Đắng như là vắng
Đắng như là vắng (*)
Lê Minh Hà
Vườn nhà bác Hiến nằm ngay góc
ngõ trên, sát bờ đê, ấp
sau nhà của bà. Sểnh ra tôi hay trốn
mắt bà, nhảy xuống hè rúc vào
vườn nhà ông Tha kề bên rồi
chạy ngược lên, qua vườn nhà
bác Hiến nữa mà bà không gọi
là coi như tự do.
Ông Tha ở tận đầu làng mà
vườn lại ở xóm nhà tôi.
Còn bác Hiến thì ở tận đâu
đâu tôi không biết lại có
vườn ở làng. Mãi tới hôm
nhà có khách, tôi mới biết đấy
là bác Hiến và bác cũng ở
Hà Nội như nhà tôi. Bác từ
Hà Nội về thăm vườn. Vườn
nhà bác mênh mông, quanh năm chỉ
trồng độc dong giềng chẳng phải
chăm bón gì, nói là về thăm
vườn chứ thực ra bác về giải
quyết chuyện nó có là của bác
nữa không.
Nó là của bác, nhưng bác
không cần sống bằng nó, thế là
nó thành nơi bao nhiêu con mắt họ
hàng nhòm nhỏ vào, nhất là
nhà nào đông khẩu lại lắm
con giai. Chỗ đó phạt bớt dong giềng
đi mà xây lên ba gian nhà ngói
thôi thì đẹp quá. Bước dấn
dăm bước là lên tới đầu
cầu, là ra tỉnh. Đi ngang mặt đê
là bến nước. Còn lại là
vườn tược, chòm xóm chẳng
có ai chung sân chung rào, tha hồ một
mình một khoảnh. Ai có nhòm cũng
là có mắt lắm. Tôi cũng nhòm.
Ở với bà, tôi có thói quen đi
đâu cũng nhìn ra đủ thứ lá
lẩu quả hạt xơi được. Góc
vườn nhà bác ngay sát ngõ trên
nơi mà tôi hay chạy lên chơi với
cái Tân chị họ có một cây
núc nác chỉ cao quá bờ rào
xương rồng lẫn cúc dại lẫn
lạc tiên một tẹo, từ bờ đê
đứng nhón chân với tay lên là
hái được dăm ba lá, nếu còn.
Chờ cơm lên hơi thì cho vào hấp,
chiếc lá nõn xìu xuống, mềm
ra, màu thẫm lại, đắng thụt lưỡi,
cả chỗ cơm đặt đọt lá
lên hấp cũng đắng mèo chê
không ăn. Lá núc nác đắng
rất lạ, không giống vị đắng
của khổ qua, lá đu đủ hay tam
thất, cũng không giống vị đắng
của đủ thứ thuốc tây. Nó
không ào ạt vì không có đâu
ra nhiều mà gắp, nó cũng chẳng
dịu dàng. Nhón một đọt lá
vừa hấp, ngắt một chiếc lá nhỏ
đưa lên miệng nhấm, vị đắng
xộc lên tận mũi rồi dịu dần,
thanh, nhẹ, để lại một dư vị
chả biết nói như thế nào, nói
chung là có hậu, nghĩa là đắng
rất lâu. Sau này, trải đủ thứ
chuyện đời rồi, ngồi ngẫm lại
dư vị bữa cơm có lá núc
nác, mới hiểu tại sao có những
người của những vùng đất có
thể cắn ngang mình quả ớt mỗi
miếng cơm, không ràn rụa nước
mắt vì cay thì thấy bữa ăn ngon
cách nào cũng vẫn như thiếu vị.
Những đắng những cay, như nỗi khổ
và nhiều khi là nỗi khổ rèn
con người ta theo cách luôn luôn bất
thường.
Tôi nhớ những bữa cơm có lá
núc nác vì chả được ăn
nhiều, bà chỉ cho thử một tí
tẹo thế, nhiều lắm là một lá.
