Hồi Ký (2)
HỒI KÝ
Hành trình của một sinh viên Sài Gòn
từ chiến tranh đến hòa bình
Nguyễn Hữu Thái
Đôi lời giới thiệu
Tiếp theo chương 3 XUỐNG ĐƯỜNG
ĐẤU TRANH, chúng tôi xin giới thiệu chương 5 của tập hồi ký :
MỘT THẾ HỆ ẢO TƯỞNG
Suốt thời gian 1964-65, giai đoạn sau
ngày chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ, không phải chỉ riêng bản thân tôi mà
cả lớp tuổi trẻ trí thức thành thị miền Nam cũng rơi vào tình trạng
lúng túng trong đường hướng hoạt động. Chúng tôi có khá nhiều ảo tưởng
và tin tưởng vào lắm huyền thoại. Những người trong hàng ngũ Phật giáo
đề xuất giải pháp đấu tranh bất bạo động, người trẻ phe quốc gia còn
tin tưởng vào sự hợp tác với Hoa Kỳ, nhiều người khác cho rằng họ có
thể tranh đua với Cộng sản trong công cuộc cách mạng xã hội. Nhưng mọi
người rồi cũng nhanh chóng không còn ảo tưởng nữa khi quân Mỹ ngày càng
có mặt đông đảo và cuộc chiến leo thang ác liệt.
Tình hình đã sáng sủa trở lại khi các tướng lãnh trẻ gây sức ép buộc tướng Nguyễn Khánh rời khỏi Việt Nam. Tôi rời nhà đại tá Wilson đến trú ngụ tại nhà giáo sư Ted Britton. Vào cuối năm 1964, ông về Washington vận động việc thành lập “Chương trình Thanh niên Công tác Hè” (Summer Youth Program). Ông yêu cầu tôi tiếp tay giúp ông.
Tôi ở đây với 2 mục đích : Trước hết là để biết thêm về giáo sư Britton, thứ hai là tìm cách bắt liên lạc với MTGP (sau quyết định ra chiến khu với bạn Nguyễn Xuân Lộc ở nhà đại tá Wilson).
Vào cuối năm ngoái, giáo sư Britton đã mời một nhóm người hoạt động
thanh niên, đề nghị họ cùng hiệp lực nhau lên một phương án hoạt động
xã hội phối hợp chung vào dịp Hè 1965.
Phải nhìn nhận rằng vào thời điểm này nhiều sinh viên đã chán ngán việc
xuống đường đấu tranh và mong muốn làm một công tác gì cụ thể giúp ích
xã hội, đến được với lớp người cùng cực. Phong trào làm công tác xã hội
kiểu như đợt cứu trợ miền Trung vừa qua hấp dẫn lớp trẻ. Họ cảm thấy
được trực tiếp tham gia vào một công cuộc to lớn mang tên “cách mạng xã
hội” mà từ sau ngày lật đổ Diệm người ta nói đến rất nhiều.
Vì sao công tác xã hội lại hấp dẫn lớp trẻ thành thị lúc đó ? Thứ nhất
là sinh viên luôn được thuyết phục đóng góp phần mình trong cuộc chiến
đấu chống lại nạn đói nghèo và chậm tiến của người nghèo đô thị trong
các khu nhà ổ chuột ngày càng xuất hiện nhiều theo đà leo thang cuộc
chiến. Sau ngày lật đổ Diệm, người ta nói nhiều về “cách mạng xã hội”,
xem như cơ hội cuối cùng của phe Quốc gia trong cuộc chiến tranh ý thức
hệ này. Thanh niên thành thị mong muốn tham dự vào sách lược xã hội to
lớn này. Thứ hai là sau hai năm xuống đường đấu tranh do Phật giáo lãnh
đạo và kiểu tiến hành chiến tranh của nhóm tướng lãnh Sài Gòn rõ ràng
không phải là giải pháp cho một cuộc chiến cách mạng. Đặc biệt vào năm
1964 xuất hiện rất nhiều nhà lý luận về đề tài này. Tất cả đều nhấn
mạnh vào sự cần thiết phải tìm kiếm một đường lối chống Cộng hữu hiệu
hơn, bằng cách kéo những người nghèo từ tay người Cộng sản về mình. Họ
chủ trương “chiến đấu chống Cộng sản với người nghèo, cho người nghèo!”
