Bạn đang ở: Trang chủ / Sáng tác / Hạt Châu Rơi

Hạt Châu Rơi

- Đào Vũ Hoài — published 20/04/2010 22:17, cập nhật lần cuối 12/04/2016 22:20
Truyện ngắn


Hạt Châu Rơi


Đào Vũ Hoài



Lão phù thủy thúc ngựa vượt dốc đá. Đường đèo cheo leo hiểm trở, hai hôm nữa rằm đến điểm hẹn.

Trùng trùng núi đổ triền núi
Bụi đỏ mịt mù, vách đá thâm u
Oan linh rú thét nơi hang sâu vực thẳm
Đất chuyển mình, trời cao sấm động

Công chúa Huyền Trân cúi nghiêng khẽ tháo chiếc thoa ngà, buông mái tóc mượt xõa triền vai. Gió se lạnh về qua sân liễu, một trời nền chàm chiều vẩy mực. Sắc chiều chùng xuống bên hàng cột loan chống hiên ngói, bên hàng khúc hạm bao quanh lối khách lang. Chiều dừng lại bên nếp cửa bàn khoa khiến nền gạch hoa Tức Mạc khắp năm gian trung câu tối thẫm lại; không gian trầm đục xóa nhòa những diềm mái, những vì kèo xoi chỉ; những ô cổ điêu xen kẽ xà thượng cũng đã nhá nhem chiều. Ngày cô điệu chóng bắt nối những ngày thừ thượt huốt tụng trật nhã, ấy rồi cũng qua; bảy ngày một cữ, mươi hôm lại hết một tuần. Đêm nay mười rằm trăng náu. Thường thì qua mười sáu trăng treo, nhưng vào tiết đông thiên tháng Mười sương giá giăng mù. Mình công chúa Huyền Trân ngồi bên triện, lặng yên nghe một thoảng gió lay nhẹ bức gấm rủ thao.

Trúc Lâm Đại Sĩ hay Trúc Lâm Đầu Đà, hoặc như Điều Ngự Giác Hoàng, là tự xưng tự hiệu cả. Kể thì thái thượng hoàng tuổi mười sáu đã có chí muốn thoát tục mà quay về thanh tịnh, mong tẩy bỏ phiền não hệ lụy để chứng nghiệm chân như. Ngày ấy xin nhường ngôi thái tử cho em là Đức Việp, vua Thánh Tông không nghe. Mười sáu tuổi thái tử Khâm đang đêm liều nhảy qua thành, quyết bụng đi tìm núi Yên Tử hòng náu thân rừng tía. Đến chùa Tháp núi Đông Cứu dừng chân nghỉ, vua cha biết được sai người đến đón về. Bốn năm sau, sách chép Mậu Dần, năm Bảo Phù thứ sáu (1278), mùa xuân trong kinh thành cháy lớn, lại phải bệnh dịch khắp nơi; vào thu động đất ba lần, thêm một đợt dịch tả chết bao trâu bò. Xảy là hôm ấy giữa tháng hè oi bức, thái tử Khâm theo hầu vua cha ở lầu Chính Dương, trông về phía nam chợt thấy tinh tú hàng loạt sa xuống biển, không trung ì ầm vang động tựa sấm nổ, mãi mới thôi. Đến cuối năm, tháng Mười, vua cha nhường ngai báu. Thái tử Khâm ngự vũ xưng hiệu Thọ Thiên.

“Mạc vị vô tâm vân thị đạo
Vô tâm do cách nhất trùng quan”

Tiền đình nội sảnh cung Quảng Từ đã lên đèn. Mình công chúa Huyền Trân ngồi bên cửa hiên tây, tì cánh tay lên mặt triện, lặng yên nghe bóng tối dần bao phủ khắp buồng hương. Gió đầu hôm qua vân song khiến công chúa rùng mình; gió luồn qua lớp áo bông, mơn man hàng lụa ôm sát lấy lưng ngọc. Lụa vân làng Vạn Phúc dệt nhỏ sợi, mặt lụa mỏng có hoa nổi hoa chìm. Hoa nổi trên mặt lụa bóng mịn, hoa chìm phải soi lên ánh sáng mới thấy được. Sương hoen quẹn trên mái quớt mũi hài, nhánh hải đường lã chã nhỏ giọt buồn; sân liễu lờn vờn trôi trong cõi mơ. Đêm nay mười rằm, trăng náu. Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng Thái Hậu băng hà nhẩm tính đến nay đã mười lăm cái tiết thu phân. Sinh thời hoàng thái hậu vẫn yêu hoa cúc. Hoa cúc là loài ẩn dật, khác với mẫu đơn là hoa phú quý. Trung Lượng Đại Phu đi sứ về có dâng giống mẫu đơn đất Lạc Dương là loài đẹp hơn cả, nhưng dạo ấy thái hậu chỉ thường thăm nom mấy luống giậu đông. Công chúa Huyền Trân khẽ giật mình nghe hàng nội thị thái nữ thắp đèn lồng chầu phục ngoài trướng hồ đợi lệnh truyền.

Sinh thời Bảo Thánh Thái Hậu có tuyên triệu pháp sư phương sĩ vào cung, sai đặt hội quán đỉnh để kéo dài tuổi thọ cho thượng hoàng. Bấy giờ thượng hoàng khước từ phép dội nước, ngày sau nhân vãng cảnh chùa thôn Cổ Châu thì xem câu đặt kệ, thác ý dạy rằng, sống ở đời số phần như hơi thở, trần tình thì tựa đôi phương vô bờ biển bạc.

Bảo Thánh Thái Hậu người thùy mị, với kẻ dưới hằng lấy nhân đức mà đối xử. Tháng Chín năm Bính Tý, Bảo Phù năm thứ tư (1276) sinh trai đầu lòng. Lúc đang mang chưa lên ngôi hoàng hậu, ngày xuân tháng Ba ngồi thêu ở gác trên điện tiềm để, thấy trong mặt trời có chấm đen to bằng quả trứng gà. Chấm đen lay động hồi lâu thì biến.

