khóa học ở
nhà với những khóa học chung ở
phòng tranh Arc en Ciel tại thị xã Antony;
ở đó thấy rõ niềm hãnh
diện của cháu vì được là
một học sinh giống như các học
sinh khác.
Nhờ
rất nhiều cơ may và cũng do kết
quả sự tìm kiếm khắp nơi của
chúng tôi, cháu luôn luôn có
được những người thầy giỏi,
chuyên nghiệp, nhưng nhất là có
tấm lòng.
Trong nhiều năm, chúng tôi luôn đòi hỏi cháu. Mỗi ngày của cháu đầy ắp từng phút, xen kẽ giữa nhà trường với những khóa học tư.
Trải
qua nhiều năm, chúng tôi thay nhau bảo
đảm cho Thuỷ một cuộc sống đầy
đủ nhất có thể được, để
bù lại phần nào sự không may
của cháu.
Gia
đình các con chúng tôi cũng luôn
cố gắng liên tục để làm cho
cuộc sống của Thuỷ được vui
vẻ.
Các
cô cháu gái nội của chúng tôi
rất chú tâm đến người cô
của chúng.
Đứa
cháu lớn, ngay từ lúc lên năm đã
hiểu nỗi đau của chúng tôi trước
bệnh tật của Thuỷ.
Một
hôm chúng tôi thật xúc động
và thoả mãn khi bắt chợt câu
chuyện cháu nói với đứa em gái.
Cháu giải thích cho em rằng không
phải khi nào vui thích mới yêu thương
cô, mà đó cũng là bổ phận
của hai chị em.
Tuy
nhiên, với thời gian và gánh nặng
tuổi tác, chồng tôi bắt đầu
mệt mỏi vì những nỗ lực hằng
ngày trong mấy chục năm, về thể
xác nhưng nhất là về tâm thần,
và tình thế có lúc đường
như không lối thoát và không thể
vượt qua đối với chúng tôi.
Về
phần tôi, phải dành tất cả sức
lực cho một nghề nghiệp đòi hỏi
trí óc lẫn chân tay, và vào
việc dạy dỗ Thuỷ nên sức
khỏe bắt đầu giảm nhiều, hậu
quả của những sự thúc bách gần
như thường trực. Tôi bắt buộc
phải về hưu trước kỳ hạn vì
thiếu khả năng thể lực.
Đối
với Thuỷ việc nghỉ hưu của tôi
làm cho cuộc sống của cháu bị
đảo lộn nhiều.
Thoát
khỏi những bận bịu về nghề nghiệp
và thường xuyên ở nhà, sự
hiện diện liên tục của tôi là
một sự gò bó đối với
cháu, vào lúc tuổi của cháu
đòi hỏi nhiều sự nới lỏng
mối ràng buộc với cha mẹ.
Cùng lúc, đám cưới và sự ra đời của các cháu gái khiến hai anh ít có mặt hơn nên Thuỷ cảm thấy như mình bị bỏ rơi.
Bắt
đầu cho Thuỷ một giai đoạn xáo
trộn lớn về tâm lý, kèm theo
chứng ăn vô độ khiến chúng
tôi cảm thấy bất lực, nhất là
chúng tôi tin chắc đã tận hiến
những gì tốt nhất của đời
mình cho cháu.
Để
đáp ứng, chúng tôi tìm cách
có mặt nhiều hơn và chăm sóc
hơn nữa cho cháu, trong khi giải pháp
là ngược lại.
Nhưng
điều này mãi về sau chúng tôi
mới thấu hiểu.
Tuy
chúng tôi đáng lẽ phải được
cảnh báo từ trước, vì từ
lúc Thuỷ ở độ tuổi 20, khi chúng
tôi dẫn cháu đến chơi nhà
bạn bè, cháu thường hỏi có
đông người “về hưu sớm”
hay không ?
Mỗi
cuối tuần, cháu sốt ruột ngóng
chờ cha mẹ ra khỏi nhà để được
tự do một mình !
Cháu không còn thích gắng sức, bỏ bê việc bơi, tập võ, tập đàn và xướng âm.
