Khói trời lộng lẫy
Khói trời lộng lẫy
Nguyễn Ngọc Tư
1
Nghe tiếng mưa khi mưa hãy còn xiêu xiêu ngoài sông, rồi mưa băng qua bờ lá có căn chòi hoang ở phía Nam cồn, ào vào bãi đất xơ rơ những thân lau sậy cháy, giờ thì mưa đã dội trên mái nhà, trượt theo những đuôi lá mục mưa thả mình vào đất. Khe vách rách rã chẻ mỏng những ngọn gió ướt, chém ngọt qua người, lạnh rởn lỗ chân lông.
Tôi lụi hụi ngồi dậy đắp mền cho thằng Phiên. Tấm mền ngắn ngủn, mong ấm cổ thì hở chân, che kín đôi chân thì phong phanh vai trần. Lại chạm tay vào nó như thường chạm khẽ trong đêm. Có lúc thằng nhỏ hơi mỉm cười, có lúc nó càu nhàu rồi lăn sát vách mùng, có khi nó quạu quọ gạt tay tôi ra. Nó phản ứng kiểu nào tôi cũng vui bởi ý nghĩ, nó còn ở bên tôi.
Nhưng khuya nay, khi tay tôi vờn trên cái mũi lấm tấm mụn của Phiên, khi cái đầu gối xương xẩu của nó co lại thúc vào sườn tôi đau nhói, vẫn cảm giác thằng nhỏ đang rời đi xa lắm rồi. Nó đi trên chiếc xáng cơm cùng những gã đàn ông lạ. Chiều qua, chiếc xáng đã nhổ neo rời khỏi cồn. Nhưng mưa mùa triền miên cùng với những cơn giông gió cũng không ngăn được nó quay lại, càn rướn vào rặng ô rô rách bươm.
Và không có gì ngăn gã đàn ông trên chiếc xáng kia tới tìm tôi, với vẻ nham nhở thường ngày, hỏi tôi suy nghĩ tới đâu rồi. Nham nhở như gã của ba ngày trước, khi chìa ra một vuông báo cũ ố vàng và khiêu khích hỏi tôi có gì để đổi không. Mảnh giấy nhỏ nhoi ngó chừng vô nghĩa nhưng gần như tôi không có gì đáng giá đánh đổi, ngoài chính tôi. Gã chỉ chờ đợi điều đó thôi, khẽ cười đắc thắng.
Nhưng tôi câm lặng không phải vì tuyệt vọng mà vì những bức ảnh trong bài báo phất phơ trên tay gã. Ba tôi, Anh, và tôi của ngày hai mươi ba tuổi. Tấm hình tôi dán trong bộ hồ sơ xin việc, mặt quang quẽ, tóc vén lên vành tai, nhìn thẳng, hơi mỉm cười nhưng mắt tối. Trên bài báo, ba cái ảnh nằm gần như cạnh nhau, nhưng hai người kia đang tuyệt vọng tìm tôi. Ngày trên trang báo dừng lại ở mười ba năm trước.
Ngày hai mươi ba tháng tám. Không biết bữa đó tôi với Phiên đang ở trên chuyến xe đò nào trong một lộ trình trốn chạy. Ngày hôm đó, có thể chúng tôi đang ôm nhau ngủ còng queo trong một toa xe lửa hôi sặc cứt gà, một phòng trọ mốc meo, có thể chúng tôi đang ngồi tàu đò, lúc đi qua cái cồn xanh mịt những rặng dừa nước, rặng bần có ai đó thở dài ứ hự, “cho tui nhiêu tiền cũng không lên cái cồn Bần này ở, buồn thấy mẹ…”, tôi liền kêu tàu ghé lại. Anh tài công xửng vửng, chắc hôn vậy, chắc chỗ này không, tôi gật đầu cười, bồng Phiên bước lên bờ, nói về tới nhà rồi, cưng ơi.
Chiếc tàu de khỏi bờ lá, Phiên vẫn đang ngái ngủ trên vai tôi, không biết rằng từ nay nó sẽ sống một cuộc đời khác, với cỏ cây, với sông nước, và vài ba nóc nhà thưa thớt của xóm cồn.
2
Khoảng cách ngàn cây số cũng không ngăn
được những chiêm bao. Có thể ban ngày tôi thường nhớ,
khi ngó cỏ cây, nhìn những người xóm Cồn í ới giúp
tôi lợp nhà, ven vách, nhìn Phiên lửng đửng đi từng
bước trên đất… tất cả đều quen thuộc. Như những
gì cất giữ ở Viện di sản thiên nhiên và con người.
Mỗi chiêm bao là một lát cắt, một cảnh
phim dang dở về nơi đó. Có khi tôi thấy vía mình ngập
ngừng đi vào một tòa nhà cũ chìm lút trong một khuôn
viên um tùm cây cỏ. Qua mấy bậc tam cấp gãy nứt nối
với khoảng hành lang hơi tối có vài căn phòng khép cửa.
Cuối lối có mảnh sân rộng nằm giữa tòa nhà, nắng
sáng rót lưng chừng. Nhiều tấm pano được treo trên bốn
bức tường vây quanh, giăng giăng những khẩu hiệu, bên
này là “giữ gìn cái đẹp của nhân loại như giữ nhịp
đập trái tim mình”, “cái đẹp thường mong manh và tàn
nhẫn, chúng ta sẽ chạm vào điều kỳ diệu giữa cơn
đau”, bên này là “cần có một tâm hồn lớn để cảm
thụ những cái đẹp cuộc đời”. Chữ nào cũng chắc
nụi, lớn lao.
Vía tôi bị chữ hù, cứ hí húi đong đếm
coi tâm hồn mình bao lớn, rồi vía thấy một dòng chữ
khác được đắp nổi lên tường, “Không có gì là mãi
mãi, hãy cất giữ thế giới này”. Vía tò mò, hồi nhỏ
tới giờ chỉ biết đất nước muôn năm, anh hùng muôn
năm. Ở đây họ nói không có gì là mãi mãi.
Tò mò quá, vía đẩy cửa vào.
Và trong những chiêm bao hao khuyết tôi từng
đêm, những cánh cửa của tòa nhà Viện di sản thiên
nhiên và con người luôn mở ra rất chậm, sau tiếng kèn
kẹt là vùng ánh sáng chói lòa, như thể phía tôi là bóng
tối.
Khi đó thằng Phiên lăn sát vào tôi, hay
chân nó đập xuống giường trong lúc trở mình làm tôi
thức giấc, ký ức vẫn tiếp tục mở ra những cánh cửa,
mở ra những rung động, bất ngờ. Một vài căn phòng
giống như biển, ngay lập tức khiến tôi chìm sâu, ngộp
thở, nhưng tôi hoàn toàn không muốn vùng vẫy, chạy
trốn. Lý do đôi lúc chỉ vì trong đó có người đàn ông
giống như một người nào đó tôi đã gặp trong đời,
một người tôi đã mất dấu.
Nhưng người đàn ông phỏng vấn tôi hôm xin việc không tỏ ra chút nào quen biết, anh ta hờ hững và xa lạ, lơ đãng khép mở hồ sơ trên tay, lơ đãng hỏi một câu lơ đãng, em có kinh nghiệm gì ?
Trời, kể hết chắc tới mai. Tôi đã từng rửa chén và phục vụ ở nhà hàng, sơn tường nhà, phát tờ rơi, chăn trẻ con, xé vé ở rạp chiếu phim… và tôi còn có khả năng tươi cười, bất kể hoàn cảnh nào. Nhưng chẳng hiểu sao khi anh gác chân còn lại lên bàn, tôi lại nói ra một kinh nghiệm kỳ lạ :
— Tôi lắng nghe người ta nói.
— À, vụ này hay nghen, vậy chớ em nghe làm
sao ?
Tôi nhìn mấy tờ giấy bay lắt xắt trên
bàn, và nghĩ mình có quyền nói dóc là trực đường dây
nóng cho sản phẩm dầu gội hay thuốc diệt muỗi abc nào
đó. Nhưng tôi ngước lên, cố bắt chước vẻ giễu cợt
của anh ta, làm bộ điều tôi nói ra đây không quan trọng,
“ cũng lâu lâu rồi, tôi có làm bồ mướn ”.
À, người đàn ông không biến sắc, anh ta
làm như mới nghe nói tới nghề này lần đầu, nói lạ
quá, em kể thêm chút nữa đi. Tôi dùng hết vẻ thản
nhiên mà tôi vơ vét được, thuật một câu chuyện mà
tôi biết nó chán òm. Có lúc không tìm ra học phí, bạn
bè nói làm bồ mướn cũng có tiền, rồi giới thiệu cho
tôi một anh. Chúng tôi gặp nhau không đem quá khứ theo,
không có cả tên, gọi anh ơi em ơi như mặc nhiên tên họ
là Anh tên tôi là Em. Những cuối tuần, tôi nín thở chờ
điện thoại run lên và Anh nói sẽ đón. Chúng tôi đi ăn,
uống, đi tới những cái quán nước vắng người để
ngồi chơi. Có khi anh nói, tôi nghe. Có khi Anh không nói gì
thì tôi im lặng, im lặng cũng là cách lắng nghe. Cao trào
của mối quan hệ này là một lần Anh bật khóc nên tôi
cho mượn vai. Tóc Anh hơi rối làm cổ và má tôi nhột
ran, cả người tê dại, nhưng tôi cố chịu, vì tôi là
bồ mướn. Nên vai này coi như được trả tiền rồi.
— Chúng tôi… không đi xa.
— Đi xa là đi đâu ? – Lại giễu cợt.
— Từ eo tôi trở xuống.
Tôi quyết định dừng câu chuyện ở đó,
giữ đoạn cuối trong lòng. Sau bữa cho mướn vai, tôi
bỗng nghĩ, thôi kệ, đi xa cũng được, nhưng Anh không
bao giờ gọi nữa. Không có tăm tích nào trên đời, như
một giấc mơ vậy. Tôi buồn xanh xương. Không bao giờ
tôi hình dung mình gặp lại giấc mơ xưa trong căn phòng
này, vẫn gương mặt phớt đời, vẫn cái nhìn ngạo
nghễ, và vẻ lạnh lẽo xa xôi.
Tự dưng, tôi thèm muốn tìm được một
công việc nào đó ở đây, quét lá cây trong vườn cũng
được. Buổi phỏng vấn là một cơn nín thở, và òa vỡ
khi người đàn ông xốc xấp giấy tờ lại, bắt tay tôi :
— Từ giờ cô sẽ lắng nghe thiên nhiên nói.
Cái kiểu bắt tay cũng hờ hững, đầy vẻ
ban ơn. Tôi không thấy phiền chút nào hết. Tôi vui muốn
chết.
3
Chuyện đời tôi được người xóm Cồn
đồn đoán, thì thầm rằng, yêu một người bị gia đình
phản đối, tôi bất chấp trốn nhà theo anh ta, sinh thằng
Phiên, rồi bị anh ta bỏ, không biết đi đâu về đâu,
tôi tạt qua xóm Cồn ở tạm, chờ ba má tha thứ tôi sẽ
dẫn con về. Chưa bao giờ tôi kể, nhưng ánh mắt u tối
của tôi, thằng nhỏ đang lẽo đẽo dưới chân tôi, kiểu
cười tránh những câu hỏi khó, tất cả đã nói
thay.
Rằng tôi tới đây chờ đợi một sự lãng
quên, giống ông Sáu Câu từng chịu án giết người,
giống chị Thắm lẩn tránh những đòn ghen của bà vợ
lớn, giống chị Thiện bỏ lại ở quê chồng con và món
nợ hụi hè … Những người mà họ nợ dù tình cảm hay
tiền bạc, biết họ ở đây, nhưng không ai đuổi theo.