Canh Tý, Hưng Long năm thứ tám (1300), độ vào tiết thịnh hạ, người đàn bà ở Lộ Hồng sinh con trai hai đầu. Ít lâu sau, mùa xuân Giáp Thìn, tháng Giêng, Hưng Long năm thứ mười hai (1304), người phường Các Đài bên sông ngoài kinh thành sinh con gái hai đầu, bốn chân, bốn tay.

Mé ngoại thành, theo con nước xuôi sông Sâm Thị về phương bính, qua những biền dâu bát ngát, những nương khoai, thuyền quá cồn soi thấy cây si xóm Dũi. Ven cái xóm trẽ huếch hoác dăm mái gianh ấy có lối mòn lên am Ngọc Tỉnh trên đồi. Chiều đông giá, con đường đất thó lên am lầm lũi hiu quạnh, thun thút ẩn vào sương đục. Sát nền đất giàng giàng mọc lăn tăn đánh vảy; rừng tầm vông xào xạc lá. Cô tiểu nữ vai kẽo kẹt đòn tre, chân bước thoăn thoắt đong đưa đôi gióng nan. Cả ngày cô đi rẻo bến nà bìa sông tìm hái mốp ở những bãi lung nước đọng. Răng cô lúc này đánh lập cập, mấy ngón chân quấu mặt đất cứng bật máu. Đến lưng con dốc cô tiểu nữ loạng quạng chực ngã, đành buông quang gánh đứng thở dồn. Cô rét nhưng lưng áo cô vã mồ hôi. Sắc mặt cô mét ưởng, mắt cô đục mờ. Cô đưa tay sẽ sàng ôm ngang bụng, mím môi nhắm nghiền đôi mắt thâm quầng.

Công chúa Huyền Trân chọn chiếc độc bình men hoa nâu, mặt gốm khắc chìm tỉ mỉ. Miệng bình hoa thảo cách điệu đánh viền uyển chuyển, dưới đáy trùng điệp văn thủy ba. Công chúa rửa bình cắm hoa cúc trắng, mâm thì trân đặt trác có giống hồng quý người châu Hoan hàng năm tiến nạp cuối vụ thu; hồng này quả không có hạt, chín lụn đài vỏ vẫn nguyên không trây tróc. Công chúa Huyền Trân kính cẩn đánh lửa thắp lư hương, chắp tay đảnh lễ bàn thờ. Mình công chúa quỳ niệm pho thủ tự giữa điện năm gian thăm thẳm chiều. Ngoài khung tử khuyết con liếu điếu dớn dác bay lạc vào vườn, đậu nhành nguyệt quý bên ao thủy nữ hốt hoảng gọi đàn. Công chúa Huyền Trân buông thõng tay dở chừng nhịp mõ nhắm nghiền mắt, nghe khói trầm vén ngút đàng vời vợi.

Về đến am, cô tiểu nữ đem mốp bỏ ghè rấm sươi góc bếp, xong ra chái mé hậu liêu thăm giàn né giàn hom. Lứa hàn trân, lứa tứ xuất vừa rồi ươm mặt sợi xấu quá, công chẳng được là bao. Trông vào vụ hàm tháng Mười giờ đã xõ cả, kéo kén tém nhộng đợt này nữa là thôi. Còn thì đợi đến tháng Ba vào vụ bát bối lại thái dâu rồi bủa. Trên điện, bà vãi lọm khọm đánh lửa đốt đèn. Cô tiểu nữ tất tả ra sân giếng bên gốc cây câu kỷ rửa tay chân, chít lại vuông sồng trên đầu trước khi vào thiên hương. Bà vãi thắp nhang, đoạn cầm chày thỉnh tiếng chuông thu không, miệng lầm thầm niệm Phật. Chuông ngân vang giữa rừng tầm vông rì rào gió; chuông ngân xa, tiếng chuông trầm uẩn vọng qua chòm xóm dưới chân đồi, qua vách gianh tối tăm cơ cực; bình bồng, tiếng chuông chùa bình bồng chạy vát trên con nước đỏ ngầu phù sa, bình bồng ưu du giữa cõi sinh tử u vi vô ngạn. Cô tiểu nữ chắp tay quỳ sau lưng bà vãi, bé mọn và cam chịu. Ngoài mái am trời chợt ù ù chuyển động.

Ù ù gió rít khe sâu
Gió cưu hờn quất trên vận nước
Thúc ngựa giòn câu ứng hầu chước quỷ
Lửa cuồng địa phủ cháy kinh kỳ

Lão phù thủy dõi mắt trông ra một cõi sương chiều bồng bềnh. Núi rừng bàng bạc, thoi thóp trút dần thoáng ngày còn thừa. Thi thoảng vượn hú nơi sâu kia thung lũng khiến không gian chập chờn, chao động trùng điệp trong chốc lát, rồi tịch mịch lại càng hoang liêu tịch mịch hơn nữa. Lão phù thủy cời mớ than đã vạc, chất thêm ít củi thông sam vỏ để giữ lửa. Vách động phập phồng, bóng lão già xiên xiên nghiêng ngả.

Bỗng đâu con ngựa nê thông của lão bồn chồn đánh vó. Từ xa dưới chân dốc nhác thấy thấp thoáng những bóng lạ đang men theo quèn núi. Bốn người đàn ông và một người đàn bà. Cả năm vai mang tay nải, cùng mặc thứ áo thùng kích rộng dệt hàng đay, chân đi giày cỏ, đầu đội nón kiểng sàng che khuất mặt. Họ ngồi ngựa lầm lũi đi hàng một trong hơi sương lãng đãng. Lão phù thủy đã ra đứng ở cửa động đón đợi. Người đàn bà cưỡi con ngựa tuyệt đẹp; giống ngựa hiếm quý mõm thuôn, ức cao cổ dài, chân quen vượt duềnh sâu, từng bám mán hẳm; lưng ngựa lăn lẳn, sắc lông đen huyền lại ánh màu thạch lục, ong óng mượt như gấm. Giống này chỉ rợ phiên nhung có chước sai môi săn bắt được nơi những kẽm hẹp, trong những truông cát chốn quan tái phong cương bên kia rặng Tây Nhạc.