Giáo sư Lý Chánh Trung
Các giáo sư Công giáo theo khuynh hướng tiến bộ của đại học Sài Gòn như
Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung (1)
tuyên bố rằng trong 10 năm qua, chính quyền Sài Gòn là “chính quyền của
người giàu”, kể từ Ngô Đình Diệm đến các tướng lãnh ngày nay. Các chính
khách đảng phái Quốc gia lẫn tướng lãnh bất tài và tham nhũng kiểu cũ
khó lòng mà chiến thắng Cộng sản. Hai ông Trung đều cho rằng : “Trong
thế giới chậm phát triển, vấn đề cách mạng xã hội là một vấn đề sinh
tử, một vấn đề danh dự”. Họ nói đến những mẫu hình cách mạng như
Algeria, Ai Cập với các lãnh tụ cách mạng dân tộc vừa giữ được vị thế
trung lập đối với với cả phương Tây lẫn phe Xã hội chủ nghĩa. Họ hô hào
một dạng “Chủ nghĩa Xã hội Dân tộc không Cộng sản”. Tuy vậy các ông
cũng đang bối rối trước sự có mặt ngày càng đông đảo của quân Mỹ ở Việt
Nam và còn rất mơ hồ trong việc đưa ra các giải pháp và hành động cụ
thể.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung hôm nay
Bên phía Phật giáo cũng có Thầy Nhất Hạnh (2),
tốt nghiệp đại học nổi tiếng Princeton ở Hoa Kỳ về, từng tích cực trong
phong trào Phật giáo chống Diệm ở nước ngoài, cũng nhấn mạnh: “Nếu
chiến tranh cứ kéo dài như kiểu này với các tướng lãnh thì trước sau gì
người Cộng sản cũng chiến thắng!” Ông chủ trương lớp trẻ phải
tham gia
tích cực vào công tác xã hội. Ông đã thăm viếng Philippines và bị ấn
tượng nhiều về Phong trào tái thiết nông thôn diễn ra ở đó, nên khi về
Sài Gòn đã tập trung xây dựng một trường đào tạo cán bộ công tác xã hội
Phật giáo. Nhưng phải chăng bản thân ông ta cũng hết ảo tưởng khi quân
Mỹ ào ạt tràn lên đất nước. Vào cuối năm đó, Nhất Hạnh xuất bản
tập thơ hòa bình đầu tiên mang tên : “Chắp tay nguyện cầu cho
bồ câu
trắng hiện”!
Thượng toạ Thích Nhất Hạnh
Tôi cũng bị cuốn hút về hướng đó, từ những năm dưới thời Diệm. Trước
hết, tôi bị ấn tượng sâu sắc về hình ảnh “những biên giới mới” do tổng
thống Kennedy phát động cho giới trẻ Mỹ vào đầu các năm '60 và nghiên
cứu hoạt động của Đoàn Hoà bình Mỹ tại các nước nghèo của Thế giới thứ
ba. Tôi cũng thán phục các tổ chức 'Kibbutz' (làng sản xuất và chiến
đấu) của thanh niên Do Thái quay về định cư trên vùng đất mới và cả
Phong trào Tái thiết Nông thôn của Jimmy Yen tại Philippines trong
những năm '50. Tôi đã viết nhiều bài báo kêu gọi sự tham gia thiết thực
của thanh niên thành thị vào một phong trào có thể xóa đi các căn bệnh
của chậm phát triển, đó là các nạn đói nghèo, lạc hậu, mù chữ và nền
hành chính yếu kém. Ngay sau ngày lật đổ Diệm, tôi đã viết báo nói rằng
thanh niên sinh viên Sài Gòn nên tổ chức thành nhiều nhóm đa ngành,
cùng tham gia công tác xã hội cụ thể tại nông thôn, xem như một đóng
góp tích cực của tuổi trẻ vào cuộc chiến đấu to lớn, làm cuộc 'cách
mạng xã hội' do chính Hội đồng Quân nhân Cách mạng mới lật đổ Diệm đề
ra.
Tuy vậy vào năm 1965, chính bản thân tôi lại rơi vào một tình trạng
hoàn toàn mâu thuẫn. Với tư thế là chủ biên, tôi viết hai bài có lập
trường trái ngược nhau trong số báo ra mắt Lên Đường, tiếng
nói của
Chương trình Công tác Hè (chương trình công tác xã hội phối hợp do giáo
sư Britton đề xướng). Một bài thì kêu gọi thanh niên Sài Gòn “lên
đường” làm “cách mạng xã hội”, còn bài kia lại lên án Hoa Kỳ xâm lăng
Santo Domingo, một nước ở Trung Mỹ vào thời điểm đó.
Trong bài đầu, tôi đi xa hơn khi yêu cầu chính quyền giao trách nhiệm
cho sinh viên tự tổ chức những đoàn người tình nguyện tấn công vào
những căn bệnh xã hội của miền Nam. Tôi nêu lên những gương mẫu Đoàn
Hoà bình Mỹ, thanh niên Kibbutz Do Thái, Phong trào Tái thiết Nông thôn
Philippines. Tôi viết tiếp : “Chỉ sử
dụng sức mạnh quân sự mà thôi thì
không thể thắng trong cuộc chiến tranh này. Thanh niên phải tấn công
vào những biên giới của đói nghèo, lạc hậu, bệnh tật và hành chính yếu
kém”. Tôi còn đề xuất việc thành lập các đội sinh viên hoạt động
gồm
nhiều ngành nghề khác nhau quay về nông thôn tham gia ‘ba cùng’ (cùng
ăn, cùng ở, cùng làm) với nhân dân, nhắm nâng cao đời sống lẫn ý thức
chính trị của người dân. Thanh niên thành thị sẽ giúp xóa đói nghèo với
các kỹ thuật canh tác mới, xóa nạn mù chữ, cung ứng dịch vụ y tế, và
đem đến cả những kiến thức cơ bản về pháp luật và quy định hành chính.
Thanh niên trí thức phải trở thành cán bộ của xã hội mới. Và thật là
nguy hại vì không biết là vô tình hay cố ý, chính những ý tưởng này
trùng hợp với sự hình thành các đội 'Bình
định nông thôn' ác ôn và biến
các nhà giáo trẻ thành công cụ lùa sinh viên học sinh vào “Chương trình
Thanh niên Phụng sự Sinh hoạt Học đường” (CPS) kiểm soát mọi cấp
sinh
hoạt học đường!