Cái cồn nằm giữa dòng sông Mê mênh mông, tự nó như
một chốn lưu đày.
Chân trời chỉ nước và cây, mặt trời
mọc trên sông rồi lặn vào sông, bờ Bắc bờ Nam nhiều
bụi rậm mọc hoang lẫn trong những chòm cây cối. Chiều
nào bìm bịp kêu, nắng chìm lỉm theo. Tôi hay nhìn về
đó, tự hỏi người ta còn tìm kiếm tôi không ?
Một ông già vác cần câu đi qua, hỏi tôi,
nhớ nhà hả cô ?
4
Tôi nhớ vài căn phòng, ám ảnh và xao động,
như kho lưu trữ của Viện di sản thiên nhiên và con
người. Nhà kho rộng, nhiều cái tủ kệ cao đến tận
trần nhà, chạy song song tạo nên những lối đi hun hút.
Trên kệ người ta xếp hàng ngàn khay dữ liệu, tất cả
được ghi chú bằng những ký hiệu lạ lùng. Những thiết
bị nghe nhìn đặt rải rác ở các góc phòng. Khi tôi chạm
tay vào chúng lần đầu tiên, bằng tất cả nôn nóng tò
mò và bối rối, tôi chỉ có thể nghĩ, chắc mình chết
ở đây luôn quá.
Nhốt mình trong đó suốt một tuần, và sau
này, khoảng thời gian nghỉ giữa những chuyến đi, tôi
gần như chọn kho lưu trữ của Viện là chỗ trú chân,
vạ vật. Tôi luôn thấy tiếc nuối khi rời đi khỏi căn
phòng đó như hay tiếc nuối khi rời khỏi mộ mẹ tôi.
Khi lục lọi những khay này, tôi đã dòm ngó qua khay bên
cạnh, bên đó không biết có cất giữ những hoa lau óng
muốt dưới nắng, có đàn cò trắng bay qua trăng chiều,
mớ lục bình rách nát trôi ra cửa biển, không biết có
ông già rớt nước mắt thổi khèn vờn quanh bà già trong
phiên chợ… Lẫn giữa sự háo hức là nỗi tuyệt vọng,
có thể hết đời này tôi sẽ chẳng bao giờ thưởng
thức hết những hình ảnh, âm thanh đẹp đẽ và rung
động của cuộc sống đang được lưu lại nơi này.
Họ vẫn đang làm đầy nó lên.
Và tôi sẽ làm đầy nó lên.
Hồi làm bồ mướn, có lần tôi lén lấy
điện thoại thu tiếng nói Anh, buồn buồn lấy ra nghe
chơi. Mà nghe lần nào cũng có cảm giác đói, đoạn âm
thanh ngắn là tiếng muỗng chao leng keng trong ly cà phê đá,
và Anh lơ đãng hỏi, “ đói bụng không ? ”, tôi nhớ khi
đó mình đã ứa nước mắt, giả vờ cúi xuống cột dây
giày. Tôi hay cảm động với những câu hỏi như đói
bụng không, ăn gì chưa…
Công việc của tôi ở Viện cũng gần giống
vậy, tìm kiếm và ghi chép những âm thanh, hình ảnh giản
dị của cuộc sống được cho là có giá trị, đáng lưu
giữ. Nó có thể như một cái phim tài liệu nhỏ có mở
đầu và kết thúc, hay chỉ là lát cắt bất chợt của
mưa, gió, của lá rụng hay những bông hoa lăn trên cát…
Tôi rời căn phòng nhỏ trên tầng thượng
cư xá sinh viên, nơi tôi làm ổ bốn năm học và thêm một
năm tìm việc. Nhiều đêm buồn quá, tôi giả làm tượng
phơi sương, rình coi những đôi chim heo yêu nhau, lá cờ
bay bên tai rười rượi. Hôm gom mớ hành lý hẩm hiu cùng
di ảnh của mẹ đi, tôi ghi lại tiếng cờ bay, coi như là
mẫu đầu tay, mang về Viện. Anh trưởng phân ban của tôi
râu tóc rối bời, lúc nào cũng bỏm bẻm nhai kẹo cao su,
nghe xong anh vạch bụi râu ra cười, “ Buồn hen nhỏ, nghe
cô đơn dã man, đâu đem duyệt thử coi…”. Tôi luôn chờ
đợi những cơ hội nhỏ nhoi đó, được tới gặp anh
Viện phó mà tôi thương thầm, với lý do chính đáng. Và
vẫn như mọi khi, anh này giễu cợt, chậm rãi và tàn
nhẫn, làm tôi chết mê chết mệt.
— Kiếm sọt rác nào xấu nhất quăng cái
này vô, xong đi tìm cho tôi những gì sắp mất, ngoài kia
nhiều lắm…
Tôi gật gật làm ra vẻ đã hiểu rồi,
nhưng “ ngoài kia ” chính xác là ở đâu ? cái gì sẽ mất ?
Có nhiều câu hỏi người ta tốn cả đời
để trả lời, thí dụ như câu “Anh có thương em tới
chết mới thôi không ? ” Tôi nghi ngờ mẹ tôi đã từng
hỏi cha tôi câu này, hồi còn con gái. Cha tôi thấy khó
nói quá, thôi cúi xuống khóa môi mẹ tôi cho rồi, có ai
vừa làm chuyện đó vừa nói được đâu. Tôi thò đầu
ra đời, mẹ mừng húm, tưởng tình yêu trả lời. Nhưng
cha tôi cùng chiếc xe tải bèo nhèo bán cây giống chỉ
quay lại xóm Chiếc vài lần, thưa, thưa dần và cha tôi
không tới nữa, khi tôi bốn tuổi. Tôi bắt đầu hỏi
một câu dễ òm, “ mẹ ơi, cha con đâu ? ”, mẹ ngó ra
sân, nói con chuồn chuồn đẹp quá. Cũng có khi mẹ chỉ
vào vách và nói thằn lằn cụt đuôi kìa con. Tôi rượt
đuổi theo những vu vơ của mẹ suốt thời thơ ấu, cho
đến khi ngơ ngác đội khăn tang đi trong một đám ma ít
người đưa, vẫn không nhận được lời đáp. Tôi hay
nghĩ, nếu hôm đó chiếc xe khách không hất mẹ văng bên
đường, chắc chắn buổi tối lại mẹ sẽ kể cho tôi
nghe chuyện về cha tôi. Nhưng buổi tối bị bỏ lỡ, câu
hỏi đó vẫn được day đi day lại, và tôi trả lời
theo cách của mình. Như khi mợ tôi tỏ ra hờn giận, “ nhà
hết gạo rồi, chừng nào ba mầy về dẫn mầy đi ? ” tôi
cười nói trưa nay con không ăn cơm, hồi sáng ăn mấy củ
khoai còn no quá chừng. Như những lần sắp nhập học, mợ
nhắc, “ không biết chừng nào ba mầy quay lại…”. Tôi
nhẹ nhõm cười, hồi hè con đi làm kiếm được ít
tiền, con tự đóng tiền trường được, mợ khỏi lo…
Nói trớt quớt, nhưng mợ hài lòng.
Hồi đó tôi đã biết một câu hỏi có năm
bảy kiểu trả lời, giản dị nhất là toét miệng ra
cười, khỏe nhất là kêu “ đi hỏi ổng ”, phức tạp
nhất là đi mấy chặng xe lớn nhỏ tới một chợ xã lún
trong bụi đất đỏ, gặp một người đàn ông tóc vuốt
dầu mướt rượt bảnh bao, thảnh thơi ngồi chơi bài
“ tiến lên ”, góc nhà có hai đứa nhỏ đang cự nự. Vợ
ông trạc tuổi hơn mẹ tôi, bưng ra cho tôi ly nước hột
é, hỏi em cưng kiếm ai ở chợ này, tôi ngó người đàn
ông nói, dạ cháu cũng quen sơ sơ thôi, giờ mưa quá nên
hết quen rồi. Năm đó tôi mười bốn tuổi, đã bắt đầu
tự mình tìm kiếm câu trả lời, những khi thấy lòng
thắc mắc.
Giờ tôi đang thắc mắc cái đẹp nào đang
và sắp mất. Để tìm câu trả lời, tôi bắt đầu rời
khỏi thành phố, bắt đầu những chuyến đi xa. Vì thành
phố đã xua đuổi thiên nhiên đi xa.
Tôi thường tần ngần ở ngã ba, không biết
mình nên bắt đầu từ đâu. Chung quanh tôi quá nhiều vẻ
đẹp, đừng nói dấu mưa xoi khuyết những viên gạch
trần, hoa bìm bìm lợp tím rịm cả một chòm cây, vạt
rừng bướm bay như trấu vãi… với tôi, cây cỏ cứt
heo mọc bên đường cũng đẹp. Nhưng những vẻ đẹp này
trong kho lưu trữ Viện đã chật đầy, tôi vẫn phải
loay hoay.
Một bữa, khi rửa đôi giày bê bết bùn
sình bên sông Ba Bẩy, tôi nghĩ, không biết dòng nước
này đang mang bụi đường này chảy về đâu, sao mình
không theo nó thử coi. Nước cứ men theo bờ bụi chảy
hoài cong cong quanh quanh, có đoạn nhập vào nhánh sông
khác rồi lúc sau lại rẽ. Những biến hóa bất ngờ cứ
xỏ mũi dắt tôi đi, dòng chảy lúc cuống quýt lúc nhởn
nhơ, hoa cỏ bên bờ, những xóm làng bên bờ… Có tối
tôi nằm ém gần bụi chùm gọng hàng giờ, chỉ để chờ
con bìm bịp trong đó cất tiếng kêu cho bầy đom đóm hết
hồn bay lên lả tả. Có trưa ngồi coi nước lên, thấy
vài sự sống tình cờ từ những trái mấm đi hoang kẹt
trong miệng hang của con cá thòi lòi, bén rễ luôn ở đó ;
một trái dừa chuột khoét trôi ngang qua, chở theo con
chàng hiu ngồi thom lom, mặt nó buồn vô phương, như thể
hỏi rồi đời đưa ta giạt về đâu ?
Dọc đường, gặp người tôi cũng xáp vô
làm quen. Tôi theo những người chài cá chốt giấy, tường
thuật luôn một vụ giỡ chà, rồi nhảy qua chiếc xuồng
be chín có cắm tàu lá dừa làm buồm cho gió đẩy đi,
lai rai với ông già vừa uống rượu vừa ung dung cầm
lái. Tôi còn rình được thằng nhỏ vừa thót lên cất
vó thì cái quần đùi giãn dây thun bị tụt, nó quýnh
quáng buông càng vó chụp quần lại, làm cái vó úp trúng
chiếc xuồng chèo ngang qua, tiếng rầy la dậy động.
Tôi về nói bên mộ mẹ, lúc này con làm
mấy chuyện tào lao lắm, mắc cười lắm. Mẹ tôi im
lặng, kiểu của mẹ dù sống hay chết, dù chung quanh mẹ
người ta đang nhộn nhạo nói cười. Ngày tôi bỏ quê đi
ngôi mộ còn nằm tuốt ngoài đồng, giờ thì lọt thỏm
giữa một xóm nhà, muốn ra thăm phải chen bên hè của
một quán nhậu có rèm che. Đi qua lần nào cũng có người
níu lại, kêu cầm mớ tiền rồi đem cái mả đi, chớ
giờ người ma lộn xộn xà ngầu, hết phân biệt nổi.