Đến nơi, bốn người đàn ông nọ liền xuống ngựa, cung kính đến bên yên thiếu phụ: người nắm giữ hàm thiết, kẻ đưa tay đỡ lấy niền đồng chân đâng. Lão phù thủy chắp hai tay khấu bẩm:

- Cúi lạy phu nhân!

Người đàn bà khẽ gật đầu.

Chim khảm khắc đâu từ lùm cây bốm vụt cánh lao vào trời đêm, tiếng chim gọi nhau tan tác chốn đèo ải tiêu tao cách trở.

Không ai lên tiếng nói thêm điều gì.

Bấy giờ vào khoảng đầu hôm giờ Tuất. Trong động bọn người kia im lặng cùng ngồi vào thế kết già thành vòng tròn quanh đống lửa. Họ nhắm mắt, dang hai tay bắt ấn, ngón tay họ chạm vào nhau. Họ ngồi yên như thế, và đêm lẳng lặng qua. Độ cuối canh tư giờ Sửu lại sửa soạn lên đường. Rày thì sẽ phải vén ngút mây qua những vẻo đá thon von, đành lòng bọn người kia để lại bầy ngựa nơi lưng núi.

Thinh gian khẽ động, cung đồng thòa khẽ rụng
Hồn triêu chén đắng, mật đầu môi
Trâm gối nhành dương ru nẻo mơ lã chã
Lơi giải lĩnh đào chừng đỏ ửng xuân trinh
Thẹn câu muôn thuở, chút ân tình
Duyên đã lỡ rày sá chi vóc ngọc
Nhọc quả kiếp, hằng tủi nợ phù sinh
Lầu khuya trăng nở lung linh
Trải vuông liệm trên tinh tuyền lãng nguyệt
Đợi giai nhân lên hỏa giàn tế lễ
Gửi mộng thiêng chốn vô ngạn thiên uyên
Gió tiêu trung cùng đưa nhịp bả trạo

Công chúa Huyền Trân giật mình nghe trống tiêu trung trong thành gióng ba hồi cầm canh. Gió lay khóm thùy dương chờn vờn bên song cửa. Đình vi năm gian vách quế tối tù mù. Từ dạo về nước đến nay, thoáng đấy đã đầy một năm, công chúa vẫn thường một bóng thao thức thâu đêm.

Sách chép, Kỷ Sửu, Trùng Hưng năm thứ năm (1298), vua Nhân Tông xét Khắc Chung ngày trước đi sứ sang Nguyên lập được công trạng mà ban họ nhà vua. Khắc Chung xưa họ Đỗ, thái tử Thuyên lên ngôi đã làm đến chức Ngự Sử Đại Phu, sau được phong Đại An Phủ ở kinh sư. Việc gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành, bầy tôi trong triều cho là không phải, riêng Khắc Chung và Lý Đạo Tái đứng ra tán thành.

Đinh Mùi, Hưng Long năm thứ mười lăm (1307), tháng Giêng, vua Anh Tông đổi tên châu Ô, châu Ri làm châu Thuận, châu Hóa.

Tháng Ba, mặt trời như đem bổ dọc làm đôi, tỏa hai quầng sáng giao nhau.

Tháng Năm, mùa hạ, vua Chiêm Thành đột tử, lấy Huyền Trân chưa đầy một năm. Thế tử Chiêm Thành là Chế Đa A Bà Niêm sai hàng trung thần là Bảo Lộc tức khắc đem voi trắng qua dâng vua Đại Việt.

Mùa đông, tháng Mười, vua Anh Tông sai Trần Khắc Chung viện cớ sang Chiêm Thành thăm hỏi công chúa, hoạch mưu đón Huyền Trân về, không để phải vào hỏa đàn tuẫn táng. Nhân đấy mang thế tử Chế Đa A Bà Niêm đi cùng. Nhà vua tảng lờ bỏ qua chuyện Khắc Chung đi thuyền lần lữa ở với Huyền Trân ngoài bể khơi mãi không vào, lại vẫn tin dùng lấy làm Nhập Nội Hành Khiển như xưa. Vào thành Khắc Chung ngồi kiệu anh vũ sơn then, an nhiên triều ban dự bậc nơi đan trì tiền sảnh, ngày hội vua ra xem bơi thuyền ở điện Hàm Quang được theo lên hầu. Riêng có Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng chỉ mặt mắng y loài dê chó.

Nhớ chăng
Kinh kỳ tráng lệ
Nâng chén ngọc ngả nghiêng cung quế
Đêm nhiệm mầu hương báu nhạc thiêng
Nhớ chăng
Lộng lẫy đèn hoa mùa thượng hiến
Nụ ngoan bẽn lẽn nép rèm châu
Chừng biết đâu đêm hân hoan phân rỗi
Trút mảnh xiêm mằn mặn lên ngôi
Trăng gieo lối giữa vườn trăng lạ
Mấy thuở phong lưu, gió đỉnh trời
Ngặt vì
Rày đã sa đàng bĩ cực
Nỗi đoạn trường ai đổi được đâu
Hẹn nhau dưới chín cung suối mát
Vỡ đóa đồng trinh nhểu lụa hồn bạch
Máu đoan nguyền muối mặn quả tim cuồng
Ví thể, thương ôi
Giữa mông lung đảo huyền biến hóa
Còn nhắc lại xa xưa ân dày phúc cả
Thì xin hãy dủ lòng khấng đoái
Lẻ bạn, lạc loài, biết chốn nào gửi thân