Thời chiến tranh, khổ thì có khổ,
nhưng so với hàng xóm láng giềng
ở nơi sơ tán thì chưa đến
nỗi nào, vì nhà ăn gạo mậu
dịch, gạo có xấu cũng không phải
lo thóc cao gạo kém như nhà nông,
lại còn tem phiếu, bữa bữa có
thìa mỡ xào rau tí mì chính
cho vào bát canh suông, tháng tháng
lại có thịt kho đậu rán, chưa
kể mớ tép xóc cua nắm rau vườn
mơn mởn không phải lúc nào cũng
có nhưng cũng sẵn, thế mà tôi
luôn luôn nghển cổ với tay qua bờ
rào vườn nhà bác Hiến, không
chịu bỏ qua đọt lá núc nác
nào. Cái cây ấy nép bờ rào,
lớn rất chậm, do giống cây thế
hay là vì toàn bị bấu ngọn,
tôi không biết. Nhưng tôi biết
trong xóm đàn ông đàn bà
đi ngang mà thấy cây núc nác
nhú lá là ngắt ngay. Ông Lúa
đi cày về, buông trâu cho con út
thả tiếp ngoài đồng, tắm táp
cho mình cho cái cày xong, về ngồi
đầu hè ăn cơm, có khi chỉ
thấy trên mâm chõng trước mặt
độc bát tương với mấy cái
lá núc nác hấp. Bà bảo ngày
kháng chiến thành công, nhà thậm
khổ, có được bát cơm với
mấy cái lá núc nác thế là
thành bữa rồi, ăn mà làm mà
sống tiếp, chả còn sức đâu
khóc. Giờ, không ở cái cảnh ấy,
thế mà bà lại ứa nước mắt
lúc nhắc chuyện cũ. Thành ra bà
cháu rời xóm nhỏ mấy mươi
năm tôi vẫn nhớ cây núc nác
góc vườn nhà bác Hiến, nhớ
cây rồi nhớ vườn, nhớ vườn
đâm ra không quên được người.
Một người mà tôi chỉ biết
chuyện chứ hầu như không biết
người, dù ngày nào cũng làm
bác thiệt hại, nặng thì là nắm
hoa dong giềng bẻ hút mật, nhẹ thì
là mấy lá núc nác non đắng
ngắt mà người trong xóm lắm khi
thèm.
Bác là người ở đâu về
làm dâu họ bà tôi không biết.
Nhìn dáng bác thì không phải
là người biết việc đồng áng.
Khuôn mặt thanh, nét gì cũng thanh,
trán, lông mày, sống mũi, môi,
cằm, thanh nhất là đường ngôi
rẽ trên đầu trắng xanh một nét,
không toè chân tóc ra như ở
nhiều phụ nữ tuổi bác sống trong
làng, dù bác cũng vấn khăn như
họ. Về làng, bác vào thăm nhà,
bà tôi gọi bác là mẹ Hiến,
theo tên ông cháu, thế nên tôi
đinh ninh bác không có con. Lệ làng,
có con thì người làng sẽ gọi
cha mẹ theo tên đứa trẻ. Chồng bác
Hiến là con ông chánh tổng gọi
bà là cô, về làm dâu bác
được gọi theo tên chồng, chứ
tên thật của bác khéo chỉ nhà
bác với nhà chồng bác biết.
Tranh Đỗ Phấn
Đinh ninh bác không có con nhưng
tôi biết bác không phải là đàn
bà goá bụa. Chồng bác tôi
không biết mặt nhưng lại tường
tận nhiều chuyện. Toàn chuyện người
lớn qua tai. Bác Hiến con nhà giàu,
học ở Hà Nội cả sau khi đã
lấy vợ. Đến năm 1954 hòa bình
lập lại, bác Hiến trai không về
làng mà vẫn ở ngoài ấy. Thế
là đúng. Hồi cải cách ruộng
đất nhà bác lao đao lắm, thoát
rồi ai ngẫn ngờ mà quay về. Đùng
cái tin đưa về làng: bác Hiến
di cư. Cùng một người em gái lúc
đó cũng đang sống ở Hà Nội.