Đi qua lần nào cũng có cô nào đó giòn tan than í nhột
nè quỷ sứ anh, tiếng đàn ông cười khơ khơ anh khát
sữa lắm cưng ơi, lẫn trong tiếng nôn ói ồ ồ đằng
sau.
Dòng kinh trước nhà ngoại tôi người ta
chặn lấp, những chỗ còn lại thành những ao tù đầy
nước, ai đó cắm bảng “ cho mướn nền ”. Tôi sực nhớ
ra thân phận của con sông Ba Bẩy tôi vừa đi qua. Bèo
thôi trôi, chỉ còn người trôi, chắc chắn có mấy cô í
nhột nè quỷ hà. Di sản của con sông chỉ là hình ảnh
mà tôi vừa nhặt nhạnh được.
Và những vẻ đẹp được nhốt trong phòng
lưu trữ của Viện là những tiếng kêu thét tuyệt vọng,
bất lực trước mất mát, sự run rẩy của nỗi buồn,
bởi quá nhiều thứ ta sẽ không bao giờ thấy lại ngoài
đời. Anh đạo diễn phim sẽ tới đây để tham khảo
những âm thanh của khu rừng nguyên sinh ngàn năm tuổi cho
bộ phim mới. Tôi sẽ đưa cháu mình tới, chỉ cho chúng
biết kia là chim sẻ, kia là núi, còn đây là chiếc xích
lô, xe thổ mộ hồi xưa ngoại từng ngồi, hơi xóc tí
nhưng hay lắm, thơ mộng lắm… Cứ vậy, tôi hình dung
mông lung, rồi bỗng dưng ăn gấp thở gấp ngủ gấp. Tôi
muốn nhanh tới những dòng sông, cánh đồng khác. Chỉ
khi nào nhớ anh sếp ngạo mạn, tôi mới trở về cơ
quan, bước vào căn phòng anh, xổ ra bàn mấy chục mẫu,
ngẩn ngơ lén ngó anh ta rồi quay ra.
Có khi anh ngó lom lom, chui vô chỗ nào mà
gai quào rách con mắt vậy ?
Có khi anh nói, hèn chi mấy sạp giày ngoài
chợ bán buôn ế ẩm…
Tôi ngúc ngoắc cái ngón chân thò ra khỏi
chiếc giày rách, cười rưng nước mắt, bước ra ngoài,
nghĩ, trời ơi ảnh dễ thương hết sức. Rồi tôi đi
ngủ, cốt giữ nước mắt lại. Tỉnh dậy nhiều khi thấy
có tấm áo đắp trên người, chắc ai đó đã vào, thấy
tôi nằm chò co khó coi quá. Cái dáng nằm, như nhiều
người nói, toát ra một nỗi buồn. Tự mình cuộn vào,
ôm ấp, tự che chở, tìm hơi ấm của chính mình.
Nhứt thấy tôi ngủ một lần, cậu ta nói
tôi như con cá Bảy Trầu, sống khép mình ở những chân
ruộng sâu, ẩn náu trong rong rêu và rạ nát. Nhứt là
cộng tác viên của Viện, mê đắm những cái xóm làng
miên man bên bờ sông Ngó Ý, nơi cậu chạy đò máy xuôi
ngược mỗi ngày. Mỗi tháng một lần Nhứt lên thành phố
chở cá giống, ghé Viện, khoe với bất cứ ai cậu gặp,
“ chuyến này mẫu của em khẳm xuồng luôn ”. Mẫu của
Nhứt gợi cảm, sôi nổi như chính cậu. Con rắn mối thì
thụt trong bộng dừa mục rã. Những rạp cưới được
trang trí bằng lá dừa, bẹ chuối, lá đủng đỉnh, bông
lồng đèn… Những gàu lá, gàu miểng dừa đặt cạnh
những khạp nước mưa trong lẻo, đặt ngoài hiên đỡ
khát người qua đường. Một con nhỏ bưng tô canh măng
hầm thịt vịt đi trên đường làng, nước canh đầy
quá, đi nửa chừng nó húp bớt, qua nhà kế bên nó đưa
tô măng cạn queo cho thằng nhỏ kia, thẹn thùng nói, má
tao cho má mầy canh…
Tôi thích tính Nhứt hồn nhiên, nên khi lang
thang, Nhứt gọi điện thoại nói cuối tháng này em lên
chơi, tôi lại thu xếp trở về. Ngồi nghe Nhứt sôi nổi,
“ đó đó, lúc đó em núp bên mé mương nghen chị, ô rô
nó đâm đau dã man luôn, nhưng quay được cảnh hai thằng
nhỏ tắm sông ở truồng đo chim tự nhiên như vầy,
sướng…”. Sau đó, Nhứt sẽ mời tất cả mọi người
trong Viện đi nhậu, bằng tiền thù lao mà cậu ta mới
nhận được, chèo kéo cho bằng được, “ Bảy Trầu đi
cho vui…”. Tôi thích biệt danh đó, nghe như trên tôi có
có năm anh chị, dưới tôi còn vài đứa em, không phải
tôi trơ trọi một mình.
Món quà của Nhứt tôi mang theo. Tôi tên
Trầu, thứ bảy, mẹ của thằng nhỏ một tuổi rưỡi
tên Phiên.
5
Chỉ có một đám giỗ ở xóm Cồn, trùng
với ngày tôi với Phiên đặt chân lên đó. Người ta
nhắc, năm trước cô Trầu nhớ hôn, thằng nhỏ con cô
mới biết đi lũn đũn, năm nay nó nói sõi, chạy không
sót chỗ nào. Lúc nhìn ra sân, thấy Phiên ạch đụi rượt
con vịt xiêm cồ, è ạch cố cưỡi lên, rồi té lăn quay
ra đất, tôi ngỡ ngàng kêu thầm, trời đất, một năm
rồi sao ?
Một năm. Chín lần cười trừ khi người
ta hỏi, sao trôi giạt tới chỗ này. Một lần đốt cỏ
hoang làm rẫy. Năm lần gieo và thu hoạch trên những giồng
rau. Một lần bị rít cắn. Một lần cuốc phập vào chân
tuôn máu. Tám lần thằng Phiên ấm đầu, sổ mũi, ho. Bốn
lần hết gạo nấu cơm, phải giả đò đợi đến bữa
qua chơi nhà khác, chờ ai đó mời lơi là nhào vô ăn
chực. Ba lần quá giang xuồng đi chợ cách Cồn hai cây số
đường sông, ba lần Phiên nhìn thấy người đông. Ba lần
bỏ quên thằng nhỏ ở nhà hàng xóm, lúc nhớ ra chạy đi
tìm thì nó đã ngủ queo rồi.
Mười năm sống một mình trở thành thói
quen. Tôi thường đi băm bổ làm Phiên rớt lại đằng
sau, thường ăn cơm bằng dĩa, rúc ngủ chèo queo nơi góc
mùng… Nhưng giờ tôi đã là mẹ thằng Phiên, tôi luôn
dặn mình điều đó. Làm mẹ thì nên thường xuyên hôn
hít nó, ôm ghì nó quay vòng cho đến khi cả hai chóng mặt
quá nằm bẹp xuống đất, thổi vào mấy chỗ nhột của
nó cho nó cười nắc nẻ, dành cho nó những trái chín cây
ngon nhất, cuộn nó vào lòng lúc nửa đêm… Mẹ tôi đã
từng làm vậy cho tôi.
Và mẹ thì không bao giờ để con mình thiếu
ăn. Tôi theo ông Sáu Câu đi câu.
Ông già kỳ lạ đó có hai cái chòi cất
trên cồn. Chòi phía Tây nằm sát mé sông, mỗi khi nước
rông, hay lũ lớn nhấn cồn lún xuống, chòi còn trơ trọi
nóc. Ông già chuyển lên sống ở chòi phía Đông, vốn ở
lưng chừng, nhưng giờ cũng chấm chân vào mép nước. Và
trong cái chòi lá quật quăng tơi tả, ông đối mặt với
dòng sông, ngồi câu bất kể những ngày mưa dầm tối
tăm trời đất.
Ông không mê câu, ông không sắm chiếc
xuồng đi tìm cá như những người kiếm sống trên sông
mà chờ cá tìm mình. Vì ông hay thèm giết người, đây
cũng là lý do ông ra cồn Bần ở, khi mãn tù. Ở đây,
nếu sự ham muốn đó trỗi dậy, ông phải lội qua sông,
hay chờ tàu đò đi ngang. Có khi tàu tới thì ông ngủ
quên dưới bóng mát mấy cây bần. Có khi lội chạm bờ
kia thì ông mệt rã rời, tạnh nguội cơn khát máu. Nằm
thở một lát, ông lội ngược lại cồn.
Người xóm Cồn kể có ngày ông qua sông
đến ba bận. Kiếm được cây cần câu, ông không phải
lội tới lui nữa. Tôi hỏi :
— Chú còn muốn giết người không?
— Còn chớ, hận thâm căn cố đế mà. Lúc
nào muốn quá thì xách câu ra, dặn trong bụng, chừng nào
dính được con cá mới được đi nghen. Rủi, có bữa mới
thả câu thì thấy nó rị phao.
— Rồi sao ?
— Thì bắt cá nướng trui. Ăn no quá đâm ra
buồn ngủ, đâu có muốn đi nữa.
Ông già cười. Tôi tập hỏi để tôi trở
về con đàn bà hai mươi chín tuổi, chớ không phải bà
già chín mươi hai. Một phần, ở cái đất Cồn này, mỗi
lần hỏi đều nhận được câu trả lời, hoặc gần với
câu trả lời. Hỏi chị Thiện nhớ chồng không, chị
cười khậc khậc, nhớ có cái chân giữa của ổng hà.
Hỏi chị Thắm sao đem son phấn thả sông, chị nói ở
đây chỉ có mỗi thằng Thơ khùng, chưng diện nó cũng
đâu có coi. Người tên Thơ đó sống một mình, không già
không trẻ, suốt ngày ràng cái radio cạnh lỗ tai, mở đài
rột rẹt rột rẹt cả khi đi ngủ, có bữa đi ngang qua
thấy anh đứng một chân dưới gốc cây trứng cá, hỏi
anh làm gì, anh nghiêm nghị, “ Ta là vịt đang học tiếng
người ”. Hỏi ông Sáu đã giết ai, ông già ngó ra sông,
để lời rớt khỏi môi như một giọt rượu chảy ngược
qua cái răng gãy, “ Con vợ tôi…”. Và có khi tôi chưa
hỏi, ông đã nói, “ Thứ đó không phải để câu cá ”.
Đó là lúc tôi nấn ná gần cây cần câu nhỏ ông dựng
ở góc chòi đã lên nước bóng ngời, sợi nhợ mỏng nối
với một lưỡi câu lớn không ngạnh, thẳng như dấu
chấm than.
Ông già đã bao nhiêu lần thả câu này vào
sông chờ tạnh cơn thèm muốn tìm giết gã tình địch đã
làm gia đình tan nát, khiến ông nhúng tay vào tội ác, tôi
tự hỏi lúc nắm đoạn cần câu lạnh buốt, neo lưỡi
câu thẳng đuột xuống nước. Ngồi hàng giờ bên cạnh
thằng Phiên đang giang tay phơi rún ngủ, tôi tưởng mình
đang chờ nó thức dậy để hai mẹ coi cùng về nhà, nấu
cơm chiều. Ông già day lại móc mồi, bâng quơ hỏi, cô
thấy không an sao ?