Nẻo vào ninh lăng mình lão ấy biết. Tuổi trời lão được đã bao nhiêu chẳng một ai đoán nổi. Đời lão đã ba lần chạy đàn độ vong đưa ba vị hoàng đế Chiêm Phù Lao vào núi. Tương truyền ngày trước lão sống phiêu bạt viễn ly, sang đến xứ Câu Thướng Di gặp nàng kỹ nữ lấy làm vợ. Vợ chồng ăn ở với nhau qua một mùa mưa, người con gái lần ấy hiện nguyên hình dã hồ tinh truyền cho lão những phù linh chước mầu. Nàng dạy lão từ nay hãy tìm về chốn đầm lầy giao cấu với thuồng luồng rắn rít hòng thụ được chướng khí. Nói rồi nàng con gái trỏ mặt trăng cười sặc sụa, không ngờ người chồng nắm cọc tre đâm vào họng. Lão kia đánh lửa thiêu xác con tinh rồi bỏ đi. Mười hai năm ròng lão luyện phép trong rừng quế bên đất Xích Thổ, sai khiến được yêu ma quỷ dữ, một bận ra tham chính giúp vua xứ này đánh nước La Hộc. Binh lính Xích Thổ đốt hoàng thành, lão theo xông vào trong sâu cung cấm cầm dao Lưu Cầu cắt đầu hoàng hậu và người em ruột là nàng quý phi, chặt cổ luôn cả mười hai công chúa, đem bấy nhiêu cái sọ về dùng huyền thuật hóa oan hồn người chết làm lỵ vỵ linh nãi để lão sai bảo. Cuối triều tiên đế Chế Bì La Bát lão về nước; bấy giờ thánh quân đã già yếu, vời lão vào cung hầu bên trướng, phong hiệu Tinh Thiều Bát Tiệu Đại Phương Sĩ.

Ta hiển ứng lướt trên dông bão
Ta phù cảm sai chớp giật trên nguồn
Ta sai bóng tối hỗn mang
Sai nữ chúa dưới diêm cung địa tạng
Sai lớp lớp hung thần ác sát
Bủa vây dấy loạn đảo ngược càn khôn
Theo ta đánh bại quân thù nghịch
Cánh tay ta sẽ là khiên là thuẫn
Giữ đất này, đất lễ yết hằng tồn
Đất này đất huân yên vạn đại
Đất no đầy mật ngọt sữa thơm
Quả trĩu cành, lúa đơm bông
Máu miêu duệ nuôi dưỡng hồn tổ phụ
Cho đến ngày tinh tú trên cao cũng lụi tàn

Đêm vừa dứt canh chưa vội tàn, đất trời còn như nét thủy mặc trên mặt lụa. Năm người đàn ông và một người đàn bà đứng ở chót vót đỉnh gió, nghe quanh mình khuông thâm lồng lộng mở ra. Xa xa, sông Vao đang tách dòng khỏi một giấc mù sương tím hờ, luôm nhuôm nhập vào sông Cay, sông Sát, để cùng đổ ra cửa bể vừa ửng cam hồng rất nhẹ. Lão phù thủy trỏ quả núi bên kia đèo. Từ đất sâu núi chạy dài rồi đột lên, sừng sững nứt toác làm hai từ chóp ngọn đến lưng triền: giữa bạt ngàn san dã con tạo bổ dọc vách đá dựng cột trụ chắn giữ hai bên quan đạo. Lão phù thủy trỏ sao mai, sứ thần của ánh rạng.

Giờ thì sương loãng theo gió núi; trời quang cao vun vút, ngọt ngào. Bọn người kia cùng rẽ lối cỏ xuống thung rừng. Họ lầm lũi đi hàng một, tay nải khoác bên vai, lần bước qua khe suối, bám vào đá vượt ghềnh sâu. Xuyên những ngạn lim già, ngạn ác mó, nước trên nguồn rười rượi trong xanh, lặng lờ độc. Cỏ bạch trinh tán cao quá gối, đơm hoa quanh năm, cánh hoa tua tủa trắng muốt, thơm ngát rừng. Lão phù thủy trầm mặc đi trước đưa đường, những người kia cũng không một ai nói gì.

Họ cứ đi như thế, hết ngày lại tiếp tục đi suốt đêm.

Đêm đen hun hút hung nghiệt đan ken vào rừng khuya, nẻo âm ti khí chướng vật vờ. Có những chiếc bóng thướt tha trắng mờ mờ, thoắt nhởn quanh gốc tre, thoắt kề cận dắt bước lão phù thủy.

Tinh mơ hôm sau họ qua đến bên kia chặng đèo. Trước mặt họ núi chẻ làm đôi đâm thốc lên ngút trời; gió mặn phần phật luồn lưng áo. Gió ngoài bể khơi táp thuốn vào kẽm núi giật rin rít từng hồi. Lão phù thủy đứng xoay mặt trông lên bạch đạo, dang hai tay đón mừng Khải Minh Thần Nữ một lần nữa đánh cỗ xe phụng qua ngõ sơn môn, miệng lão lầm thầm dâng lời chúc tụng.

Lối vào hẻm núi bề ngang độ chừng không quá ba trượng, đi mãi, ngày chừng đã ngả giờ Tỵ thấy khuất sau bụi sót bụi sần cái cửa hang sâu hoắm trong vách đá. Lão phù thủy dùng hai nhánh gỗ két cọ xát hồi lâu lấy lửa thắp đuốc. Ngõ hang hẹp, luồn lách chật vật một đỗi vào được trong động. Huyệt núi mát lạnh, cao thoáng; vòm trần đổ chi chít nhũ thạch, nhìn quanh, nền đất cũng chỉ toàn thạch nhũ đùn lên lởm chởm. Trong động người ta đặt đá tảng từng phiến phẳng phiu chồng lên nhau thành thang bậc chạy chắp vọng một vành cung, thoai thoải ăn miết vào lòng đất tối om om. Năm người đàn ông và một người đàn bà, chơ vơ giữa cõi địa phủ âm u, khi như thực, khi lại như hư ảo trong ánh lửa nhập nhòe; họ khẽ chân đi giữa giấc ngủ cổ đại.