Các nhóm thanh niên trí thức tôn giáo còn đi xa hơn khi tiếp tay với
nội các chiến tranh Nguyễn Cao Kỳ. Nhóm thanh niên trí thức Công giáo
với kỹ sư Võ Long Triều (người thân cận của giám mục Sài Gòn Nguyễn Văn
Bình) xin đứng ra đảm trách luôn hoạt động của bộ Thanh niên. Còn nhóm
thanh niên Phật giáo với tiến sĩ Trần Quang Thuận (cố vấn thân cận của
thượng tọa Thiện Minh, người phụ trách lực lượng thanh niên của giáo
hội Phật giáo thống nhất) thì phụ trách bộ Xã hội. Một nhóm bạn bè tôi
quen biết đã được giao quản lý cả một quận 8 nằm ở giáp ranh Rừng Sát.
Theo báo cáo mật của người Mỹ sau này thì quận 8 đã thành công xây dựng
một quận hành chính gương mẫu về mặt hoạt động xã hội và sinh hoạt
thanh niên cũng như triệt hạ được tổ chức hạ tầng Việt Cộng trong khu
vực! Chính phó tổng thống Mỹ Humphrey khi thăm viếng Sài Gòn đã đến đó
quan sát và khen ngợi.
Có lẽ bài báo thúc giục thanh niên lên đường làm 'cách mạng xã hội' đã
làm hài lòng những quan chức Mỹ tài trợ cho Chương trình Hè. Nhưng họ
rất bất bình về bài báo sau. Bài báo đã thực sự gây chấn động như một
quả bom nổ trong giới quan chức Mỹ. Tôi viết về vụ quân đội Mỹ xâm lược
nước Santo-Domingo tại vùng Trung Mỹ. Tôi lấy tài liệu trong báo sinh
viên quốc tế mới gửi cho, nói rõ về việc người Mỹ nhân danh tự do dân
chủ đã đưa quân lên hòn đảo để lật đổ một chính quyền do dân bầu lên
nhưng bị gán là 'thiên tả' và thay thế bằng một chính quyền bù nhìn
thân Mỹ. Tất cả màn kịch đẫm máu đó đều do một tay viên 'đặc sứ Bunker'
(sau này làm đại sứ Mỹ ở Sài Gòn) dàn dựng. Đây là một sự vi phạm trắng
trợn chủ quyền dân tộc của một quốc gia độc lập!
Bài báo gây cú sốc cho những người Mỹ liên quan đến Chương trình Công
tác Hè, từ các thành viên IVS đến các quan chức USOM, vì lúc đó đúng là
thời điểm quân Mỹ đang đổ quân lên Đà Nẵng trực tiếp tham chiến ở miền
Nam Việt Nam. Như vậy là cả người Mỹ lẫn người MTGP vào thời điểm đó
không biết tôi là ai, đứng về phe nào nữa?
Mùa hè năm đó, tôi có nhiều dịp tham gia các trại công tác xã hội chung
quanh Sài Gòn. Cảnh tượng trại tỵ nạn An Phú Đông làm tôi bi quan hơn
và cảm thấy công tác xã hội rõ ràng là không có tác dụng gì trong cuộc
chiến hủy diệt này. Chúng tôi đi xây dựng mấy ngôi nhà, đắp con
đường, đào vài hố vệ sinh cho người dân quê bị bom đạn Mỹ lùa về đây.
Chính các công việc đó càng khuyến khích quân Mỹ và Sài Gòn tiếp tục
giết chóc và phá hủy. Tôi ghi lại trong nhật ký của mình : “Chúng ta
không thể nói hời hợt rằng mình đã làm 'cách mạng xã hội' khi thực hiện
một số việc trong một hai ngày, rồi ca hát, hớt tóc, phát bánh kẹo cho
trẻ em, khám bệnh phát thuốc cho vài người. Những thanh niên thành thị
như chúng ta chưa vượt qua cái ranh giới đi công tác 'từ thiện'...”.
Tôi đã nhìn thấy trong mắt người tỵ nạn chưa hết nỗi kinh hoàng bom
đạn, họ thụ động nhìn chúng tôi làm việc, ai nấy đều quần jean áo thun
kiểu đi picnic, như những kẻ xa lạ. Tôi biết không ít thanh niên đã lợi
dụng các chương trình công tác xã hội kiểu này để lo cho cá nhân mình.
Nhiều người nhờ công tác xã hội học đường mà được miễn đi lính hoặc có
đi lính cũng sớm được biệt phái khỏi phải ra chiến trận. Người khác thì
qua đó tìm cách xin học bổng du học, đi tham quan Hoa Kỳ. Sau này khi
nội các chiến tranh của Nguyễn Cao Kỳ thành lập các toán “Bình định
nông thôn”, nguồn cán bộ đào tạo lấy từ các sinh viên công tác xã hội
loại này.
Phong trào hoạt động mang danh nghĩa 'cách mạng xã hội' thật ra đã từng
gây tranh luận trong hàng ngũ sinh viên và trí thức Sài Gòn. Giáo sư
Nguyễn Văn Trung tỏ thái độ dứt khoát về ảo tưởng này khi cho rằng cách
mạng xã hội là điều cần thiết cho xã hội miền Nam nhưng không thể làm
với người Mỹ và kết luận: “Thực là
một điều vô ích và mất thì giờ nói
về cách mạng xã hội với những đảng phái Quốc gia hoặc người Mỹ. Cuộc
chiến tranh của Mỹ hiện nay có những điểm giống với cuộc chiến tranh
của Pháp lúc trước”. Ông khẳng định tiếp: “Chính nghĩa dân tộc ngày
càng rơi vào tay MTGP. Làm 'cách mạng xã hội' với người Mỹ hoặc nói là
'lợi dụng' người Mỹ để thực hiện nó là một điều không tưởng!”