Tiếp
theo là những năm dài đi thăm khám
các nhà tâm lý học và bác
sĩ tâm thần.
Có
lúc, kiệt sức cả về tinh thần
lẫn thể xác, chúng tôi sẵn sàng
theo lời khuyên của một vài thầy
thuốc cho cháu uống các loại thuốc
an thần, nếu không có sự phản
đối quyết liệt của các anh cháu
và nhờ xem một buổi phát tivi kể
lại những tác hại của việc sử
dụng chúng, do một nữ tài tử
Pháp thực hiện dựa trên kinh nghiệm
của chính người em gái (theo tôi
nhớ thì đó là Sandrine Bonnaire).
Có người khác gợi ý đưa Thuỷ vào nhà nuôi người khuyết tật. Chúng tôi đã đi thăm nhiều nơi ấy và trở về với sự ngao ngán vì những điều kiện ở đấy thật khó chịu đựng cho Thuỷ, vốn có rất nhiều khả năng nghệ thuật.
Cuối
cùng lời đáp chủ yếu đến
từ bác sĩ Martin, người mà chúng
tôi biết ơn một cách sâu sắc.
Với lòng nhân từ và tình
thương người, ông đã
thuyết phục chúng tôi áp dụng
cách cư xử với Thuỷ : tách xa
cháu càng nhiều càng tốt, để
cháu có thể có đời sống
riêng của mình :
“Xa
ngõ gần lòng”, bác sỹ Martin
nhớ lại một câu cách ngôn phương
Đông.
Nhờ
sự kiên trì của ông và sự
khuyến khích của các anh và các
chị dâu cháu, chúng tôi nảy ra
ý tưởng về một chỗ ở độc
lập cho Thuỷ.
Thêm
nữa, khủng hoảng kinh tế khởi sự
ở Mỹ và lan rộng sang châu Âu,
cùng nỗi lo sợ các ngân hàng
phá sản đã khiến chúng tôi
quyết định rút tiền tiết kiệm
để xây chỗ ở cho cháu ngay tại
nhà.
Chúng
tôi may mắn sở hữu một ngôi nhà
có vườn rộng và có thể
xây một chỗ ở riêng biệt cho Thuỷ
ở cuối vườn.
Điều
ấy cho phép cháu sống một đời
sống tương đối tự quản, và
cho chúng tôi khả năng trông chừng
cháu một cách kín đáo.
Thuỷ thờ ơ nhìn tất cả những sự tới lui ấy. Điều này khiến chúng tôi lo cháu từ chối di chuyển chỗ ở.
Nhưng
ngày mọi sự đã sẵn sàng
cho việc dọn nhà chúng tôi rất
ngạc nhiên vì cháu không chần
chờ chuyển vào chỗ ở mới của
mình.
Từ
đấy rất hiếm khi cháu quay lại
căn buồng cũ.
Như
vậy chúng tôi đo được nhu cầu
lớn lao được tự quản và được
tách khỏi cha mẹ của cháu.
Tổ
chức đời sống mới này không
hề đơn giản.
Chúng
tôi phải phân thân giữa hai nơi ở,
công việc hàng ngày nhân gấp
hai, cũng như các khoản chi tiêu. Tình
thế thật không dễ quản lý.
Dần
dà, với rất nhiều cố gắng, tôi
đã thu xếp được công việc
hàng ngày và tìm được
người đủ năng lực trông nom
cháu.
Ban đầu khi những người có trách nhiệm lo cho cháu vắng mặt, cháu sang ăn cơm với chúng tôi bên nhà cũ, nhưng sau một năm, cháu biểu hiện ngày càng có nhu cầu hoàn toàn tự quản, đòi ăn cơm trong “căn lều” của mình, theo cách nói của cháu.
Nhờ được GS Réthoré ở Viện Lejeune – Paris theo dõi sức khỏe thường xuyên và nhờ các thứ thuốc được kê nhằm làm giảm khiếm khuyết của cháu, chủ yếu là acide folique, selen, và bởi vì bệnh của cháu còn nhẹ, Thuỷ đã có thể theo một cấp học chuẩn cho đến lớp Sơ yếu 1.