Tôi nói không, nhưng nhận thấy câu trả
lời đó rất bất công với ông, tôi sửa lại, à mà có,
cháu sợ mất thằng Phiên.
6
Cảm giác mất mát trở nên thật rõ ràng
khi làm việc ở Viện di sản thiên nhiên và con người.
Ông già bảo vệ ở cổng Viện có lần nói
nụ cười cô Di như cái áo, mặc để giấu mớ bề bộn
trong lòng, chắc có đôi ba chỗ bị thương. Thêm một lý
do tôi thích những ông bảo vệ, họ biết tôi về khuya
hay sớm, biết bữa tối tôi ăn xôi hay bánh mì, biết tôi
có áo mới, biết tôi vừa cắt tóc, biết cả ít chuyện
riêng tư, “ cái cậu chạy đò tên Nhứt gì đó, chắc
thương cô Di mà cô không để ý, nên lúc này không thấy
lên nữa…”
Tôi giật mình, chắc không đâu. Nhứt không
tới Viện nữa bởi những xóm ấp ven sông trong lòng Nhứt
không còn. Lúc đầu Nhứt còn nhăn nhó lác đác, than vãn
lai rai khi cái đình thần Thạnh Hưng xây lại, sơn phết
như “ tuồng hát bội ”, khi người ta làm cửa cho những
ngôi nhà vốn bao đời mở phơi lòng, khi người ta dẫn
nhập nước mặn vào đồng... rồi thì một bữa Nhứt
tới chơi, nói, đi nhậu chị ơi, lần này nữa thôi…
Nhứt không tới nữa. Ấn tượng cuối cùng
về Nhứt là cậu ta quăng ly rượu vô vách quán bể nát,
chửi thề, “ Quê tui còn mẹ gì, giống như cái biển vậy…”. Điều đó làm
Nhứt khác chúng tôi, Nhứt không
chịu nổi sự mất mát. Còn người ở Viện đối mặt
với mất mát hằng ngày, hàng giờ, ở trong nó, ăn nó,
uống nó. Họ buộc phải lựa chọn, hoặc không yêu bất
cứ gì, hoặc tập chai sạn trước nỗi đau. Cách nào thì
dẫn con người về một chỗ : vô cảm. Họ có thể giẫm
lên những mầm cây vì tin rằng những cái cây này không
bao giờ sống sót được mười năm tuổi, khi cái xóm
nghèo đang chực hờ gần đó. Họ có thể nhấm nháp rượu
rắn với chim sẻ nướng dù biết đó là những con cuối
cùng, họ đã giữ cuộc đời chúng bằng tiếng hót, bằng
hình ảnh chúng sà xuống sân như một bầy lá rụng… và
đem cất trong Viện, là xong.
Tôi không còn thích ra quán ngồi. Hồi đó
tôi nghĩ đây là dịp mình gần anh Viện phó, được chào
hỏi những đồng nghiệp có khi chỉ mới gặp lần đầu.
Tôi vẫn chưa mở được tất cả những cánh cửa trong
Viện giữa những chuyến đi về. Hiếm hoi trong những bữa
tiệc tùng quen được chị Hát lỡ thời, say đắm những
cơn gió trời thích anh Đê bên phân ban con người nhưng
anh này lại mải mê đeo đuổi vẻ đẹp lem luốc của
những người thợ mỏ. May mắn ngồi chung với một anh
khét tiếng tắm ít, suốt ngày giang nắng cùng những
người đàn bà quang gánh. Mẫu của anh rất hay, những
người phụ nữ có đôi vai lệch và bên vai áo sờn,
những đôi chân gân guốc vồng lên vì chịu nhiều sức
nặng. Những cuộc gặp cũng đôi khi xảy ra trên đường,
có bữa lang thang trong chợ trung du, tôi lén sổ lồng cho
mấy con nhồng bị người ta bày bán, lúc bỏ chạy tự
dưng nghe tiếng xe máy sau lưng, ai đó kêu lên xe anh chở,
tôi nghĩ lỡ anh ta là người bán nhồng thì sao, mình đâu
có ngu. Người đó thấy tôi cắm đầu chạy hoài, kêu
lớn, “ dân di sản nè…”. Ủa vậy hả, tôi hí hửng
nhảy lên xe ôm eo anh, nghe đằng trước rầy vói lại,
“ em đúng là con nít, làm chi uổng công vậy em, mấy con
chim trước sau gì cũng bị bắt lại…”. Tôi nghĩ
trong lúc thở dốc, phải biết vầy mình chạy bộ luôn
cho rồi.
Người của Viện đông, nhưng họ cũng như
tôi, đi níu kéo những mong manh, chỉ khác, họ hay đi cùng
nhóm, thực hiện những chuyên đề về làng nghề, những
trò chơi dân gian, hay nghệ thuật làng. Lâu lâu, thấy
phòng đã lâu im ỉm bỗng dưng hé cửa, bật đèn, biết
có người về, tôi ló đầu vào làm quen. Sau đó nhậu
nhẹt, khen nhau và chê nhau. Cái anh hay theo mấy cô thôn nữ
đội nước lên đồi cát chê anh nằm vùng trong những
hẻm lao động đem về mấy cái mẫu tầm thường, lem
luốc. Anh này cười nói đẹp đâu phải là mấy cô gái
mặc áo dài đi qua cầu khỉ, đẹp là mồ hôi, là da sạm,
tay chai. Rồi thì gió qua đồng cỏ là cái đẹp xa xỉ và
vô nghĩa, một cánh đồng xanh mạ, hay rẫy bắp đang trổ
cờ hay hơn nhiều. Rồi thì bồ câu là vứt đi, chim đồng
chim bãi mới đẹp. Rồi thì rừng núi mới kỳ bí, mới
nhiều tầng nhiều vỉa cần khai thác, chứ đồng bằng
toang hoác, còn gì mà người ta chưa chạm vào đâu. mấy
anh phân ban thiên nhiên nói không con nào tàn phá gây hại
như con người, đi tới đâu thiên nhiên lụn bại tới
đó. Mấy anh phân ban con người sôi máu, vậy thì anh từ
chối làm người rồi, con người mà không đẹp thì có
gì đẹp nữa.
Lúc đó tôi ngồi rất gần họ, mông bẹp
lên xác kẹo cao su của họ, mặt dính dấp nước bọt
của họ, mắt thấy vũng ghèn và những bợ rau trên răng
của họ, tôi bỗng nghĩ mười năm trước hẳn họ vẫn
còn rất đẹp, họ còn biết run rẩy, xốn xang, đau nhói
trước cuộc đời, nhưng không ai giữ vẻ đẹp của
những người giữ gìn vẻ đẹp, cũng như không ai lãnh
đạo những người lãnh đạo, không ai chiến
đấu cho những người chiến đấu. Bỗng dưng cái sự
gấp gáp trỗi dậy, tôi sực nhớ mình cần đi tới sông
kia, suối nọ. Bỏ cuộc chơi giữa chừng, ai đó càm ràm, “ nhỏ này đi như
điên, không mệt hả ? ”
Tôi xốc ba lô lên vai ngoái lại cười, mệt
sao được, em có tới bốn cái chân.
7
Suốt một mùa mưa, tranh thủ nước trời
tôi cắm mặt vào rẫy. Mây treo phía lưng tôi mỗi ngày
năm bảy tiếng đồng hồ. Trong khi tôi cuốc giồng này
thì giồng rau muống đã vượt khỏi gang tay, bên kia cải
vừa gieo hạt, nhưng những cây còn sót lại đã lên
ngồng. Tôi giành đất với lau sậy, lấn từng giồng,
từng giồng. Sao cho mỗi khi xóm Cồn có xuồng đi chợ là
có mớ đồ rẫy tôi gởi theo. Và với Phiên mỗi chuyến
xuồng về là một cuộc hội hè với bánh kẹo, quần áo
mới.
Tôi chờ bí ra trái. Tôi chờ ổi ra trái.
Tôi trồng những cây lâu năm. Đôi khi tự thấy hành động
này cũng giống như ông già Sáu ngồi bên sông với cần
câu lưỡi chữ i, tôi đang neo cặm mình vào mảnh đất
này, nuôi Phiên lớn.
Người xóm cồn đi qua rẫy tôi nói, cô
Trầu làm lụng như có tới bốn tay. Ểnh người, một
tay chống nạnh, một tay đấm lưng, tôi lặng đi, nhớ
đứa bạn tên Lam.
Hồi học cấp Ba, khoảng giáp Tết, Lam giới
thiệu tôi và đội sơn nhà của chú nó. Phần việc của
tôi là lon ton bên dưới, Di ơi lấy giùm thùng sơn, Di,
lấy cho cây cọ, giấy nhám đâu rồi, Di và Di, dời
thang. Tôi rất thích được kêu Di ơi suốt. Tôi thèm muốn
mình được gọi tên, đến nỗi có lần mướn thằng nhỏ
bán vé số, nói nó kêu Di ơi đi tôi trả năm ngàn. Nó
nói vậy tui làm má bà hen, rồi chống nạnh riết róng,
“ Di, mầy trồi đầu về đây tao biểu coi…”. Thấy
tôi trào nước mắt, nó cụt hứng, càu nhàu, “ thôi bà
khùng quá bà ơi, tui lấy tiền của bà chi... ”
Nên tôi ưa làm sai vặt, khoái cảm với
những lời rầy rà la mắng. Đi sơn tường càng thích vì
khi lơ lửng trên cao người ta hay kêu tên tôi. Lam hay ghé
qua công trình của chúng tôi, nói tiện đường… Mọi
người cười, sao không nói thẳng là mê gái, mậy ? Tôi
lừ đừ không ngó tới, miết giấy nhám vào vách tường
loang lổ. Tôi không thích Lam nhà giàu rảnh rổi, mới lớp
mười một mà đòi yêu đương. Tôi ghét cái tên không
biết là trai hay gái, ghét chiếc xe máy tiếng nổ như xé
vải. Tôi ghét Lam cha mẹ đủ đầy, thậm chí còn dư mấy
má nhỏ ở quận hai quận tám. Tôi ghét cái đầu tóc dày
hất ngược bồng bềnh, ghét luôn nước da trắng và cái
mũi thẳng, ghét như thể trời lấy hết của tôi để
ban cho Lam.
Lam biết, nhưng nó vẫn thích tôi, cuộc
sống của một thằng con trai muốn gì được nấy không
phải lúc nào cũng gặp một thách thức thú vị như vậy.
Một bữa đúng lúc Lam đảo qua nói vo ve, tôi dời cái
thang chữ A ra ban công, thang nhôm chạm vào dây điện
trung thế làm tôi chết giấc.
Lúc tỉnh dậy tôi đã sống cuộc đời
khác. Người ta kể Lam vì cứu tôi nên đôi tay bị cháy,
có thể phải tháo khớp tận vai. Có vẻ như ông trời
đang lấy của Lam để chia chác, mà tôi biết làm gì với
một đôi tay nữa, chỉ một thôi đã quá nhọc nhằn rồi.
Nhưng tôi không có chọn lựa nào, Lam đã
cho rồi, tôi phải nhận. Thăm Lam khi vừa tỉnh dậy, nó
khóc, tôi mếu máo nói, “ thôi đừng buồn, tui sẽ
lấy Lam làm chồng ”. Lam ngoẹo đầu qua bên vách, cố
giấu cơn khóc dữ dội hơn, khóc mà không có tay để
giấu mặt, không có tay để lau nước mắt. Hồi đó, báo
chí ca ngợi Lam như một anh hùng, nhiều cơ quan tới tận
giường tặng bằng khen, tặng tiền, tặng nước mắt cảm
thương. Lam trả lời tám cái phỏng vấn, nói tôi không
hối hận.
