Hầu hết những bài thơ viết trong một năm
thanh thảo
HẦU
HẾT NHỮNG BÀI THƠ
VIẾT TRONG MỘT NĂM
tặng nhà thơ Trang Thế Hy
lời thưa
Tôi trở lại Bến Tre vào một ngày cuối năm 2010. Cầu Rạch Miễu đã thông xe từ lâu, dù có đi mới thấy bề ngang của cây cầu này quá hẹp, nó khiến chùm dây văng hai bên cầu như bó lại, vừa thiếu thẩm mỹ vừa thiếu cân xứng. Cầu Hàm Luông cũng đã xong, cây cầu rộng rãi thông thoáng (có lẽ rút kinh nghiệm cầu Rạch Miễu), và giữa hai cây cầu là một con đường thẳng đẹp với dải phân cách trồng hoa và cây cảnh. Bến Tre khác quá, so với cách đây hai năm khi tôi về. Nhưng Bến Tre vẫn thế, với những vườn dừa xanh đẫm và con đường làng nhỏ hẹp. Bến Tre vẫn thế, với ông lão nhà văn Trang Thế Hy ngày một già yếu mặc quần xà lỏn ngồi giữa sân lúi húi với mớ dây ống nước bằng nhựa. Ông lão là một thứ đặc sản của Bến Tre, giống như kẹo dừa bà Hai Tỏ. Bến Tre vẫn thế, trong tôi, khi tôi nhận từ lão nhà văn Trang Thế Hy tập thơ mỏng in song ngữ Việt-Anh. Bài thơ này bắt đầu từ tập thơ ấy và tác giả của nó.
giống chùm hoa rau muống
tim tím linh cảm
những bài thơ viết trong một năm
chảy đùng đục con kênh trước nhà
vườn dừa lão tiếng tắc kè quá khứ
đong đưa chùm quả nắng
người minh triết mặc quần xà lỏn hai chân như hai cây sậy sẽ sàng
đong đưa thời gian
“ anh chờ gì anh thương tiếc gì chăng ?”
chợt câu thơ Lermontov rơi
như con chuột
từ ngọn dừa
năm tháng chiến tranh chùm lưỡi câu mùa nước nổi
thả vào im lặng
anh không chờ không đợi không giật không bắt
những con cá gầy
những câu thơ mơ màng thút thít
như đứa trẻ xa mẹ
những câu thơ cố tình triết lý
che giấu nỗi bơ vơ
thiệt tình, chúng ta là nỗi bơ vơ
không gọi ra được
một nhịp gãy
không hợp long
một cầu vồng
đứt đoạn
một cây dừa
đơn độc
một vị ngọt
lạc loài
một cái chai nút lá chuối khô
rỗng
buổi trưa ngồi quán gió
nhai rất kỹ miếng lá cách nước cốt dừa om lươn
không còn răng
chỉ là nhai theo thói quen
anh nhai ký ức
hầu hết những bài thơ viết trong một năm
2/1/2011
Các thao tác trên Tài liệu