Với sự cố gắng động viên của chúng tôi, cháu đã biết đọc và cũng viết được một ít. Điều này giúp cháu hiểu các từ và cả các nốt nhạc khi bắt đầu học piano và bộ gõ.
Cháu
cũng may mắn có được trí nhớ
rất tốt, điều này cho phép cháu
nói được hoàn hảo hai thứ
tiếng, và nhớ được đầy
đủ các việc phải làm, nhất
là khi những việc ấy lặp đi lặp
lại, như đặt và dọn bàn ăn,
rửa bát đĩa.
Trong
chừng mực những việc ấy hợp với
ý muốn của cháu.
Trong những lúc vui vẻ, cháu đọc nhiều lời nhắn mà tôi viết ra, chơi đàn điện tử, chơi bộ gõ.
Việc
điều trị hiện thời của cháu,
phối hợp levothyrox-acide folique- selen, dường
như thuận lợi cho sự cân bằng thể
chất và trí tuệ và cho phép
cháu giữ được sự suy
lý rõ ràng.
Thành
thử việc học tập về mặt trí
tuệ của cháu giữ được
bền vững.
Sự chống đối và thái độ ương ngạnh là những đặc tính của người bị chứng Trisomie 21. Thời kỳ niên thiếu của cháu chậm hơn và kéo dài hơn, từ tuổi 20 đến 30.
Trong
nhiều năm, đời sống gia đình
xoay quanh Thuỷ, ít nhiều có thể chịu
được.
Sự
nâng đỡ và tình thương yêu
của hai anh và các chị dâu cháu
thật là quý giá đối với
chúng tôi.
Chúng
tôi đã tìm được người
để gửi gắm Thuỷ các buổi
chiều, trong ngôi nhà mới của
cháu.
Chúng
tôi đã có thể thoát ra khỏi
bổn phận ràng buộc mình vào
bệnh tật của Thuỷ và bắt đầu
một cuộc sống gần như bình
thường, như đi thăm các con đang
sống ở nước ngoài, chăm sóc
các cháu nội, những đứa bé
thật xinh đẹp và ngây thơ.
Sự
ra đời kế tiếp của những đứa
cháu nội của chúng tôi đã
thật lợi lạc cho Thuỷ và cho chính
chúng tôi.
Với
chúng tôi, lẽ tự nhiên là một
niềm vui lớn, nhưng nhất nó
là phương tiện chuyển giải để
chúng tôi thoát khỏi cảnh gắn
chặt vào Thuỷ, còn với Thuỷ, đó
là sự nới lỏng sự hiện
diện của chúng tôi.
Trong
cuộc sống đã trở nên khá
ổn định ấy, những cuộc thăm
viếng thường xuyên của các anh
cháu – gia đình của người
anh thứ hai dọn đến sống gần nhà
chúng tôi – là những thời khắc
thật vui của cháu.
Nhất
là khi các anh cháu mời bạn bè
đến chơi. Họ cũng là bạn của
cháu, vì Thuỷ thường đi theo các
anh đến chơi nhà bạn, và mọi
người đều chăm sóc cháu thật
chu đáo.
Thuỷ
cũng có nhiều may mắn được
các chị dâu coi cháu như em ruột,
vì lòng cảm thương cháu và
tình yêu với các anh cháu. Đáp
lại, Thuỷ biểu tỏ sự gắn bó
với các chị, không hiếm khi cháu
đòi có chị dâu hơn là có
anh.
Nơi
ở mới của cháu có sân phía
trước, phía sau, với một thảm cỏ
điểm hoa tươi.
Một
môi trường thanh cảnh góp phần
làm dịu tinh thần của cháu.
Cháu
có một xưởng vẽ nối với
buồng ngủ, ở đó cháu thể
hiện được tất cả kho tàng
cất giữ trong mình vào bất cứ
lúc nào trong ngày, rất sớm ngay khi
mặt trời mọc, rất muộn lúc chiều
xuống. Những tình cảm cháu giữ
kín có thể bừng nở thành muôn
màu sắc rực rỡ.