Vào mùa hè năm đó, bản thân tôi sẽ rơi vào ngõ cụt không lối thoát nếu
còn tiếp tục theo đuổi những hoạt động mâu thuẫn kiểu này. Nguyễn Xuân
Lộc lại ghé thăm tôi và chúng tôi cùng ngồi lại bàn thảo nghiêm chỉnh
vấn đề. Cuối cùng đi tới kết luận là không thể nào đợi chờ gì nữa, đã
đến lúc phải chọn một hướng đi mới cho các hành động của mình. Chúng
tôi đồng ý rằng chỉ tạo thêm ảo tưởng khi tập trung vào công tác xã hội
giữa lòng cuộc chiến tranh.
Chúng tôi nhìn lại quá khứ và xác định rõ hơn lập trường của mình:
Chính sách đàn áp của Ngô Đình Diệm đã tạo ra sự phản kháng ở nông thôn
và gây mất niềm tin nơi người dân thành phố là chỗ dựa của chế độ. Sự
dính líu của người Mỹ càng làm trầm trọng thêm các mâu thuẩn trên. Sự
can thiệp vũ trang trực tiếp của họ lúc này mang nhiều yếu tố của cuộc
chiến tranh thuộc địa của Pháp, chỉ càng làm bùng lên ý thức chống Mỹ
khắp cả nước, từ thành thị đến nông thôn. Cách mạng xã hội không thể
thực hiện trong một nước không có chủ quyền, vì cách mạng xã hội không
phù hợp chút nào với quyền lợi của người Mỹ. Và cũng là một điều phi lý
khi đòi người Mỹ thực hiện tự do dân chủ và cách mạng xã hội.
Lộc có lối lập luận thật lô gíc của một nhà toán học: Lúc này chủ quyền
dân tộc không còn, 'chính nghĩa dân tộc' không còn nằm bên phe Quốc gia
nữa. Sinh viên chúng mình thì không thể lãnh đạo cách mạng, giỏi lắm
chỉ làm được vai trò ngòi pháo đấu tranh, chứ không phải là những người
làm cách mạng. Thực hiện được cuộc cách mạng chân chính ở Việt Nam,
những người làm cách mạng thực sự lúc này là những người của MTGP.
Chúng mình cũng không thể ngồi yên hoặc bình thản học hành vào lúc này,
mà phải tích cực tham gia vào cuộc chiến đấu, và phải chọn thế đứng về
phía MTGP.
Tôi tìm cách liên hệ với phía MTGP. Một người bạn giúp tìm đầu mối và
thăm dò khả năng chúng tôi có thể ra chiến khu. Tôi nhận được câu trả
lời thuận lợi. Hình như phía MTGP cho rằng đây là một thắng lợi nếu lôi
cuốn được những các thủ lĩnh sinh viên Sài Gòn ra khu. Chúng tôi
được lệnh sẵn sàng lên đường. Người ta dặn chỉ nên đem theo những gì
thật cần thiết cho cá nhân mà thôi. Tôi chọn vài bộ quần áo, đồ dùng vệ
sinh, hộp kim chỉ và mua luôn một chiếc xe đạp cũ. Bỗng nhiên vào giờ
chót, không biết vì cớ gì mà chúng tôi được lệnh phải đợi và chờ tin
mới. Không còn cách nào khác hơn là chờ đợi, nhưng tôi rất bối rối và
lo lắng. Phải làm gì đây khi mà sự chờ đợi ngày càng kéo dài và những
người móc nối chúng tôi cũng biệt tăm luôn? Một người bạn gợi ý thực
hiện một chuyến thăm viếng miền Trung, tôi đồng ý. Tôi bay ra Huế vào
tháng bảy năm 1965. Trên danh nghĩa chính thức, tôi đi một vòng quan
sát sự phát triển của Chương trình Công tác Hè cùng các công tác xã hội
khác tại khu vực Huế, Đà Nẵng và Quảng Nam. Trong thực tế, người bạn đã
dàn xếp cho tôi tham quan một vùng Giải phóng ở Quảng Nam. Vậy là bảy
năm đã trôi qua nay tôi mới trở lại Huế. Cách đây hai năm, chính Huế là
nơi khởi động phong trào phản kháng đưa đến việc lật đổ Ngô Đình Diệm,
viên tổng thống người Công giáo mà gốc gác cũng ở đây. Từ đó, Huế bỗng
nhiên trở thành căn cứ địa của phe Phật giáo đấu tranh. Theo truyền
thống thì Huế hướng nội và giữ gìn bản sắc dân tộc hơn là một Sài Gòn
thường hướng ngoại và bị ảnh hưởng của phương Tây nhiều hơn. Nhiều bạn
học cũ của tôi ở Huế nay giữ các vị thế quan trọng trong phong trào
thanh niên sinh viên Phật giáo đấu tranh.