Lam nói không hối hận. Nhưng mắt nó nói
tôi hối hận. Mặt nó nói tôi hối hận. Đôi tay áo
trống rỗng phơ phất của nó nói tôi hối hận. Tôi chưa
bao giờ thấy nỗi buồn nào giống vậy, buồn vì đã làm
việc tốt. Buồn vì đã tốt. Những lần tôi tới chơi,
vui thì Lam để tôi đẩy xe đưa nó ra vườn, buồn thì
nó đuổi thẳng, về đi, tui không cần thương hại. Tôi
chối nhưng ánh mắt tôi đã phản bội, nó nói rõ ràng,
tôi thương hại. Không bao giờ mắt dám nhìn thẳng vào
đôi vai trụi trơ.
Tôi cố dặn mình hãy nhìn vào đó công
bằng như nhìn một người lành lặn, công bằng như nhìn
thằng bạn mà mình căm ghét, hãy cười ha ha và nói đáng
đời mầy, ai kêu mày giàu, mày sung sướng, giờ ráng
chịu. Những buổi tối làm việc ở nhà hàng, tôi cắt
cánh gà, nhìn vào cái thân mình trụi lủi của nó, thấy
không có gì là khó. Nhưng Lam không phải con gà, hay cái
cây bị tỉa nhánh. Và nếu quyết định gắn bó suốt
đời, thì chúng tôi sẽ làm tổn thương nhau trong lúc
nhìn nhau, âu yếm nhau, liệu chúng tôi có chịu được
không, tôi nghĩ nát cả tuổi mười bảy. Lam nói không
được đâu, nó nói bằng cách nhảy từ ban công tầng ba
xuống. Tôi bắt đầu sống bằng hai người, nhưng việc
đó cũng làm tôi tàn tật.
Nghe câu chuyện này, anh Viện phó kêu, thôi
khóc nhiều rồi, từ giờ em nín đi. Nhưng tôi đâu có
thấy mình đang khóc.
8
Chuyện của Lam, tôi kể Anh nghe trong một
tối trời mưa. Cúm rúm trong một căn lều ở bìa rừng,
lớp lá mục dưới chân ngấm ướt, phải ngồi chồm
hổm, hai chân tê rần, tôi lóng ngóng hết ngó Anh lại
nhìn ra cửa lều bóng đêm đã bịt kín.
Anh ở quá gần. Với tay là tới. Bồn chồn,
bối rối, sốt ruột không che giấu được, Anh đánh mất
vẻ kiêu bạc, ngạo ngược thường ngày, tôi ao ước
phải chi mình là lý do, chứ không phải vì cánh rừng năm
hai trăm năm tuổi này.
Năm sau, người ta sẽ san phẳng chúng và
trồng lên một khu công nghiệp lớn nhất nước. Chúng
tôi được lùa tới đây, làm chuyên đề rừng, mong vớt
vát được chút gì trước khi nó biến mất. Nên tôi được
đi công tác cùng anh, chuyến đầu tiên, đêm đầu tiên.
Nhưng không phải lần đầu tiên tôi nhìn thấy sự vật
vã của một “ con nghiện rừng ”, một biệt danh mà
trong giới ai cũng biết. Cái hôm nào đó, khi Anh mướn
vai tôi để vùi yếu mềm vào đó, cũng có cánh rừng qua
đời.
Nên dù giờ Anh vẫn giả lơ, vẫn giữ vẻ
lạnh lẽo như chưa từng thuê tôi làm bồ, dù nhiều khi
cả tôi cũng hoài nghi, biết đâu người giống người
thôi. Chỉ khi tôi mở tất cả những khay dữ liệu mang
tên Anh, tôi biết chắc đây là người tôi tìm. Mẫu của
Anh nhiều lần làm tôi suýt rớt nước mắt vì tuyệt
vọng. Vẻ đẹp của những tán rừng lúc nào cũng chực
bứt ra khỏi máy móc, đòi sự sống, đòi hơi thở, đòi
không khí trong lành… Nghĩ, nếu ai đó đã yêu đến vậy
thì không thể yêu con người nữa.
Nên Anh có kiêu hãnh hơn, lạnh lùng, mai mỉa
hơn tôi cũng không ngạc nhiên chút nào. Chỉ thấy lạ
khi con người đó trở nên đa cảm trước sự mất mát.
Mười lăm năm Anh làm việc ở Viện, bỗng yếu mềm như
một đứa mới vào nghề, trong một tối mịt mùng mưa.
— Nghe lời tôi, em đừng yêu bất cứ gì.
Tôi nghĩ thầm, sao làm được ta, mình có
tới hai trái tim mà.
— Trời đất, em yêu luôn những cái đã mất
rồi.
— Kể tôi nghe đi, em đã mất gì ?
Tôi cười, nhưng cười không phải là một
câu chuyện để nghe. Giữa cô quạnh, không có chiếc xe
nào chạy qua, không có người nào đi qua, tôi không có gì
vớ lấy để đắp những hố thẳm trong tôi lại.
— Sao em không nói ? Em nghĩ trên đời này có
người nào muốn nghe em hơn tôi sao ? Anh hỏi.
Ngay giây phút đó, tôi không bao giờ mặc
cái áo cười trước Anh nữa. Tôi là tôi, trơ trụi xơ
rơ, gân guốc bụi đời, và rửa mặt mỗi ngày bằng nỗi
muộn phiền bảng lảng. Quá nhiều chuyện tôi muốn kể
Anh nghe, nhưng tôi bắt đầu từ Lam, người khiến tôi đi
nhanh, sống gấp. Như nàng Sheherazade của thiên truyện
Nghìn lẻ một đêm, tôi để dành vài câu chuyện cho lần
sau, sợ không biết nói gì vào dịp thứ hai, đêm thứ
hai.
Lúc đó tôi không nghĩ sẽ cùng Anh đi tận
những đất trời. Lúc đó thì tình yêu là chiêm bao. Bởi
sáng sau thức dậy ở cái bìa rừng đẫm nước, Anh lại
là ông sếp dày dạn, thông minh, giỏi giang mà lạnh trơ.
Một bữa tôi theo những triền sông tìm những lò rèn, lò
cốm, những vườn trầu, cau còn sót lại… ham quá không
hay chuyến đi đã dài hai mươi bảy ngày. Về Viện, anh
đón tôi bằng ánh mắt rát mặt, giận dữ nói “ sao em
không đi luôn đi ? ”. Mà kỳ thiệt, anh lại kéo tôi ôm
vào lòng.
Khoảnh khắc đó tôi đã biết âm thanh đẹp
nhất của cuộc sống là tiếng của một người nói yêu
một người. Tôi mới vừa nghe xong. Nhưng tôi phải tỏ
ra không cảm động gì cả, khi rời khỏi căn phòng đó,
khi gặp một đồng nghiệp ái ngại hỏi, “ bị sếp giũa
te tua rồi hả ? ”. Tôi cúi đầu buồn tủi cho giống như
cô nhân viên ít thâm niên xốc nổi, hay mắc lỗi vừa bị
ông sếp khắt khe rầy rà. Thành phố giống như một sàn
diễn lớn, và chúng tôi đang cố tròn vai.
Những lần về thành phố lúc cuối tuần,
giống như diễn viên chờ tới lượt mình ra đèn, tôi vạ
vật ngồi quán ở ngã tư Sương, uống một ly cà phê đá
cùng bảy ly trà đá, ngồi từ sáng tới chiều, mong bắt
gặp Anh chạy xe qua để nhìn mặt, vậy thôi. May mắn thì
sẽ thấy Anh đi dạo cùng gia đình, đứa con cao nhòng nên
phải khoanh tròn trong lòng ba nó, đằng trước. Vợ Anh
ngồi sau thổi nhẹ một câu nói nào đó vào vành tai
chồng. Chị là tiến sĩ xã hội học, đẹp và thông
minh. Tôi đọc những bài viết sắc sảo của chị in trên
báo, thấy chuyện chị không nhận được tình yêu trọn
vẹn của Anh chỉ vì lúc mặn nồng chị luôn mở mắt
nhìn, thiệt là lý do vô duyên. Anh thì không nghĩ điều
đó là ngớ ngẩn, “ tôi cảm giác như cô ấy đọc tôi,
dò xét tới gan ruột tôi. Ngay cái lúc con người bản
năng nhất, thì cô vẫn lý trí, vẫn suy nghĩ ”.
Tôi cũng thường suy nghĩ lắm, khi quấn
nhau, khi mê miết da thịt nhau đến tan thành khói, thành
nước. Tôi nhớ mẹ, ước phải mẹ còn sống, mẹ sẽ
dạy tôi biết giữ gìn và chờ đợi, tôi sẽ yêu từ
từ. Chuyện mở khuy áo hay không làm tôi bối rối cũng
nhiều, bỗng nghĩ không nên hoãn tới cuộc gặp sau, khi
tôi đã mất Anh một lần mà không biết tìm đâu, khi chỗ
chúng tôi ở, nơi chúng tôi tới hay vừa rời khỏi, mọi
thứ đang đứng bên bờ vực diệt vong, và chúng tôi sẽ
cùng nhau bao lâu ? Nhưng dù là lần cuối cùng tôi áp môi
lên môi Anh thì tôi sẽ đẹp đến phút cuối cùng. Tôi
không muốn “ phải chi…” một điều gì đó về Anh,
sau khi đã dai dẳng hối tiếc, phải chi tôi đừng có lẽo
đẽo theo mẹ hỏi về cha tôi, phải chi trước tai nạn
Lam nói gì tôi cũng ừ…
Yêu nhau phải đến trăm lần cuối. Tôi hầu
như về Viện rất vội, nộp mẫu, thanh toán những khoản
phí, tôi lại khăn gói lên đường. Giữa thành phố tôi
ngày càng ngơ ngác, nên có bữa kêu anh xe ôm từ bến xe
về cơ quan, anh này chạy lòng vòng qua tám ngã tư ba ngã
bảy, nhưng tôi chỉ trả tiền bằng đoạn đường ngắn
ngủn mà tôi biết, thấy anh định há miệng ra cự nự,
tôi cười, ủa, tôi tưởng anh chạy lòng vòng là vì anh
thích tôi. Bữa khác về cơ quan gặp một người đàn ông
đang đứng tra khóa vào ổ, tôi khều vai ông, lộn phòng
rồi chú ơi, đây là phòng viện trưởng đó. Ông già ung
dung cười, “ Thì chú là viện trưởng mà. Cháu mới vô
làm hả ? ” Tôi bật ngửa, dạ cháu làm được năm rưỡi
rồi. À, ra vậy… Ông nói bằng cái giọng ung dung, lúc
nào cũng ung dung, rót trà ung dung kể chuyện nằm viện
vừa qua, ung dung bấm ngón tay, còn bốn tháng mười bảy
ngày nữa ông mới nhận quyết định hưu, vội gì.
Sự ung dung, chậm rãi làm nhiều cấp dưới
sốt ruột, trong đó có Anh. Người ta ung dung trong lúc
thiên nhiên vẫn không ngừng biến mất.
May nhờ hẹn hò khiến cho nỗi chờ đợi
trong Anh dịu cơn quay quắt. Hẹn hò hay lắm. Người này
đón ở con đường người kia chắc chắn sẽ qua, rất xa
thành phố. Vẫy đúng chiếc xe tình yêu đang ngồi, rủi
trên xe đó có người quen với chúng tôi, một trong hai
đứa sẽ nói, “ trời, trùng hợp quá, anh (hay cô) đi đâu
vậy ? ”, rồi ai đó xuống dọc đường. Hành trình có
trắc trở chút đỉnh, nhưng rốt cuộc chúng tôi cũng
được lang bạt với nhau.