Họ cứ đi như thế, bao lâu không đoán được.

Ru hời ru hỡi
Ới u là hụi
Ngủ đi, yên giấc ngọc tuyền
Hương báu non thiêng còn như quyến
Nẻo mơ huyễn khách bỗng quay về
Hát điệu ru hời từ nghìn khơi sóng bổ
Hát điệu bọt bèo, hát điệu sầu phiêu diêu
Ru hời ru hỡi lửa độ siêu
Thiêu đốt từ rạng đông dang dở
Thiêu đốt từ ráng đỏ lặng lờ
Chừng bảo nhau đoái lại ngày phúc lạc
Đường muôn vạn có tiếc liếp trăng xưa
Đường trắc trở dửng dưng trắc trở
Lạc cung xuân bởi ngón xuân khép vội
Ngủ đi, yên giấc tinh khôi

Cuối đường là miệng vực; trụ làm hàng ngang ra hai cánh đếm đủ mười tám pho tượng khổng lồ tạc hình kim sí điểu đội vạc dầu. Lão phù thủy trèo lên bệ đá chân tượng vói tay châm lửa hết thảy một dọc. Khuất sâu nơi đáy núi, ánh sáng ngập ngừng vén một khoảng không gian lùng nhùng, thoáng rộng cũng phải đến hơn mẫu đất.

Ở chỗ bọn người kia đang đứng xuống đến ngưỡng thềm linh địa đúng một trăm tám mươi nấc thang khoét ra từ trong vách động. Cuộc đất cấm giữa hang khơi nền đắp cao, lên ba bậc đá qua cổng chu minh. Vào đến sân hoa diên họ thắp hương làm lễ yết cáo tam miếu: tả hữu thờ Thần Nông, thờ Diêm Vương, bệ hà bôi ở giữa thờ nữ thần Thiên Y A Na. Bảo tháp bốn khối phụng ngự lăng tẩm ở bốn phương; đỉnh tháp thon vút búp hoa, trên mái lại trổ lớp lớp những tháp nhỏ, cột nổi xung quanh kết cấu những vòm cuốn hình quả trám với rất nhiều gờ chỉ, mặt tường được điêu khắc công phu. Phần điện vũ nội phủ mé sau là nơi chôn cất các hậu phi cung tần; vây bọc bên ngoài là hàng mả trúc cách chôn sống đạo quân thượng đô túc vệ theo hầu vua bên kia thế giới. Đền, đài, bia mả, phù đồ, tất cả được dựng đăng đối theo trục dũng đạo và đều quy về trung tâm nơi đặt tôn miếu. Toàn thể công trình kiến trúc xây bằng gạch vồ, gạch ốp đỏ xuộm; lối đi lót đá ong. Lão phù thủy cầm đuốc soi lên những tượng thần nam nữ nửa thân thanh tước, hoặc mình người đầu voi, kỳ lân, cá sấu; lại thấy tượng cung nga ngự nữ, đội trạo đi thuyền nguyệt quang, kim phượng, thượng lâm tử đệ gẩy đàn thổi sáo.

Năm người đàn ông cùng người đàn bà nọ giờ đã vào đứng ở sân bái, kính cẩn trông lên chiếc quách nằm trên nền tam cấp dưới mái đình tạ; mười tám đỉnh đồng bọc quanh mảnh sân thay uynh thành. Phía trước tẩm miếu có tĩnh đàn, dưới chân bệ tế là hố yển nguyệt. Chiếc quách được tạc từ đá xanh, mặt đá chạm trổ tỉ mỉ. Lão phù thủy mồi lửa vào mười tám cái đỉnh đồng; dầu thông cháy phừng phừng thơm ngát chốn u linh. Bốn người đàn ông và người đàn bà nọ cởi nón, tháo bỏ khăn đầu; mái tóc thiếu phụ xõa ra, đổ mượt mà xuống triền vai; bốn người kia đầu cạo trọc. Họ đỡ thiếu phụ lên thềm loan đứng đối diện đình tạ cách đấy mười tám bước, trùm vuông lụa hồn bạch phủ kín bán thân người đàn bà; rồi bọn này xé ngực áo lùi ra sau, miệng rì rầm không ngớt những câu chú. Lão phù thủy đứng trước phần mộ, dang rộng hai tay đưa quá đầu, mắt trợn trừng: theo một thoáng hơi lạnh buốt những chiếc bóng lướt thướt ở đâu trên không bổ nhào xuống, xúm xít đẩy nắp quách lệch sang một bên, xong lại xoay mòng mòng trên cao, rồi vụt biến vào thinh gian u uất; âm âm vách đá như vang vọng tiếng ai than van khóc lóc. Tuần tự từng người một bốn người đàn ông kia bước lên đàn lễ, quỳ để nghiêng đầu vào miệng cối ngọc quỳnh. Lần lượt lão phù thủy vung cái chày cũng bằng ngọc bổ vào đầu họ; lão sủi bọt mép, toàn thân run bắn, đầu lắc như điên như dại. Những người kia chết vỡ sọ, máu chảy từ vết thương, đằng hai bên lỗ tai, lỗ mũi, ở khóe miệng; máu chảy ra đằng miệng quặn ở đáy cối, rỏ xuống mủng vùa bằng ngọc hà, thứ ngọc đỏ ối như ráng chiều. Lão phù thủy chặt bốn cái đầu, bỏ thủ cấp vào trã vàng ngay tam cấp dưới chân quách nổi lửa thiêu. Máu hiến sát lão ấy đổ vào quách, trong họng ư ử chiêu gọi vong linh người đang nằm trong áo quan. Hốt nhiên lão ấy hộc máu mồm. Ở đằng kia người đàn bà rú lên, hai tay quăng rũ xuống chực đổ gục: một luồng hơi xanh xám từ trong quách tỏa lan, luồn lỏi nâng hổng bà ta khỏi mặt đất. Lão phù thủy nghe sau lưng người đàn bà ồm ồm cất giọng hỏi:

- Kẻ nào quấy phá chốn Ta yên nghỉ?