Thành phố vẫn còn sôi động với một đợt chống kháng nội các chiến tranh
của tướng Nguyễn Cao Kỳ. Hàng trăm nhà giáo đại học ở tuổi thanh niên
cả miền Nam đã tụ tập về đây. Họ đến Huế để tiếp tay với giới giáo chức
đại học địa phương chống lại ý đồ của nội các chiến tranh kiểm soát đại
học bằng cách 'động viên' lùa tất cả thanh niên giáo chức đại học vào
quân đội. Họ vừa tụ tập tại đây thì chính quyền nhượng bộ, tuyên bố tạm
thời đình chỉ lệnh động viên. Vậy là mạnh ai về nhà nấy. Phải chăng đó
là cách đấu tranh của giới trí thức. Một khi mà quyền lợi được thoả mãn
thì họ dễ dàng thỏa hiệp! Tuy vậy, tập thể sinh viên Huế nhân đó tấn
công luôn chính quyền quân sự Sài Gòn, đòi họ phải tiến hành tổ chức
bầu cử quốc hội, lập lại các định chế dân chủ như đã hứa hẹn từ ngày
lật đổ Diệm.
Nhân có mặt một thủ lĩnh sinh viên Sài Gòn, họ mời tôi lên phát biểu
tại một cuộc họp đông đảo sinh viên ở giảng đường trường khoa học (rạp
chiếu bóng Morin cũ). Tôi nhấn mạnh sự cần thiết phải để cho nhân dân
miền Nam được tự do thể hiện quyền của mình thông qua bầu cử tự do. Chủ
quyền dân tộc trước tiên phải được tái lập. Chính nhân dân Việt Nam có
quyền quyết định về chiến tranh hoặc hoà bình, chứ không phải do ai
khác! Cho đến nay, chính quyền luôn rơi vào tay một nhóm tướng lãnh
hoặc phe phái chính trị không tên tuổi nào đó, không biết từ đâu tới và
hoàn toàn do ngoại bang điều động. Sinh viên Việt Nam chúng tôi quyết
không chấp nhận kéo dài một tình hình như vậy.
Ngay tối hôm đó, đài phát thanh BBC của Anh mà nhiều người mình rất thích nghe, đã nói về sự có mặt và lập trường chính trị mới của tôi ở Huế, đặt vấn đề phải chăng đây là dấu hiệu của một đợt phản kháng mới đang hình thành. Họ cũng suy đoán rằng đang có một sự phối hợp hành động chặt chẽ hơn giữa sinh viên Sài Gòn và Huế, một sự kiện chưa bao giờ xảy ra trong các năm gần đây. Bản tin này chắc chắn là không làm hài lòng người Mỹ và các tướng lãnh Sài Gòn.
Ở Huế, tôi đã gặp gỡ nhiều bạn cũ lẫn bạn mới. Nào các bạn học cũ như:
Vĩnh Kha, Chủ tịch Đoàn sinh viên Phật tử kiêm luôn Chủ tịch Tổng hội
sinh viên đại học Huế; Hoàng Văn Giàu, chủ tịch Đoàn giáo chức trẻ đại
học thân Phật giáo. Đó là các lực lượng nòng cốt cho cuộc đấu tranh
Phật giáo miền Trung bấy lâu nay. Trong số các bạn mới có Nguyễn Đắc
Xuân, một sinh viên Phật tử năng động trong phong trào đấu tranh đồng
thời là một nhà thơ có tiếng. Hai anh em họ Hoàng Phủ, một người là nhà
giáo dạy triết ở trường Quốc Học tên là Ngọc Tường và người kia là Ngọc
Phan, một sinh viên y khoa rất hoạt động (3).
Tôi dự buổi họp mặt tại 'Thảo lư', ngôi nhà vườn nhỏ trong thành nội
của anh em họ Hoàng. Đây phải nói là một buổi thảo luận phản ánh được
tâm tư nguyện vọng của giới trẻ miền Nam lúc đó. Tôi quyết định không
nói gì nhiều, cốt lắng nghe lập luận các bên. Tôi nhìn thấy sự có mặt
của mấy thanh niên hoạt động ở Sài Gòn. Nào Thế Uyên và nhóm biên tập
tờ tạp chí Văn học. Uyên đang
ở trong quân đội, chủ bút một tạp chí nhỏ
mang tên Thái Độ. Anh là cháu
của nhà văn Nhất Linh, một tên tuổi lớn
trong nhóm Tự lực Văn đoàn
thời tiền chiến và lãnh tụ Quốc Dân Đảng
đã từng giữ chức vụ bộ trưởng ngoại giao chính phủ Hồ Chí Minh năm
1946. Ông ta đã tự sát phản kháng chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963.
Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoàn giáo chức, sinh viên Huế thách thức chính quyền Sài Gòn
Uyên thành thật thú nhận rằng các đảng phái Quốc gia lẫn tướng lãnh
thân Mỹ không thể nào đương đầu nổi cuộc chiến tranh cách mạng. Anh ta
đề xuất giải pháp thực hiện một “cuộc
cách mạng thực sự do chính những
người trẻ lãnh đạo”. Anh ta nói thao thao bất tuyệt về các lập
luận làm
cách mạng xã hội trong vòng tay người Mỹ đang thời thượng ở Sài Gòn,
một ảo tưởng lớn! Tôi có thể dễ dàng bác bỏ từng điểm một của lập luận
đó, nhưng không nói ra. Ngọc Phan nóng mặt phản pháo ngay: Một cuộc
cách mạng thực sự đòi hỏi phải có chủ quyền dân tộc và một chính quyền
độc lập. Đó là những cái mà hiện tại chúng ta đâu có. Người Mỹ thì có
mặt ngày càng nhiều trên đất nước. Vấn đề chính yếu bây giờ là
phải có chủ quyền dân tộc.