Có bữa đi tới cái thác có mỏm đá trông
giống đầu con voi, ai đó đắp thêm cái ngà bằng bê
tông cho người ta khỏi mắc công tưởng tượng, Anh cười
chua chát, “ Con người trừng trị thiên nhiên bằng cách
hạ nhục, hủy hoại nó. Còn thiên nhiên trả thù bằng
cách nào em biết không ? Nó biến mất ”. Tôi trân trọng
những lời này cũng như câu “ anh yêu em ”, ghi nhớ dài
lâu, cảm kích như đứa học trò ngưỡng vọng ông thầy
giỏi.
Có bao nhiêu tình tôi yêu hết, tật tôi
vậy, xưa thích cây kẹp tóc mà mẹ mua cho, lỡ để mất,
tôi cắt tóc ngắn luôn. Một bữa tôi rủ Anh ghé qua một
cái quán nước vùi giữa bụi đất đỏ, gặp người đàn
ông tóc chải mướt ngồi đằng trước, miệng ngoắc
ngoắc cây tăm, vuốt ve âu yếm mấy con gà nòi. Vợ ông
cỗi cằn, héo quắt bưng cái bụng bầu nhọn lểu với
hai ly nước mủ gòn ra, xởi lởi khoe, “ trước đẻ toàn
con gái, giờ mới kiếm được con trai nè, ông chồng mừng
húm…”. Tôi day qua ngó người đàn ông, thấy mình tệ
hơn mấy con gà, bàn tay đó đã lần nào ve vuốt tóc tôi ?
Nghĩ vậy, nên níu Anh đứng dậy đi, chân bước chới
với.
Coi như đó là câu chuyện cuối cùng liên
quan tới nhân thân tôi. Nhưng vua vẫn để Sheherazade ở
bên mình, bởi vua yêu nó không phải vì những câu chuyện
của nó. Vua yêu tâm hồn xanh xao của nó, yêu những quạnh
hiu được che giấu bằng vẻ ngoài mạnh mẽ, yêu sự
giản dị và và vẻ đẹp rực lên bất chấp bao nhiêu
mất mát. Yêu vì khi khám phá tận cùng nhau, bỗng thấy
nỗi đau, niềm đam mê, sự vơ vất, hoang mang của người
kia cũng giống mình. Yêu vì khi vua kể chuyện đi rừng,
những dã hương, chiêu liêu, sến mũ … đã tuyệt vong nó
không bao giờ ngủ gật, luôn háo hức mở tròn con mắt,
dạ dạ, ui trời, vậy hả anh, tiếc quá… Nó cố giấu
tuyệt vọng ứa ra đầu lưỡi, như một hôm nào còn làm
cô bồ mướn, nó nhìn thấy ở người đàn ông này một
nỗi cô đơn vô tận. Khi đó, Anh thuê nó vì cần một
người nghe. Anh kêu cứu cho rừng trên tivi, báo chí, trên
những diễn đàn, hội thảo, nhưng rồi chỉ còn mình nó
nghe, chia sẻ, nhưng chỉ nó nhỏ nhoi thôi thì có ích gì ?
Nên Anh vẫn quay quắt chờ đợi, một lúc
nào đó, tiếng nói của Anh sẽ làm thay đổi hàng triệu
người. Có lần Anh rủ tôi ghé tạt ở nhà hàng bên
đường, chị chủ quán trạc tuổi Anh, là người quen cũ,
đã chớm đẫy đà, mà đằm thắm kinh khủng. Mừng đến
mắt như cháy ngút lên, nhưng vẫn đằm thắm, “ coi anh
vui hơn hồi trước ”. Chị hỏi thăm năm ba người quen
có còn ở Viện, hỏi thăm những đứa con đang học lớp
nào, hỏi thăm rừng Chớp, thủy tùng Lac Deo… còn hay
mất, hỏi thăm cái suối lần mình bị kẹt lại vì lũ
quét còn hay mất, hỏi thăm những người hát dân ca trong
bộ tộc Tai Nát còn hay mất ? Câu nói, nụ cười quấn
quýt. Một hồi thấy có đứa nhỏ rớt ra ngoài câu
chuyện của hai người, Anh day sang tôi nói, trước Trúc
làm ở cơ quan mình. Tôi cười nói, dạ, em biết rồi. Ở
kho lưu trữ của Viện nhiều lắm những mẫu mang tên
chị, gắn bó duy nhất với vùng đất Thổ Sầu.
Nhưng mẫu của chị, và của Anh nữa, đã
dừng lại ở mười hai năm trước. Mười hai năm trước,
người ta bắt đầu tới vùng thảo nguyên Thổ Sầu xới
tung nó lên khai thác quặng, nơi đó biến thành một đại
công trường. Chị đưa đơn nghỉ việc. Anh từ giã rừng,
nhận chức viện phó người ta đã từ lâu mời mọc. Anh
cưới cô bạn học, con gái của thứ trưởng. Bước vào
đường quan trường, Anh muốn đi tắt, muốn chạy mau mau
đến cái ghế viện trưởng, rồi bộ trưởng, Anh sẽ
vào hội đồng thành phố, hội đồng trung ương, Anh sẽ
cứu được những cánh rừng bằng tiếng nói của mình.
Anh sẽ giữ được chúng bằng quyền lực. Hơn ai hết,
Anh hiểu cái mà Viện đang gìn giữ là vẻ đẹp không
hoàn hảo, chúng đã chết một phần, chúng không có cảm
giác trên da thịt, không có mùi, vị… Chúng là sự níu
kéo vô vọng của con người.
— Chờ đợi làm anh sắp chết, may nhờ em…
Tôi xỏ những ngón tay khô cứng của mình
vào mái tóc dày của Anh. Lại nghĩ, có thể đây là lần
cuối cùng tóc Anh xước nhói vào những ngón tay này. Chút
nữa biết đâu có một cuộc gọi từ thành phố, Anh sẽ
được thứ Anh muốn được. Và sân khấu đó sẽ giữ
Anh lại, vì Anh đã là nam chính rồi, tôi cứ thì thụt
mãi vai nữ tì, lâu lâu mới dạ dạ chạy ra.
Và tôi sẽ tội nghiệp lắm, khi xó xỉnh
nào cũng có kỷ niệm với Anh. Nhà trọ nằm trên dốc
Mùa Sương, nơi tôi mở chiếc khuy đầu, phiên chợ chúng
tôi tháo cũi cho hai con khỉ bị người ta xách dao rượt
chạy trối chết, nơi kẻ trước kẻ sau è ạch đẩy
chiếc xe máy xẹp bánh trên hàng chục cây số đường
rừng, và thung lũng Khơi Ma một ngày mưa giông ngợp ngụa,
tôi nói, anh ơi, em có thai rồi.
9
Phiên lớn từ bữa nó treo toòng teng trên
võng hỏi, “ mẹ ơi, sao anh Thơ khùng có ba, còn con hong
có ? ”.
— Có chớ con, ai cũng có ba hết.
Ngay lập tức, trên môi thằng nhỏ có câu
hỏi khác đã thập thò, và dấu chấm hỏi quăng ra bỗng
như xóc ngược cái móc nhọn vào cổ tôi, nghe đau đến
trợn trạo miếng cơm, “ vậy ba con đâu ? ”
Phiên không bao giờ để tôi nợ lại bất
cứ câu hỏi nào của nó. Mà nó thì hỏi cho tôi nghẹt
thở, cứng họng mới thôi. Nhưng tôi không muốn ngăn nó
lại, bởi hỏi cũng là một vẻ đẹp. Mẹ ơi nước dưới
sông chảy chừng nào mới xong, sao con chuồn chuồn này
màu đỏ mà con kia lại đen, sao con chó Vện cũng già lại
không có tóc bạc giống như ông Sáu ? Trả lời muốn đứt
hơi rồi, nhưng vừa dứt tiếng nó đã nhảy tọt vào câu
hỏi mới. Hỏi và tin, và thích đào bới tận cùng.
Hồi nhỏ tôi cũng tin có tận cùng. Nhưng
mẹ tôi không có tận cùng nào cho tôi, bởi trong lòng mẹ
cũng bị tình yêu bỏ lửng một câu trả lời. Lớn lên
tôi đánh mất vẻ đẹp hỏi, tôi dần từ bỏ nó, xa
lánh nó. Bởi càng lớn càng hoang mang trước cái gọi là
tận cùng, hoặc không có tận cùng hoặc tận cùng là cái
gì đó mơ hồ, nhưng buồn. Cảm giác đó tôi trải qua
rồi khi đi tìm cha tôi, lần đầu.
Giờ Phiên cũng đi tìm ba. Tôi kể có một
người cha gánh trọng trách bảo vệ những đôi tay đẹp,
những loài cây quý, những cái cây tỏa hương từ phiến
gỗ chứ không cần đến hoa. Người xấu muốn cướp đôi
tay của trẻ con để chúng khóc mà không có gì lau nước
mắt, muốn đốn cây về chụm củi cho lửa… thơm. Anh
ta phải chiến đấu với người xấu bao giờ xong mới
về, mà có thể mãi mãi không về vì ngày càng có nhiều
người xấu. Thằng Phiên ngồi mặt chảy ra, quần xoắn
cao tới bẹn, đầu gối vượt khỏi lổ tai, ngẫm ngợi,
“ tội nghiệp ba con thiệt, chắc ổng nhớ con…”.
Người xóm Cồn khen thằng Phiên có nhiều
nét giống tôi, nhưng những khi kỳ cọ cho nó bên dòng
nước, tôi chỉ xuống mặt sông xao động, nói, giống ba
in hệt. Nó sung sướng lắm, “ trời, vậy là ba cũng đen
thùi lùi vầy hả ? ”.
Tuổi lên sáu Phiên nhận được từ tôi
một món quà hơi đặc biệt, những chữ cái đầu tiên.
Cái ca. Trái cà. Con gà. Nó không đến trường, một phần
vì cồn không có trường. Nhưng bên kia sông có. Tôi không
đưa Phiên qua vì nghi ngờ trường học làm những đứa
trẻ biến mất. Tôi đã thấy trẻ con đi vào đó, và trở
ra như những người lớn mệt mỏi, muộn phiền. Tôi giữ
cho tuổi thơ Phiên đẹp như Phiên có. Hoang dã. Trong veo.
Thằng Phiên chấp nhận điều đó, vì qua
sông có thể bọn người xấu nhận ra nó là con của
chàng dũng sĩ, và bắt nó để ép chàng đầu hàng. Mà
bên sông người ta không cho con nít tự ý vào nhà người
khác, lục cơm nguội của người khác ăn, ngủ trên
giường người khác… Họ không thích con nít nhấc chân
như con chó vện, đái vô những bông bí, làm tụi nó héo
quéo. Ở Cồn thì chuyện đó là bình thường, không sao
hết.