Lão phù thủy nhắm nghiền mắt, chắp hai tay trước ngực khấu bẩm:

- Cúi lạy đức Thái Cả.

Lão nghe người đàn bà lừ lừ di động trên không kề sau gáy lão. Người đàn bà cười:

- Chính ngươi đã đem Ta an táng, sao giờ lại đánh thức Ta?

- Muôn tâu Chúa Thượng, thần...

Hơi lạnh phảng phất vây lấy lão phù thủy:

- Huyền Trân đâu?

- Dám thưa Chúa Thượng, vận nước nhà...

Lão già chỉ kịp nói thế; lão kinh hãi nghe luồng hơi tanh tưởi kia xiết chặt yết hầu không cho lão thở.

- Huyền Trân đâu?

- Ặc... ặc... b... bẩm... ặc... Thái Tử... ặc... thần đã... ặc... h... hết sức... ặc... khuyên can...

Hơi lạnh xanh xám lặng lờ buông lão ra:

- Nói.

- Ặc... ặc... cúi xin... ặc... cúi xin Thánh Thượng khoan nhân... ặc... đoái lại. Ặc... sinh thời Ngài cắt đất bãi binh để cưới cho được công chúa Đại Việt làm thiếp... ặc...

- Ta đã mơ duyên nghĩa thơm hương khiêm hiến của đất, lửa ái ân nồng bỏng Ta ngất ngây đem đốt cả trời. Biết đã khi nào nàng biết yêu Ta như Ta đã si mê yêu nàng?

Lão phù thủy sụp quỳ dưới đất, cúi mọp đầu:

- Thánh Thượng vốn là đấng chí công, xin hãy dủ thương... ặc... soi xét lòng triều thần con dân... ặc... Cũng chỉ là hàng thứ phi... ặc... cung tần mà đánh đổi được cái thế núi sông bền vững.

Mơ hồ, tựa như vực sâu khẽ thở dài; thinh không lung liêng tan tác.

- Việc Ta làm Ta đã làm.

Lão phù thủy rên rỉ:

- Xưa tiên quân Chế Củ dẫu phải dâng đất chuộc mạng vẫn giữ cho được châu Ô, châu Ri. Than ôi, một cõi non cao vực thẳm che chắn đất kinh sư nay đã vào tay người Đại Việt. Tiền nhân từng cậy vào ưu thế chiến lược của châu Ô châu Ri mà xưng hùng cứ một phương; đời vua Chế Ma Na hay dưới triều vua Chế Bì La Bát, hoặc như hoàng tử Bổ Đích sau này đã tỏ được binh uy với người phương bắc cũng là nhờ ở địa hình thuận lợi. Một mảnh giang san bảo lưu đó giờ thuộc người Đại Việt, chẳng bao lâu họ lại sẽ không tương cảnh tựu kế, nẩy sinh ý định nam tiến?

Bất chợt hang động rung chuyển, đất đá long lở đổ ào ào; người đàn bà xoay vù vù trên không, gầm thét man dại. Lão già hộc máu mồm.

- Lũ khốn, bay cả gan dám...

Lão phù thủy nức nở:

- Trăm lạy Thánh Vương, Ngài độ lượng cho hạng khuyển mã này được giãi tỏ sự việc, xong có phải bỏ mạng cũng cam.

Người đàn bà thở hào hển, gằn gữ trong họng, chốc rồi nguôi ngoai, đứng yên lơ lửng; lão phù thủy vẫn quỳ khấu đầu dưới đất. Lăng tẩm đền đài dần quay lùi về mông lung câm nín.

- Dám thưa Chúa Thượng, cũng bởi đã trông thấy họa vong quốc mà đức Thùy Liêm cùng hàng thượng công quý tể đã thông mưu thuốc Ngài; vương thân trọng thần có kẻ toan giết luôn Thái Tử...

Người đàn bà cười cay độc:

- Không lẽ mẹ Ta đã chẳng tiếc thương...

- Bẩm, nhờ ở đức Thùy Liêm mà Thái Tử thoát thân. Nào ngờ Thái Tử lại đầu bôn cầu cứu vua Đại Việt, đồng lõa với quan sứ nhà Trần cướp sống Huyền Trân đưa về nước như một dấu chỉ bày tỏ thiện tình. Rồi đây nhà Trần sẽ mượn cớ giúp Thái Tử đoạt lại ngai báu xua quân sang. Hàng thái sư tể tướng nay không có ai trí dũng hơn người hòng thu phục trăm họ dưới ngọn tiết mao đánh giặc giữ nước. Quần triều giờ quay ra tranh giành quyền lực, ám hại lẫn nhau gây nội loạn.

- Biết chăng nàng đã có sẵn lòng bước lên giàn hỏa theo Ta?

- Người Đại Việt sinh sống miền đồng bằng nên ngại hang khe hiểm trở, họ giỏi đi trên sông ngòi nhưng sợ sóng cả bể khơi. Hơn nữa, dân các thôn Lạ Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng ở hai châu tuy được vỗ yên vẫn ngấm ngầm kháng đối; xứ Chiêm Ba đang mong đợi một đấng uy vọng ra tay thực hành đạo bá vương, khôi phục lãnh thổ.

- Người Đại Việt lòng dạ giảo quyệt, nàng thì sao? Giả sử không người sang đưa về, nàng có giữ tiết với Ta?

- Dám thưa Thánh Thượng, phu nhân đây là người thuộc ngân hoàng đế hệ; phu nhân dạ đang mang, cúi xin Thánh Thượng ở lại, nhập hồn đầu thai đợi ngày tái thế. Từ cõi nhiệm mầu trở về, Ngài sẽ tác oai thần vũ lấy lại biên cương...

- Kiếp sau còn có yêu nhau? Nhìn nhau nào biết đã nhận ra nhau?

- Muôn tâu...