Ngọc Tường thì ôn hòa hơn, còn tin tưởng vào một số giải pháp nhân văn mang tính bất bạo động Phật giáo cho cuộc xung đột nhưng cũng thất vọng về leo thang chiến tranh của người Mỹ và sự kiện chính quyền tướng lãnh Sài Gòn ngày càng nhượng quyền cho người Mỹ.
Khi bàn về vấn đề Phật giáo đấu tranh đòi thực hiện dân chủ qua bầu cử.
Ngọc Phan cho rằng đó là biện pháp 'nửa vời' của những phần tử cơ hội
chủ nghĩa trong Phật giáo. Nhiều anh em thất vọng về diễn tiến đấu
tranh của phong trào Phật giáo hiện nay. Nếu khởi đầu chống Diệm, Phật
giáo đã được tổ chức, đoàn kết và lãnh đạo tốt bao nhiêu thì nay đã
chia năm xẻ bảy. Nhất là ở Sài Gòn, họ chia phe phái xung đột lẫn nhau,
người Phật tử không biết hướng về đâu. Tôi chỉ đồng ý với ý kiến của
Thế Uyên cho rằng cuộc chiến Việt Nam đã rẽ sang một bước ngoặt mới khi
người Mỹ trực tiếp đổ quân lên. Cuộc chiến Việt Nam đã biến thành một
phần của xung đột quốc tế không dễ dàng giải quyết giữa người mình với
nhau, như Phật giáo mong muốn. Nhưng tôi lại cho rằng Ngọc Phan có lý
khi nói rằng cần đặt lại vấn đề từ gốc rễ, khởi đầu với chủ quyền quốc
gia dân tộc.
Nhóm thanh niên từ Sài Gòn đến thì cho rằng phải đánh Cộng sản trước,
nhưng cuộc chiến đấu phải do những người lãnh đạo tốt hơn là nhóm tướng
lãnh hiện nay. Họ cho rằng nay vẫn còn nhiều lãnh tụ quốc gia có năng
lực có thể đảm nhận vai trò lãnh đạo quốc gia. Có lẽ họ muốn nói đến
những người Quốc Dân Đảng, Đại Việt được gài vào guồng máy các cấp. Họ
hy vọng 'lợi dụng' được người Mỹ để thực hiện cuộc 'cách mạng xã
hội' đồng thời chiến đấu chống Cộng sản. Phải chăng đây lại là một ảo
tưởng khác của thế hệ mới của phe Quốc gia Sài Gòn. Tôi không muốn gây
nghi ngờ khi bày tỏ công khai ở nơi đây những điều mình thực sự suy
nghĩ, chỉ thấy mình tán đồng với ý kiến của Ngọc Phan là: “Ưu tiên của
mọi cuộc đấu tranh lúc này là 'chủ quyền dân tộc', trước khi chúng ta
muốn đặt các vấn đề khác”.
Cuối cùng, chúng tôi bàn về tình trạng Phật tử đấu tranh Huế. Tuy lập
trường của tôi khác biệt với người Phật giáo tin tưởng vào giải pháp
bầu cử, tôi vẫn nhìn thấy họ là một lực lượng quần chúng đô thị đáng
chú ý. Dẫu sao cho đến nay họ vẫn còn ý thức đặt vấn đề chủ quyền dân
tộc cũng như chưa liên hệ nhiều với quyền lợi Mỹ, không giống như các
chính khách hoặc phe Phật giáo Tâm Châu người Bắc di cư ở Sài Gòn. Tuy
vậy, phong trào đấu tranh Phật giáo ở Huế đang thực sự đứng trước ngã
ba đường.
Sau ngày Diệm bị lật đổ, nhân dân không mấy hy vọng vào đám tướng lãnh
đảo chính mà nhìn về phía phong trào Phật giáo miền Trung, với vị
thượng toạ bí ẩn và uy tín Trí Quang cùng những đồ đệ của ông ở đại học
Huế (4). Cơ quan ngôn luận của họ là
tuần báo Lập trường, mà ai
cũng muốn đọc và theo dõi. Tuy vậy, lập
luận của nó nhiều lúc rất mâu thuẫn nhau, có lẽ vì lý do chiến thuật,
nặng về lập trường dân tộc, nhưng cũng tỏ ra chống Cộng và thân thiện
với Mỹ. Ban biên tập gồm toàn các giảng viên Phật tử trẻ ở đại học Huế
như Cao Huy Thuần, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Hoàng Văn Giàu...