Đùng cái nữa, hết hạn ba trăm
ngày ngừng chiến, lại tin đưa về
làng: cháu trai của bác Hiến học
ngoài Hà Nội từ lúc vừa lớn
cũng vượt tuyến. Vượt sông Bến
Hải ngày đó, khi bắt đầu
cuộc chiến dài ngoẵng 1954 tới 1975 là
sự kiện có lẽ to hơn cả sự
người ta vượt biên sau này khi
cuộc chiến đó tàn. Vì để
lại nhiều hệ lụy kinh khủng lắm
cho người ở lại.
Nhưng những hệ lụy đó còn
lâu lắm tôi mới hiểu. Tôi chỉ
biết lúc bác Hiến gái về làng
vào nhà tôi. Bác khép nép
ngồi góc giường, hai chân thõng
một bên, têm giầu đưa bà.
Lúc bác ngước lên, mắt bác
sao mà đẹp thế. Trong và xa vắng.
Bà bảo gì đó và bác
nghẹn ngào „cháu có cần gì
đâu cô.“ Tôi biết bác
nói gì. Buổi trưa hôm trước
tôi với bọn trẻ trong xóm bám
cửa sổ nhà bác Thơ ông ngoại
con Oanh dại xem cãi nhau. Nhà gạch, thềm
cao, xây khác kiểu ở làng, lại
đất lại vườn rộng lắm, từ
đê vào không phải là đi qua
ngõ qua vườn rậm rạp như mọi
nhà mà là đi qua một cái vườn
xây bậc cao bậc thấp như kiểu vườn
hoa ngoài Hà Nội, lại có bể
cạn to gần bằng cái đài phun
nước nhỏ lúc đó chỉ trồng
củ dáy. Nói là nhà bác Thơ,
nhưng đó là nhà của ông
Nghị Móm được trả lại sau
cải cách ruộng đất, có lẽ
nhờ ông con là bí thư tổng Hà
Đông khi đó, lại là người
chỉ đạo cải cách ruộng đất
toàn vùng mà đến lúc sửa
sai còn giữ được chút hương
hỏa cuối cùng. Bác Thơ ở nhờ
nhà ông chú ruột sau khi bỏ chân
thư kí tây và bỏ luôn hiệu
sách mà bác mở ra chỉ vì mê
Tự lực văn đoàn, về làng
sống. Sống cùng cả nhà bác còn
em ruột bác là bác Tuyền, không
vợ và khó tính. Cứ dăm ba hôm
làng nước lại phải nghe bác Thơ
gái với bác Tuyền ầm ĩ. Hôm
bọn tôi đứng hóng ngoài cửa
sổ nhà bác Thơ và thấy cả
bác Hiến gái là hôm cả nhà
đang xáo xác về chuyện chia lại
đất với vườn. Bác Hiến gái
nước mắt ròng ròng, nhất mực
không em không.
Bác trở ra Hà Nội rồi
không thấy về nữa. Tuần ấy cô
út tôi ở Hà Nội về, bà
kể chuyện bác Hiến gái về làng,
rồi lại hỏi có biết giờ chị
ấy sống thế nào không. „Con làm
sao mà biết được. Chị ấy là
ai con còn chẳng biết.“ Cô thũng
thẵng trả lời và bà im lặng,
một lúc, bà bảo „Ừ mày
ít tuổi hơn chị ấy nhiều,
chồng nó bỏ đi… thời buổi
bom đạn như này… nó cũng
ít qua lại với họ bên này cũng
khó biết nhau thật. Mẹ Hiến
chuyến này chắc nó không về
nữa. Về bị ép uổng tranh giành
thế đời nào nó về. Nó bảo
nó không thể cho ai mượn vườn
mượn đất xây nhà. Nó phải
giữ, không phải cho thằng Hiến. Biết
ngày nào thằng Hiến quay về. Nó
giữ cho con thằng Hiến còn có đường
về quê nội. Nó bảo sau này con
nó còn phải chồng con, phải có
quê hương bản quán, phải có
họ hàng…“ Bà thở hắt
ra: „Ối giời nội với chả
ngoại. Lúc khó thì có khi lại
sống nhờ lòng người dưng. Hồi
cải cách ruộng đất nhà mình…“
Bà với cô lầm thầm lào thào
mãi rồi bà giục tôi lấy con dao
bài trong âu trầu của bà ra vườn
rọc tàu lá chuối tươi về hơ
lửa bọc xôi cho cô mang đi. Chiều
sắp muộn rồi. Thế này thì chỉ
chừng ra tới Bình Đà là có
nắng xiên khoai rát lưng rồi. Ngày
chiến tranh, bà giữ cô đi muồn
muộn thế tránh máy bay dọc đường
cho yên dạ.