Nhưng thằng Phiên hay nghĩ ngợi. Lúc suy
nghĩ nó sẽ lấy cọng lông gà ngoáy lỗ tai, lim dim khoái
cảm, sau đó nó gật gù, nếu đái vô bông bí thì bông
bí sẽ ngộp thở, tội nghiệp. Tội nghiệp là câu đầu
môi của thằng nhỏ. Chúng tôi không ăn những con cá nhỏ
vì tội nghiệp, không nhổ cải đi bán vì tội nghiệp và
kết quả là tôi có một giồng bông cải thắp nắng lộng
lẫy giữa mùa mưa, khi trong túi lép kẹp tiền. Và những
con cá mang bụng trứng no tròn sẽ được chúng tôi trả
lại cho sông. Mấy bà tiên đi ngang Cồn, thấy Phiên tốt
bụng quá nên tặng nhiều quà, những khi nó ngủ. Lúc
thức dậy đã thấy trên vạc có cây viết chì, hay những
cục kẹo xanh đỏ, cục đạn cu li, mấy củ khoai nóng
hổi còn mặn bụi tro… Đôi khi nó giả bộ nhắm mắt
ngủ để rình coi mặt bà tiên, nhưng tiên biết nó thở
làm sao mới là ngủ thiệt. Ngủ giả thì tiên ghé làm
gì.
Tôi lặng nhìn Phiên đẹp qua tuổi thơ bận
rộn của nó. Buổi sáng đi dài xóm ngửi mùi khói bếp
coi nhà nào có đồ ăn ngon nó sẽ ghé chơi. Sau đó tới
giờ radio ca cải lương nó sẽ nghe với Thơ khùng, sẽ
đứng một chân hay đứng bằng cả bốn chân tay, tùy hôm
đó cả hai là vịt hay chó. Ngủ trưa lang chạ ở đâu
đó, bất cứ giường nào võng nào của bất cứ ai, thức
dậy nó sẽ tới chòi chơi với ông Sáu. Trên đường di
chuyển giữa chỗ này qua chỗ nọ, gặp nhãn lồng chín
nó ngoẹo đầu đớp ăn luôn trên cây như chim trao trảo,
khỏi phải thò tay hái mắc công. Nó thử coi ổi chua hay
không cũng bằng cách này, nhá cái răng chó nhọn hoắc
lên những trái vẫn đang lủng lẳng trên cành, thấy vừa
thì ăn, còn chát sẽ bỏ đó chờ thêm ít bữa. Vừa ta
bà ăn chơi vừa ngó trời, thấy chuyển mưa nó chạy về
nhà giúp tôi gom củi đem cất trong bếp, bắt mấy con gà
con vô nhà.
Có khi nhìn thằng Phiên nằm ngủ, mấy con
gà con cũng khoanh tròn trên bụng nó, tôi tự hỏi có gì
đẹp hơn vậy. Có gì đẹp như trẻ con, gà con, như mạ
vừa nhú lên, cỏ vừa vượt đất. Xanh lấm tấm. Xanh
chưa thẳm. Mong manh.
Phiên càng mong manh. Nó thường ngoái lại
cái chợ chúng tôi vừa rời khỏi, hí hửng xài luôn
tiếng chửi thề vừa mới học ở đó, “ má nó, cục
kẹo này ngon tàn bạo…”. Phiên thích ríu ran kể những
chuyện giang hồ nó nghe được từ những chiếc ghe hàng
bông tấp vô Cồn nấu cơm hay tránh giông, nó thường
đứng dưới những cây bần quỳ già cỗi, ngó về bên
kia bờ, đã thấy lốm đốm những mái nhà thay cho màu
xanh của những bờ lá rậm. Ở đó có đứa con gái hay
theo mẹ qua đây mua đồ rẫy về bán lại, con nhỏ lanh
chanh, hay nhỏng nha nhỏng nhảnh kêu Phiên, “ quỡn đứng
đó làm gì, xách giùm cái này coi...” Thằng Phiên lúng
búng chạy mất, nhưng lén ngó theo khi xuồng họ đã buông
bờ.
Nó thấy cái cồn Bần này dường như không
đủ. Nó cô đơn, và không thể che giấu điều đó, giống
như tôi.
10
“ Đồng cỏ bạn đang dạo chơi một
ngày kia sẽ biến mất. Dòng sông bạn đang tắm một ngày
kia sẽ biến mất. Tiếng chim hót ban mai một ngày kia sẽ
biến mất. Những người thân yêu của bạn một ngày kia
sẽ biến mất. Bạn có muốn giữ lại tất cả những gì
mà bạn nghĩ là đẹp nhất, tinh tế nhất, quý giá nhất
của thế giới này ? Hãy tới làm việc với chúng tôi…”.
Mẫu rao tuyển nhân viên vừa đa cảm vừa bí ẩn của
Viện di sản thiên nhiên và con người khi đến tay tôi là
một mảnh giấy gói thuốc Bắc, phảng phất mùi cam thảo.
Tôi cất rất kỹ. Vào năm thứ ba làm việc ở Viện, có
nhiều đêm tôi lấy ra đọc đi đọc lại, như nuốt
trộng chúng, lục cục ở cổ họng, thấy đau.
Đó là quãng thời gian tôi sắp làm chuyên
đề về thời thơ ấu của con người. Tôi muốn dõi theo
một đứa trẻ từ khi sinh ra, khi toan tính, cám dỗ, vật
chất chưa làm phai đi chất thánh thiện của nó. Tôi viết
đề cương sau một thời gian đi xa hơn mọi cuộc đi xa.
Tôi đón bất kỳ chiếc xe nào, vì những chuyến xe rời
thành phố không mang anh theo nữa. Tôi cười nhiều hơn,
và khi gặp anh bởi những chuyện buộc phải gặp, thấy
cái nhìn ngạo nghễ đã hao hớt bởi sự dằn vặt, tôi
buồn. Vì tôi đã giỡn với anh, hơi vô duyên khi một hôm
nào nói, anh ơi, mình có con rồi.
Một mối tình có trăm kiểu bắt đầu,
cũng nhiều cách kết thúc, một trong những cách đó là
cô gái nói, anh ơi, anh sắp làm cha đó nghen. Tình yêu
chấm hết ở một cái vẫy tay không hẹn gặp, ở một
phòng khám sản khoa kín đáo, hay ở một đám cưới bỡ
ngỡ, vội vàng. Khi tôi nói câu đó, tôi giả đò rất
bâng quơ, nhẹ nhõm, nhưng rủi quá, đang nai nịt máy móc
để lội qua suối Nang Oi sùng sục nước, nên trong lúc
quàng chéo sợi dây dù lên vai, tôi kịp thấy vẻ bất
an, bối rối và bàng hoàng, đến nỗi tôi nghĩ, mình vừa
nói mất cánh rừng nào sao ta, một người sinh ra tương
đương với một mảnh rừng bị mất ? Tôi tính khi qua bờ
bên kia sẽ ôm bụng ngặt nghẽo cười, “ người ta nói
giỡn mà có người tưởng thiệt, ha ha …”.
Nhưng lúc qua suối tôi gặp một tai nạn,
gọi là nhỏ vì tôi chưa chết, gọi là lớn vì tôi suýt
chết, nước đã dìm trôi một quãng, rồi quăng quật vào
một gờ đá nổi bên bờ. Tôi thấy đau đớn rã rời,
người ướt ròng, khóc như vắt nước mắt. Không phải
vì sợ hãi, không phải vì mớ máy móc chuyên dụng đắt
tiền đã ướt mèm, tôi khóc vì đã sang bờ nhưng không
thể cười và nói em giỡn anh ơi….
Anh không dỗ, vơ vất ngó quanh vì anh biết
lý do tôi khóc.
Chúng tôi chia tay nhau.
Thành phố mừng húm, nó níu tay anh lại.
Những cuộc gặp thưa vắng đã làm an ủi cả hai. Lần
cuối cùng gặp anh là hôm tôi trình bày đề cương “ thơ
ấu đời người…”. Tôi gõ vào cánh cửa và đẩy nhẹ
nó, thấy buồn, khi đây không phải là cánh cửa quen mở
ra căn phòng quen gặp một người quen. Nó không có tiếng
kêu kèn kẹt đầy bí hiểm như sắp mở ra một kho báu
tuyệt vời. Phòng viện trưởng rộng hơn, sang trọng hơn
với những chiếc ghế bọc nhung, lạnh lẽo, ngăn nắp,
đèn nhiều hơn và Anh cô đơn hơn. Khi biết địa chỉ
đứa trẻ tôi chọn để làm chuyên đề, Anh tần ngần :
— Em hy vọng gì khi tới đây? Có thể sẽ
rất buồn…
— À, em có vài thắc mắc ở đó…
Tôi bỏ lửng vì thấy nó hơi riêng tư,
liên quan tới tình yêu của mẹ tôi mà. Anh không hỏi
nữa. Không biết dự cảm nào mà hôm đó anh bắt tay tôi
rất chặt, làm tôi đau quá. Tôi tự hỏi sao khi đi giữa
dòng suối ngầu sôi kia, khi thấy tôi chới với, anh đã
chụp tay tôi rồi, cũng chặt như vầy, nhưng anh đã
buông, anh thả những ngón tay anh cũng nhanh như khi nắm
vậy. Tôi đã chìm ngay lúc ấy, dù sau đó anh sực tỉnh
rướn theo, chới với tìm. Giữa dòng nước hung hăng, có
con nhỏ chết trôi. Vào khoảnh khắc đó anh đã nghĩ gì,
nghĩ gì, nghĩ gì ? Tôi tự đưa ra nhiều giả thuyết,
nhưng kiểu nào cũng có chút liên quan tới lời nói đùa
kia, nó giống như sương mù làm con đường anh đi trở
nên mù mịt. Anh mất bình tĩnh, muốn vùng vẫy rũ bỏ.
Giờ tự tôi khép tôi lại. Vừa kịp đón
chuyến xe chiều đi tới một vùng đất đỏ, một quán
nước quen, nơi có bé trai vừa chào đời, đứa em cùng
cha khác mẹ với tôi.
11
Tôi thấy Phiên lần đầu khi nó mới hai
mươi hai ngày tuổi. Tay chân nó ngắn khụi, tóc ít, da
đầu mịt vảy cứt trâu. Nó ngủ nhiều, bú nhiều, bụ
bẫm căng tròn, chân tay như mấy đoạn củ sen gắn lại,
nhìn đâu cũng thấy ngấn đầy.
Tôi ghi lại hình ảnh mụ bà dạy Phiên
cười nhoẻn trong giấc ngủ. Nó đái bổng lên trời. Nó
mơn man vú mẹ. Trán nó lấm tấm rôm sẩy. Cổ nó bị
hăm đỏ. Nó nhảy mũi hoài. Tôi thu tiếng khóc của nó
lúc nửa đêm, tiếng nó mút sữa…
Tôi ở lại luôn nhà của cha tôi, gọi ông
là chú Tư. Giữa kỳ làm chuyên đề, có lúc tôi đi công
tác một nơi khác, lúc quay lại, ông hay hỏi “ ba má cô
cũng mạnh giỏi ? ”. Tôi gật đầu. Ông vui khi biết một
viện tầm quốc gia chọn thằng nhỏ con mình làm nhân vật
của họ. Trong ký ức ông không còn hình ảnh nào của
tôi, đã đứt bằn bặt. Tôi không lấy điều đó làm
buồn, vì năm đứa con gái lớn lên bên ông mà đôi khi
còn bị lẫn lộn tên. Ông không yêu con gái, ông bà nội
tôi cũng không yêu con gái, họ sinh con gái để chăm chút
ông, cho ông cưỡi chơi, bắt nạt, trút những giận hờn.