Họ rất tự hào về vai trò tiên phong trong cuộc đấu tranh chống Diệm và
chủ trương phục hồi bản sắc dân tộc Việt Nam. Họ thường phê phán Sài
Gòn, cho rằng thành phố này chịu ảnh hưởng quá nhiều của phương Tây và
họ còn đi xa hơn khi gợi ý nên chuyển chính quyền trung ương miền Nam
về cố đô Huế. Những điều đó đã từng gây nên trận bút chiến giữa Sài Gòn
và Huế. Trong thực tế, họ có đầy đủ lý do để mà hãnh diện vì họ thuộc
thế hệ những người Quốc gia trẻ tuổi hơn ở miền Nam không dính dáng gì
đến quá khứ thuộc địa Pháp hoặc Mỹ giống như hầu hết những lãnh tụ Quốc
gia già nua hoặc tướng lãnh Sài Gòn. Họ ý thức được vai trò mới của họ
trong tình hình hiện tại của miền Nam. Tuy vậy, một khi cần phải đưa ra
các giải pháp cho cuộc chiến, họ lại chỉ đưa ra được giải pháp kinh
điển, nào là bầu cử quốc hội, lập lại các định chế dân chủ, điều mà cả
Mỹ, Sài Gòn và cả MTGP đều không mong muốn vào giai đoạn này. Ví như tờ
Lập Trường vào tháng 4 năm
1964 phải chăng đã ngây thơ khi kêu gọi:
“Nước Mỹ phải làm hết sức mình để
giúp người Việt Nam thành lập một chế
độ thực sự dân chủ”!
Vào lúc tôi ra Huế giữa năm 1965, Thượng tọa Thích Trí Quang còn là nhà
lãnh đạo nổi bật. Ông từng là một nhà lãnh đạo trẻ cách tân Phật giáo
Việt Nam từ những năm 1940 và năng nổ trong phong trào đấu tranh chống
Diệm. Ông cũng là một người yêu nước nhiệt thành thường bị các phe phái
chống đối cho là có tham vọng muốn biến Phật giáo thành quốc giáo và
luôn chủ trương đòi tái lập chủ quyền quốc gia. Một nhà báo Pháp đã đưa
ra nhận xét: “Trí Quang là một người
Việt chân chính, đó cũng là điểm
mạnh lẫn điểm yếu của ông ta!” Có vẻ như nhà báo Pháp muốn nói
đến
nhiệt tình của một người yêu nước lẫn tầm hiểu biết giới hạn của một
con người chỉ ở trong nước về chính trường quốc tế thời Chiến
tranh Lạnh.
Thượng tọa Thích Trí Quang, 1965
Trong thực tế, tình hình chính trị ngày càng tồi tệ hơn sau ngày Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Vào năm ngoái, Phật giáo thất bại trong việc chống lại những kẻ theo Diệm còn rơi rớt lại, gồm phần lớn là người Công giáo và cả việc đòi thực hiện bầu cử dân chủ ở các cấp địa phương với phong trào thiết lập các 'Hội đồng Nhân dân Cứu quốc'. Đó là các tổ chức mang tính quần chúng cơ sở do Phật giáo chiếm đa số tại các tỉnh thành lớn ở miền Trung. Tuy vậy, phong trào không thể lan rộng đến Sài Gòn và Đồng bằng Sông Cửu Long. Các hội đồng cứu quốc bị tố cáo là đầy dẫy Cộng sản xâm nhập, thù nghịch Công giáo, gây rối loạn và có hành động chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Phải nhìn nhận sinh viên Huế có lẽ là những người đầu tiên ở các đô thị
miền Nam Việt Nam dám ngang nhiên kéo tới phòng thông tin Mỹ công khai
đốt phá để phản đối những tin tức xuyên tạc bôi nhọ phong trào đấu
tranh Phật giáo của đài Tiếng nói Hoa Kỳ 'VOA'. Tiếp theo là việc săn
đuổi tàn dư đảng Cần lao Nhân vị còn trung thành với Diệm và đã từng
xảy ra đổ máu. Tại Đà Nẵng, các nhóm Công giáo di cư được người Mỹ vũ
trang và huấn luyện để tung ra miền Bắc, phản ứng lại và gây thương
tích nhiều người biểu tình Phật giáo. Tình hình diễn ra trông giống như
một cuộc chiến tranh tôn giáo đã xuất hiện tại các đô thị miền Trung.
Quân đội phải can thiệp để tránh đổ máu thêm nữa.
Lúc này thì những thủ lĩnh Phật tử trẻ tuổi tôi quen biết ở Huế đang
bận rộn với chiến dịch vận động bầu cử tự do. Họ thực sự đang rơi vào
ảo tưởng nắm chính quyền vào lúc mà Mỹ leo thang chiến tranh và củng cố
nội các chiến tranh do tướng không quân 'cao bồi' Nguyễn Cao Kỳ cầm
đầu. Tuy vậy, nếu tôi thất vọng với đường lối lãnh đạo Phật giáo chính
thống bao nhiêu thì tôi lại lạc quan bấy nhiêu với phần lớn anh em
trong phong trào sinh viên Huế, khi nhìn thấy họ tự tin và tràn đầy
nhiệt huyết yêu nước. Có lẽ họ đang chờ đợi một thời cơ khác để dấn
thân quyết liệt hơn.
Tôi rời Huế sau một đêm thức trắng nói chuyện với hai anh em nhà Hoàng
Phủ. Tôi nghĩ rằng Ngọc Phan có lẽ đã đứng hẳn về phía MTGP rồi. Nhưng
Ngọc Tường thì vẫn còn trăn trở trong việc tìm kiếm một hướng đi mới.