Lòng dạ trẻ con thì dễ yên
lắm. Tôi vẫn hàng ngày tắt vườn
nhà bác Hiến, nhênh nhênh nhàng
nhàng cùng trẻ con trong xóm. Chúng
nó làm thật, tôi làm chơi. Đi
mót khoai mót thóc. Đi hót phân
trâu phân bò. Tưới rau. Bắt ốc.
Kéo te. Giã gạo. Rồi quảy hai cái
giành đi nhặt quả phi lao ở đường
liên huyện về đun. Vườn bác
Hiến có một rẻo đường trống
do bàn chân con trẻ của tôi đạp
gãy dong giềng để nhót đi cho
nhanh, dẫn về một góc. Ấy là
chỗ thông ra đầu ngõ trên có
cây núc nác chẳng biết ai trồng
hay tự mọc. Thấp không hái được
lá non ở cành cao qua bờ rào cho bà,
tôi tìm tận gốc bòn mót từng
lá ở cành thấp. Khổ thân cái
cây leo ngoeo sống nơi góc vườn,
cứ ra lá nào cũng bị vặt. Giá
như nó đừng đắng thế. Giá
như nó đừng làm người ta nhớ
những gieo neo để mà tưởng rằng
đời mỗi ngày một đáng yêu
hơn.
Từ bấy hơn bốn mươi năm,
tôi ít về làng, lại càng ít
về xóm nhỏ. Trên mảnh đất
vườn xưa của bác Hiến từ lâu
rồi đã mọc lên một ngôi
nhà. Không phải bác chịu nhường
đất cho anh em nhà chồng mượn.
Ngôi nhà ấy là nhà một ông
bác họ khác của tôi, đi bộ
đội phục viên về làm chủ
tịch xã. Bác Hiến gái có thể
giữ đất trước những người
anh em có chữ nhà chồng, nhưng chống
thế nào lại với ông anh chủ tịch
xã.
Có lần họ hàng tới nhà tôi
chơi kể chuyện người làng. Thế
nào mà bác Hiến lại về sống
ở phố tôi từ bao giở bao giờ nhà
tôi không hề biết. Cái tin nghe rơi
đó tự dưng làm tôi có thói
quen đi bộ đi học về tới đúng
đoạn phố đó thì nghếch
nghếch đầu nhìn bên phải.
Một
lần lơ ngơ như thế, tôi ngờ
ngợ ai như bác Hiến, liều chào.
Bác thật. Lúc đó tôi đã
vào đại học rồi. Bác đứng
ngay trước cửa nhà, hóa là hiệu
may Mai Anh mới mở. Có lẽ đó là
một trong mấy hiệu may đầu tiên mở
ở phố tôi. Hiệu mới hay là mở
lại sau bao năm bao cấp tự đóng
thì tôi không biết, và chủ hiệu
chính là em trai bác Hiến. Giá mà
số nhà ấy không mở hiệu may, cứ
cửa lùa im ỉm đóng không buôn
bán gì như bao năm tôi thờ ơ
đi qua thì có lẽ tôi cũng không
bao giờ gặp lại bác.
Bác thì dĩ nhiên không thể
nhận ra tôi nếu tôi không nói
tôi là cháu của bà. Bác mời
tôi vào nhà dưới cái nhìn
lãnh đạm của ông chủ hiệu
và mấy cô con gái ông. Hai mẹ
con bác Hiến sống ở căn phòng bé
tít trong cùng ngôi nhà, chỗ gần
với nhà vệ sinh, bể nước và
bếp núc. Một ngày xa xưa đấy
là nơi dành cho con sen con ở của
những nhà trung lưu ngoài phố. Giờ
thì đấy là mơ ước của
bao nhiêu người Hà Nội rồi.