Có
lúc, khi những thử thách do sự
khuyết tật của cháu trở nên quá
nặng nề, tôi tự an ủi bằng
cách nhớ lại những truyền thuyết
Việt Nam xưa, kể lại chuyện những
nàng công chúa con Ngọc Hoàng Thượng
Đế bị đày xuống trần vì
lỗi lầm nhẹ, và Vua Cha chọn cho các
nàng một gia đình giàu lòng
thương yêu để họ sống trong
thời gian dưới trần.
Hay
là cái tư tưởng Trung Đạo
của Phật giáo in sâu trong ký ức
người Việt, cho rằng nếu sự khuyết
tật của Thuỷ là một thử thách
gian khổ đối với gia đình tôi,
thì nó cũng cho phép chúng tôi
phát triển những tình cảm trách
nhiệm và từ tâm của mình, không
riêng dành cho Thuỷ, mà còn cho
những người bất hạnh khác.
Và
thử thách mà chúng tôi phải
chịu chỉ là quả báo của nghiệp
hành trước đó.
Sự
ra đời của các cháu nội đưa
tôi vào một thế giới mới, thế
giới những tiếng cười, những dự
tính.
Tôi
hết lòng hiến cho những đứa bé
mới chào đời đáng yêu ấy
những gì tốt đẹp nhất của
mình để bảo đảm cho chúng
một tương lai sáng lạng.
Cũng
như mọi bệnh nhân hội chứng Down –
Trisomie 21, Thuỷ có sự nhạy cảm quá
mức. Khía cạnh tâm lý cực kỳ
quan trọng và chúng tôi nhận thấy
rằng một khung cảnh gia đình hài
hoà và thấu hiểu rất lợi lạc
cho cháu.
Ngược
lại, những mâu thuẫn trong gia đình,
dù thật nhỏ, làm cho cháu đau
khổ, vì cháu rất khó quên thải
được chúng.
Tuy
vậy trong hoàn cảnh nhất định,
cần có nhiều kiên quyết đối
với cháu, vì cháu ít hiểu
được những sự bó buộc của
đời sống xã hội.
Cháu thích nhất những lúc ở bên các anh, xem các đĩa DVD ca múa tiếng mẹ đẻ, hay đi mau sắm những món đồ cháu ưa thích.
Bước vào năm 2012 này, Thuỷ bắt đầu thực hiện cuộc sống độc lập của mình!
Cũng trong năm 2012, Sáng hội Lejeune (http://www.fondationlejeune.org) - tên đặt theo GS Jérôme Lejeune, người đã khám phá ra nguyên nhân của hội chứng Down (trisomie 21) vào năm 1958, đó là một nhiễm sắc thể phụ trên cặp 21 – đã tiếp tục theo đuổi công việc của ông, nêu lên sự có mặt quá nhiều di thể (gène) của nhiễm sắc thể 21 để giải thích những rối loạn quan sát thấy ở những bệnh nhân trisomie 21.
Sự biểu hiện quá mức của enzyme CBS mà Jérôme Lejeune nghi ngờ là một nhân tố quan trọng để giải thích sự khiếm khuyết về trí năng, gần đây đã được chứng minh ở chuột.
Sáng hội bèn nghiên cứu một chất để ức chế enzyme này. Một bằng sáng chế về một họ phân tử có tiềm năng ức chế CBS đã được trình toà vào cuối năm 2011. Một thử nghiệm trên động vật đang được tiến hành để kiểm chứng hoạt động đã thấy được trong ống nghiệm.
Sáng hội Jérôme Lejeune cũng theo đuổi và nâng đỡ những chương trình khác, gồm cả những thử nghiệm lâm sàng tiến hành vào năm 2011 và 2012.
Một trong hai thử nghiệm ấy, thực hiện ở Tây Ban Nha, với tư cách đối tác của Sáng hội, là về EGCG (gallate d’epigallocatechine). Phân tử này thực sự có khả năng cải thiện những năng lực nhận thức của người mắc chứng trisomie 21.
Thuỷ sẽ không được hưởng những kỹ thuật tiên tiến ấy, nhưng chúng tôi rất mừng cho những gia đình có con bị chứng Trisomie 21 còn nhỏ tuổi.
Hoàng Thị Ngọc Dung
Các thao tác trên Tài liệu