Trên cao người đàn bà thình lình oằn mình rống lên đau đớn, hai tay hất tung vuông hồn bạch; mắt đứng tròng đỏ đòng đọc, bà ta ngoác miệng nhả luồng hơi xanh xám tanh tưởi. Chướng khí quẩn lại, vít lấy người đàn bà vật ngược đầu xuống quật vào bệ đá.

Hồn người chết tan loãng dần vào bóng tối vô tận.

Mơ hồ, hang khơi như còn văng vẳng tiếng than van.

Im lặng.

Lão phù thủy lọm khọm đứng dậy.

Lửa trong mười tám chiếc đỉnh đồng vẫn phừng phực cháy; mười tám khối tượng kim sí điểu trên cao nơi miệng huyệt kia vẫn trơ đặc, câm nín đội mười tám khối lửa đánh viền quanh ngõ vào bóng đêm thiên cổ. Lửa u mặc già như tuổi của đêm.

Im lặng.

Lão phù thủy đứng một thân giữa quãng chơ vơ, nghe quanh mình lòng đất tối sâu thăm thẳm. Lão đứng lặng yên một đỗi rồi rút dao đâm vào cổ.

Im lặng.

Ru hời ru hỡi bước phong trần
Đi cho hết những ngần ấy kiếp
Ngần ấy thu đông buốt rét hanh hao
Ngần ấy xuân hạ bỏng nồng đỏ ối
Bấy nhiêu duyên khởi ngần ấy nỗi
Ngần ấy bước giữa trời cao đất rộng
Đi cho hết trở về không

Sáng hôm ấy, bà Thiên Thụy gượng hỏi em mình là sư Trúc Lâm, rằng về dưới âm biết có còn gặp nhau chăng. Sư cười hiền từ bảo, đến giờ chị cứ đi, ở bên kia thế giới ai hỏi gì chị nói thế này, đợi một lát em tôi là Trúc Lâm Đại Sĩ sẽ đến ngay. Công chúa Thiên Thụy bật cười, họng khò khử mắc hen ho sặc sụa, khóe miệng công chúa be bét máu. Bà thều thào bảo như có cối đá đè lên ngực, hơi thở cò cử bén như lưỡi dao. Nhà sư dầm khăn bát nước lau mặt cho chị. Chốc sau người bệnh lại thiếp đi, sắc mặt bợt bạt, môi thâm tím, hai mắt đổ quầng. Công chúa ngủ giấc ngủ vật vã, ú ớ mê sảng luôn. Nhớ chuyện cũ, sư Trúc Lâm bất giác chép miệng thở dài. Từ thuở Thượng Phụ ra công mở nghiệp đế nhà Trần đến nay giặc giã liên miên. Đến lượt sư Trúc Lâm ngày ấy được đỉnh báu, kỷ thân ra trị vì thiên hạ, nhà Nguyên hai lần xua quân qua cửa ải; tướng nhà Nguyên là Thoát Hoan vượt sông Nhị Hà, hiên ngang ngồi ngựa qua cửa Đại Hưng lệnh cho đốt phá chín gian ngự điện. Vua và quần triều đã phải đưa thượng hoàng cùng chạy vào Thanh Hóa, chạy ra Hải Đông, rồi lại quay về náu thân ở Thiên Trường. Vua tôi đã phải chịu cảnh cơm hẩm dưa ngồng mà đánh giặc. Thời binh biến loạn lạc ấy, những người đàn bà chính phái ngọc điệp kia cũng đã tiếc chi thân: công chúa Thiên Tư chuốc phận làm thiếp Thoát Hoan cầu việc hoãn binh, công chúa Thiên Thụy ở lại thái ấp cúc cung tận tụy gìn giữ nếp nhà, bảo vệ hoàng hậu cùng bầy con trẻ.

Sư Trúc Lâm ngồi bên giường người bệnh lầm thầm lần hạt niệm Phật, ngồi như thế trọn ba ngày hai đêm. Được tin bệnh trạng của chị ngày một ngặt nghèo đã vội xuống núi thăm nom. Giờ nhìn công chúa Thiên Thụy bất động hôn mê, nhà sư biết chị mình bệnh này không qua khỏi, cầm tay âu yếm giã từ rồi quay về núi.

Đứng ở đỉnh Ngọa Vân trông về tây bắc thấy ngả bát sông Lục Nam ở loáng thoáng xa kia chảy qua làng Nòn, men theo chân núi xuôi nam đổ về thôn Đạm Thủy, về đất Yên Sinh, Đông Triều. Nhưng buổi hôm ấy vùng núi Yên Tử u ám mưa, gió bạt lồng lộng. Mưa vần vũ chuyển mình qua trùng điệp những núi, mưa uốn lượn trên ngọn rừng già. Buổi hôm ấy nhà sư nghe vượn hú ai oán dưới khe sâu.

Sư Trúc Lâm sai người triệu thị giả là Bảo Sát đến am.

Bấy giờ đã quá canh hai, trời quang gút tạnh, tinh tú lấp lánh mở tiệc hoa trên trời. Bảo Sát men theo lối cỏ lên am. Sư hỏi Bảo Sát sao đến muộn; hỏi thế, chứ cũng không có ý gì trách cứ. Bảo Sát thấy Pháp Loa đã chầu sẵn nơi phương trượng. Sang giờ Tý nhà sư trao ấn cho Pháp Loa, dặn dò đôi điều rồi lặng yên mà hóa. Bảo Sát phụ với Pháp Loa rước hình hài vị sư tổ lên hỏa đàn đánh lửa thiêu.

Cũng trong đêm đó, chị của vua Nhân Tông là công chúa Thiên Thụy qua đời.

“Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt
Vạn lý vô vân vạn lý thiên”

Công chúa Huyền Trân trùm qua đầu miếng áo trảm thôi hàng gai sổ gấu, mặc phủ lên lớp hiếu phục. Buổi hôm ấy ngoài sân gió giật phần phật trong hàng tràng phan, thổi tung đôi phương tướng cốt tre đan. Linh cữu còn quàn ở điện Quảng Vũ xoay ra hướng tây ở cửa Quảng Phúc. Ngoài thành, dân chúng kéo đến đông nghìn nghịt khóc thương thảm thiết. Vua lập đàn cử lễ thành phục cho triều thần để tang, lập thế kỳ treo đôi đèn lồng mang đế hiệu và thụy hiệu người chết, dâng cơm rượu lữ thấn đánh dấu những ngày sóc vong.

Bữa cơm dược thạch trong am cũng chỉ có cà muối và rau khoai tím ngắt chấm bát dấm mẻ. Cô tiểu nữ uể oải gắng ăn cho hết lưng bát; đôi mắt cô đục mờ, sắc mặt xanh nhợt nhuộm nghệ. Bà vãi lẳng lặng vén lại phần cơm gạo đỏ trong niêu. Gió quẫn bức trong rừng tre, vật vã gào. Cũng chỉ một đỗi rồi thôi. Trời nhá nhem khi gió trời đã kiệt quệ, lẩn thẩn xác xơ đi lạc ở đâu đó rất hoang liêu. Ráng chiều đỏ vàng không đủ cho gió bớt hanh hao bởi chiều đi vội.

Bấy giờ đã cuối canh hai, bà vãi già đến ngồi bên chõng cô tiểu nữ ở gian bếp, khêu bấc đèn dầu lạc cho ánh sáng tỏa lan lên vách nứa; nhẹ nhàng bà cởi giải thắt lưng cho cô gái, mở tấm áo vải đồng lầm thắt vạt quả găng, luồn tay nới chiếc váy nái thăm cái thai.

Sách chép, thái thượng hoàng băng hà, vua Anh Tông làm lễ dâng kim sách và ngự ấn nơi đàn Viên Khâu. Xá lỵ vua cha chia làm hai, một phần đem cất thờ trong bảo tháp ở đất Đức Lăng, phần kia đặt ở Huệ Quang Kim Tháp tại chùa Vân Yên trên núi Yên Tử.

Sang đến canh ba cô gái đã mệt nhoài, mồ hôi ra đầm đìa chảy ròng trên mặt, trên cổ. Tóc cô lẹp nhẹp dính bết vào sọ, khắp người cô ướt nhơm nhớp. Cô nằm ngoẻo đầu thoi thóp thở, mắt quầng thâm nhắm hờ. Trong ánh đèn dầu lạc lao lung lu mờ, sắc mặt cô gái trắng nhởn như tử thi. Hồi lâu cô trợn mắt chuyển cữ lần nữa, quằn quại rên la. Bà vãi khẽ khàng bảo gắng, bà đã thấy được chóp đầu thai nhi. Chặp sau cô gái lại oằn mình đau; cắn chặt răng, cô gái rướn lưng, tay quào vào vách nứa, tay bấu xuống giát chõng. Máu ra không ngớt, máu lênh láng; nùi giẻ thấm chận sũng máu, máu đỏ loang trong trã nước nấu lá hương nhu khói nghi ngút. Máu tuôn thành dòng đẩy tuột đứa bé vào đời. Thân xác cô gái phút chốc nhẹ tâng, đuối mỏi trôi theo con lũ từ đáy dạ, ồ ạt thoát ra, không ngừng rũ rượi thoát ra; loang loáng cô nhòa vào ánh lửa từ thếp đèn dầu lạc, rồi ngân tụ lại trong quầng sáng chói lói. Từ một chấp chới rất xa cô gái thấy mình đang đưa cả hai tay bấu víu loạn lên vào khoảng không trước mặt. Bà vãi già nước mắt ràn rụa, miệng lầm rầm kêu khấn Phật Quán Thế Âm. Cô gái chới với cố bám vào sự sống ngoi lên, dồn hết tâm trí lắng tai nghe. Đứa bé khóc oa phá vỡ màng thinh gian lùng nhùng. Người mẹ nằm trên chõng nghe con khóc thì thở hắt ra trút linh hồn.

Ru hời ru hỡi
Ới u là hụi
Người đi giữa đêm đen buồn tủi
Hát khúc trầm luân, hát phận lưu đày
Hát câu muôn thuở giữa chơi vơi vạn điệp
Cạn chén lụy ở cuối nguồn thương đau
Ru hời ru hỡi
Ới u là hụi
Người đi giữa lung liêng cát bụi
Lẻ loi ươm chồi lộc thần tuyền
Cất bước đi đi, cất bước mau
Đi từ những canh thâu thục tội
Từ những buổi bình minh cằn cỗi
Đi đi, mòn mỏi mộng thông hiệp
Ru hời ru hỡi, ới u là hời
Ru hời ru hỡi
Ới u là hụi
Người đi giữa hoang vu giác ngạn
Cúi mặt mang phúc chỉ tác thành
Ru hời ru hỡi, chân có mỏi
Mộng thiêng đem trả lại gió trời
Ru hời ru hỡi
Ơi hời

Đào Vũ Hoài

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
VIETNAM, DEUX DOCUMENTAIRES sur France 2 et France 5 05/03/2024 - 01/06/2024 — France 2 et France 5
Repas solidaire du Comité de soutien à Tran To Nga 22/03/2024 - 26/04/2024 — Foyer Vietnam, 80 rue Monge, 75005 Paris, Métro Place Monge
France-Vietnam : un portail entre les cultures 17/05/2024 10:00 - 11:30 — via Zoom
CONFÉRENCE DÉBAT 24/05/2024 19:00 - 23:00 — la Médiathèque JP Melville (Paris 13e)
Ciné-club YDA: Bố già / Papa, pardon. 25/05/2024 16:00 - 18:15 — cinéma le Grand Action, 5 rue des Ecoles, 75005 Paris
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us
Kênh RSS
Giới thiệu Diễn Đàn Forum  

Để bạn đọc tiện theo dõi các tin mới, Diễn Đàn Forum cung cấp danh mục tin RSS :

www.diendan.org/DDF-cac-bai-moi/rss