Bác
Hiến không đi làm. Bác ở nhà
giúp em trai chăm nom gia đình. Thời
buổi ấy nhìn thế là biết chị
em bác Hiến đùm bọc nhau lắm.
Thế là bác Hiến cũng may mắn
lắm, chứ một mẹ một con…
Con gái bác Hiến, chị Tâm, sinh
sau khi bố chị vào Nam. Lý lịch đen
sì sì thế mà chị vẫn vào
được trường cao đẳng Văn
hóa, nay đã nâng lên thành đại
học, học ở khoa Thư viện. Chị dáng
gầy, làm thủ thư ở thư viện
thành phố. Thế là thơm lắm đấy,
chả biết họ hàng nào đã
nhúng tay vào lo cho. Hồi tôi biết
chị, chị đã hai lăm hai sáu rồi,
ngày ngày đi làm về với mẹ
chả thấy chồng con gì.
Rồi đến một ngày Hà Nội
bắt đầu ầm ào xe máy. Tôi
cũng phấn đấu mua xe máy, không
còn dịp nào đi bộ qua khoảng phố
xưa, không gặp lại bác Hiến lần
nào.
Rồi tôi theo chồng đi xa. Rồi
tôi bất ngờ nhận được thư
nhà báo địa chỉ ông anh họ
cháu bác Hiến trai, người vượt
sông Bến Hải năm 1958 từ lúc tôi
chưa ra đời, người tôi chưa bao
giờ gặp. Anh vào Nam, đổi tên đổi
họ theo học tiếp, ở Sài Gòn và
ở Mỹ, sau 1975 thì đi tù. Lúc
đã sáu mươi ngoài thì anh
đưa gia đình qua Mỹ theo diện HO.
Gọi qua làm quen và hỏi thăm, người
cầm máy là vợ anh, nghe nói từng
là một phụ nữ rất đẹp. Chị
cười hơ hơ, giọng bắc trăm phần
trăm: „Anh ấy đi học tập mất
mười bảy năm. Gớm, chưa thấy
chương trình học tập nghiên cứu
ở nước nào dài như thế.“
Hỏi thăm cả ông bác bà bác
chồng chị di cư vào đó, chị
bảo anh em chú Hiến con nhà giàu,
hứng lên đi Nam, nhưng không biết
làm ăn. Rồi sao rồi sao chị? Rồi
chú ấy mất. Sớm lắm!
Ra thế. Ngày thống nhất không
thấy bác Hiến đánh đường
về quê là vì thế. Thời buổi
đất nước chia hai, người đi
người ở biệt tin nhau. Người đàn
ông ấy lúc qua đời ở Sài
Gòn làm sao mà biết được
buổi ra đi mình để lại một
hòn máu buồn tủi vậy và người
vợ rất trẻ rất đẹp của mình
suốt một đời đàn bà được
gọi theo tên mình. Nữa là chuyện
mình có mảnh vườn bạt ngàn
dong giềng, ở một góc có cây
núc nác. Cái cây đến khổ,
không chết nhưng mà lúc nào
cũng trụi thùi lụi, sống mà
không có nổi một cái lá nào
già.
Có lúc lẩn thẩn nghĩ, tôi
lại tự hỏi bác Hiến gái có
chịu được vị lá núc nác
như bà cháu tôi và đã có
bao giờ ăn thử? Rồi lại lẩn thẩn
thắc mắc trong họ không biết tại
sao không ai gọi bác Hiến gái theo
tên chị Tâm con bác. Đằng đẵng
gần hết một đời người đàn
bà dịu dàng ấy vắng chồng. Mà
vẫn mang tên chồng.
(*) Rút trong tập "Người làng", chưa xuất bản (cùng với hai truyện khác, sẽ đăng sau).
Diễn Đàn trân trọng cảm ơn tác giả và hoạ sĩ Đỗ Phấn đã gửi tặng bài và tranh minh hoạ.
Berlin 1. 06. 2016
Lê Minh Hà
Các thao tác trên Tài liệu