Anh bối rối trước các giải pháp cho miền Nam Việt Nam và có lẽ cũng
đang trải qua quá trình “nhận dạng kẻ thù” cam go như chúng tôi ở Sài
Gòn suốt cả năm qua. Lớp tiểu tư sản thành thị chúng tôi lúc đó dẫu sao
cũng còn e dè về chủ nghĩa và con người Cộng sản. Dù sao anh vẫn là một
nhà triết học, không dễ dàng chấp nhận các giải pháp làm sẵn. Tuy vậy,
tôi nghĩ hiện nay anh đang bối rối trước sự kiện có mặt ngày càng đông
đảo của binh lính Mỹ. Lúc này tình hình không còn êm ả của những năm
trước khi ta còn có thể ngồi cân nhắc các giải pháp. Tôi nhớ Ngọc Tường
từng chủ trương một lập trường Phật giáo mang tính nhân văn và ôn hòa
trong việc giải quyết chiến tranh Việt Nam. Tình hình hiện nay không
còn cho phép một giải pháp 'đứng trên' hoặc 'đứng giữa' tương tự xuất
hiện. Đối với những thanh niên trong phong trào đấu tranh đô thị như
chúng tôi, trước mắt nay chỉ còn rất ít sự lựa chọn, hoặc chính quyền
Sài Gòn hoặc MTGP.
Ngày hôm sau, tôi rời Huế cùng mấy thanh niên IVS Mỹ (5)
tham quan vài điểm công tác xã hội trong vùng. Phong trào công tác xã
hội do người Mỹ yểm trợ đang hình thành. Các giáo viên đưa học sinh đến
công tác tại mấy trại dân tỵ nạn ở ngoại ô Hội An, lúc đó là tỉnh lỵ
Quảng Nam. Họ dựng các căn nhà khung sườn bằng gỗ lợp tôn, vần cót tre,
rồi đào vội vã mấy cái hố vệ sinh cho những người nông dân bị bom đạn
lùa về từ các vùng nông thôn chung quanh. Lính Thủy quân lục chiến Mỹ
đã bắt đầu các cuộc hành quân 'Lùng và Diệt' chung quanh Đà Nẵng.
Bom đạn đang lùa người nông dân về thành phố, vào các trại tỵ nạn,
trong chiến dịch ‘Tát cá khỏi nước’ của Mỹ.
Trại tỵ nạn này dựng trên một khu đồi cát khô cằn không có một bóng
cây, kẽm gai rào chung quanh giống như các trại tập trung, trông thật
thê lương. Tôi nhìn thấy rõ những khuôn mặt mệt mỏi và sợ sệt. Không
biết họ nghĩ gì về chúng tôi? Có lẽ họ cho rằng đây là mấy quan chức Mỹ
và đám thông dịch người Việt đi kiểm tra công tác của nhóm thanh niên
học sinh vô công rỗi nghề, sinh sống yên lành trong vùng thành thị
không có chiến tranh.
Các thanh niên IVS Mỹ cũng không nói gì nhiều. Phần lớn họ là những
sinh viên đã tốt nghiệp đại học và tình nguyện làm công tác xã hội ở
nước ngoài, đáp lại lời kêu gọi của tổng thống Kennedy tiến về các
'biên cương mới' của đói nghèo và lạc hậu. Khi đã bắt tay vào một việc
gì thì họ làm cật lực theo như tính cách Mỹ, hoàn thành tốt công việc
được giao. Đó là công tác trung gian điều phối giữa các nhóm công tác
xã hội địa phương và phòng đại diện USOM trong khu vực. Tuy họ giữ thái
độ im lặng, nhưng tôi nghĩ rằng trong đầu óc họ đã bắt đầu xuất hiện
những điều nghi vấn về tình trạng phi lý và mâu thuẫn mà họ đang dính
dáng vào. Một mặt thì họ đi cứu trợ những người dân tỵ nạn, mặt khác,
bom đạn Mỹ tạo ra người tỵ nạn cho họ chăm sóc!
Chúng tôi phải lên xe về Đà Nẵng sớm vì đoạn đường ngắn chỉ có 20 km từ
Hội An về Đà Nẵng thường không mấy an toàn cho xe Mỹ. Xe có thể bị du
kích bắn tỉa. Về đến Đà Nẵng mà trời vẫn còn sáng. Tôi chào từ giã họ
đi tìm một người cần gặp, theo như sự sắp đặt từ Sài Gòn.
Nguyễn Hữu Thái
CHÚ THÍCH :
1. Hai ông Trung đều là trí thức Công giáo tiến bộ, giảng dạy ở khoa
Triết tại đại học Văn khoa Sài Gòn, có các bài viết gieo ý thức cách
mạng xã hội, giải phóng dân tộc cho lớp sinh viên miền Nam thời chiến
tranh Việt-Mỹ
2. Nhất Hạnh: nhà tư tưởng lớn theo hướng chấn hưng Phật giáo, đưa đạo
vào đời, chủ trương hòa bình, hòa hợp hòa giải dân tộc, hoạt động tích
cực ở hải ngoại
3. Tường và Phan là hai anh em hoạt động rất tích cực trong phong trào
giáo chức và sinh viên đấu tranh ở Huế, sau sự kiện năm 1966 đều thoát
ly ra chiến khu
4. Nhóm ‘Lập Trường’ bị cả phe Quốc gia lẫn Cộng sản không tán đồng
nhưng đều phải lắng nghe trong các năm 1963-1966
5. “International Voluntary Services”: tổ chức thanh niên tình nguyện
Mỹ, hoạt động theo mẫu Đoàn Hòa bình (Peace Corps) do tổng thống Mỹ
Kennedy chủ xướng vào đầu các năm ’60, chủ yếu tập trung về các lĩnh
vực giáo dục và nông nghiệp
Các thao tác trên Tài liệu