Họ khâu nút áo khi ông đánh nhau bị đứt, họ chịu đòn
vì đã để ông trèo cửa sổ đi chơi. Ông không bao giờ
là người có lỗi, vì ông là đứa con trai duy nhất của
nhà buôn gạo nổi tiếng. Cả khi sự sản đó tàn rụi
cũng không phải vì ông tiêu xài hoang phí, họ đổ lỗi
cho thời cuộc. Tôi chắp vá những lời kể thảng hoặc,
bất chợt từ những người sống quanh ông, cố hiểu tại
sao ông lại dè sẻn tình thương từng giọt từng giọt
một.
Ông dành dụm và chờ đợi. Phiên ra đời,
ông xô ngang mọi trò vui chơi, suốt ngày luẩn quẩn loanh
quanh chỗ Phiên nằm, ngây ngất nựng nịu, ngây ngất hôn
hít, ngây ngất nói chỗ nào nó cũng giống ông, coi, tới
nhảy mũi cũng giống… Những lúc đó tôi nghĩ, bữa nắn
mình chắc mụ bà làm giữa chừng thì hết đất, hoặc
làm đến đấy thôi thì bà đi ăn cơm, xong quên phứt
luôn. Phải cố thêm nữa, chỉ cần gắn chút đất nhỏ
xíu như trái ớt, tôi sẽ thành một đứa bé trai.
Cha tôi sẽ ở lại. Tôi sẽ lớn lên trong vòng tay ông.
Như cha Phiên thường ôm ghì nó, dụi mặt vào bụng nó,
vào nách nó, trầm trồ đôi môi đỏ của nó.
Phiên dần lớn mà tôi vẫn chưa bớt ưu
phiền. Những lúc lượn lờ quanh nó với chiếc Saisomat
chuyên dụng, tôi thường chua chát nghĩ, không ai còn giữ
chút ký ức nào về thời bé bỏng của tôi. Mẹ, ngoại
tôi đã chết rồi, cậu mợ thì lườm nguýt cái hoang
thai từ khi nó còn nằm trong bụng. Họ hàng, làng xóm
xiêu lạc từ khi xóm nhỏ ngoại ô trở thành phố xá.
Không ai nhớ da thịt tôi đã từng ấm mùi lửa than và
thơm dậy sữa, không ai nhớ tôi đã đẹp như thế nào
khi nằm mút tay và mằn chơi những ngón chân mình. Tôi có
từng ăn đất không? Có từng đái dầm ? Hay khóc mớ ?
Tôi đã trôi đi không tăm tích giữa cuộc
đời này, thỉnh thoảng có ai đó níu lấy rồi buông bỏ.
Giờ tôi lại đi dành dụm một ký ức rực rỡ cho Phiên.
Mỗi tháng cha nó nhờ tôi chụp cho tấm ảnh, “ để sau
này nó lớn nó coi, chà, chắc nó mắc cười dữ lắm…”.
Những mẫu tôi làm ông nhờ tôi in sang thêm một bản.
Phiên lên một tuổi, cái quán nhỏ kiêm ngôi nhà chật
chội đó vẫn còn không khí hội hè, một bà vợ vui vì
không bị buộc phải sinh con, không phải tự è ạch đi
bộ tới nhà bảo sanh bởi lỡ chửa em bé gái ; mấy đứa
con vui không bị đánh chửi, la rầy vì lỡ làm con gái.
Tôi gần gũi hết thảy tụi nó, trừ
Trang. Chỉ vì Trang nhỏ hơn tôi ba tuổi. Chỉ vì cha bận
bồng ẳm Trang nên không thèm quay về xóm Chiếc với tôi.
Trang không làm gì tôi hết, nó còn không biết tôi là ai,
nhưng khi nhìn nó tôi hơi giận. Hai mươi bốn tuổi, Trang
dẫn đầu một bầy con gái chưa chồng. Cha nó coi đó như
một gánh nặng, và ông trút vào Trang. Hàng ngày ông xúc
xiểm cái mũi xẹp “ như cục bột quăng lên mặt cái
phẹp ”, ông chì chiết nụ cười nó “ vô duyên vô
dùng ”, ông căm ghét mớ tóc xoăn của nó “ lúc nào cũng
rối bời như con khùng, ai dám lấy…”, như thể nó chắc
chắn sẽ ế chồng.
Trang bỏ nhà đi ngay trong đêm chuẩn bị
thôi nôi thằng em út. Cha tôi vẫn tỉnh bơ hối vợ ông
nấu xôi chè, tỉnh bơ bưng thằng nhỏ Phiên đòng đưa
trên võng, nhẹ nhõm như ông vừa mất con gà, hay thua một
ván bài. Có sao đâu. Người đàn ông này chưa từng trải
qua cảm giác mất mát.
Ngồi tiếp một tay đãi mớ đậu trắng
tôi nghe cay đắng đầy ứ miệng. Tôi hầu như không nuốt
nổi chúng. Tôi thấy mình ở đây thiệt vô lý hết sức
nói. Tại sao tôi chọn thằng nhỏ nhà này để làm chuyên
đề khi có hàng ngàn đứa trẻ khác ? Tôi tìm kiếm, hy
vọng gì ở đây ?
Một bữa tôi gởi toàn bộ máy móc, những
mẫu mình có về Viện bằng đường bưu điện, cả những
mẫu thô chưa xử lý, lọc âm thanh... Lẫn lộn trong mớ
đó hẳn có tiếng đập muỗi lép bép và tôi rủ, “ buồn
quá, chị ẵm Phiên đi chơi nghen…”.
Thiên nhiên trừng phạt con người bằng
cách biến mất, tôi chưa bao giờ quên Anh từng nói vậy.
Tôi cũng bắt đầu hành trình biến mất, cùng Phiên.
Tháng Bảy năm đó mưa nhiều. Mấy bà già
chung chuyến xe nói cữ này ở trên trời có cặp vợ
chồng gặp lại nhau nên họ khóc tối tăm trời đất. Họ
hỏi tôi, “ mưa gió vầy bồng con đi đâu vậy bây ? ”
Tôi cố giải thích thằng nhỏ này là em trai tôi, họ
cũng ờ ờ nhưng chẳng có vẻ gì tin. Tuổi chúng tôi
cách biệt quá lớn, mặt tôi lại đầy uẩn khúc. Tôi
nghĩ, chuyện để Phiên làm con tôi cũng tốt cho việc bỏ
trốn. Lúc đầu nựng nó kêu con ơi con mà mắc cỡ muốn
chết, mà tê tái muốn chết, mình sẽ làm mẹ kiểu gì
đây.
Có lần Phiên hỏi, hồi mẹ đẻ con chui ra
chỗ nào, sau khi thấy chó vện đẻ mấy con chó con, lũ
gà mái đẻ ra mấy cái trứng… tôi cười, nói tôi đẻ
ngang hông, nó cứ rờ bụng tôi tìm sẹo. Tôi thương nó
bằng những người đàn ông tôi thương cộng lại, dù
đôi lúc tôi không phân biệt được, tôi mang Phiên đi
cho cha tôi biết đau, hay vì giữ gìn vẻ đẹp trong veo
của nó không cho nó trở thành bản sao của ông, không để
những cám dỗ của cuộc đời làm tha hóa chất người,
hay tôi mang Phiên đi để cho anh thấy quyền lực cũng
mong manh lắm, vui cho buồn người ta lấy lại cho người
khác, bằng chứng là Anh sẽ bị rầy rà lên xuống dù
người gây tội chỉ là một nhân viên nhỏ nhoi của Anh.
Ở xóm Cồn không ai một lần nghi ngờ
chuyện tôi là mẹ Phiên, ngay ngày đầu tiên ẵm nó đi
ngang qua đám giỗ đó người ta gọi, “ trời đất, hai
mẹ con sao lạc tới xứ hoang vu này ? ”. Tôi có quên Phiên
ở nhà họ thì chỉ nhận lời trách cứ nhẹ nhàng, “ cái
cô này hồn vía không biết bỏ đâu…”
Chưa bao giờ có ai hỏi như gã đàn ông xa
lạ kia hỏi :
— Thằng nhỏ này là con em, thật sao ?
12
Cho tới khi chiếc xáng cơm rướn vào nằm
thở khói ở bãi cồn, thì mảnh đất này chính thức nói
lời mất mát. Tôi đã từng coi nó như khu bảo tồn của
những vẻ đẹp, quý giá hơn những gì được lưu trữ ở
Viện di sản thiên nhiên và con người. Bởi tất cả đang
sống và đang thở.
Mười bốn năm, nhiều gia đình dọn tới
rồi đi, họ coi như chốn nương náu tạm bợ. Vì tạm bợ
nên họ không quay quắt vun vén, tranh giành. Đất ai lấy
được của lau lách nấy trồng. Cửa để thả, suồng sã
với gió và nắng trời, mùa mưa tới chỉ che hờ hững
cái rèm bằng cao su rẻ tiền, hết mùa rách nát. Chị
Thiện này nhận được món quà của thời gian — sự quên
lãng — hớn hở về nhà, thì có chị Thiện khác chạy
giạt tới, cũng thường nhón ngó về quê.
Ở đây, một nồi chè đậu xanh cũng múc
cho cả xóm. Đi qua nhà sẽ có người ới lên trong sương
sớm, “ mới bửng sáng thím (hay cô) đi đâu vậy ? ”,
thật ra đó chỉ là một câu chào theo kiểu xóm giềng
quan tâm nhau. Tôi thích kiểu chào kỳ lạ này, cảm động
như ngày xưa thằng bán vé số kêu bớ con Di. Tôi mê sự
đáo để của thím Tư Đình, bữa chú uống rượu say,
thím bóp nát trái chuối chín lòn vô giữa đùi chú, lúc
tỉnh dậy chú nghe lạnh chỗ đó, sượng trân túm hai ống
quần nhảy ào xuống sông. Tôi thích chị Thắm những
ngày sực nức mùi xà bông thơm, cười ỏ ẻ khoe, “ bữa
nay rằm, bà lớn đi chùa, ông chồng hứa qua chơi…”.
Tôi đếm từng ngày để chờ ba Thơ khùng ra thăm con, ông
dắt anh ra mé cồn, tắm rửa kỳ cọ, lục cục kể
chuyện nhà trong khi thằng con trai cứ ngoái nhìn cái radio
đặt ở một chỗ khô ráo gần đó, “con Bé Út lấy
chồng rồi, phải bây đừng có khùng thì tao cưới nó
cho bây, giờ con nít chạy đầy nhà…”. Ở đây, tôi
thấy bình yên những khi ngồi câu trong chòi ông Sáu, đôi
lúc nằm ngủ quên ở đó, để tóc và hơi thở chảy
tràn quanh ông, có khi gác tay lên đầu gối ông mà không
gợn lên chút nhục dục nào.
Kẻ ông già căm giận đã nằm sâu dưới
ba tấc đất. Ông vẫn ở lại đất Cồn, có lúc tôi
nghĩ, biết đâu vì hai mẹ con tôi. Những khi ông trút cá
vào xô đựng của tôi, hay chơi xích đu lơ với thằng
Phiên, bò ra bắn đạn cu li, làm diều cho nó thả… tôi
hình dung Phiên sẽ cô đơn đến mức nào nếu không có
người này. Mọi trò chơi trẻ con đều cần đến hai
người. Đá dế cũng cần tay vỗ, mới vui.
Nhưng hơn ai hết, tôi biết không có gì
vĩnh viễn. Sự biết này làm tôi hay buồn, khi ta ngồi
cạnh nó, ta ở trong nó, cùng với nó, nghe thấy, chạm
được nó, nhưng ta cũng đang mất nó, từ từ.
Ta không bao giờ mong muốn nhưng lại có cảm
giác chờ đợi, vì biết nó đang đến. Người đàn bà
mặn mà của xóm Cồn tắm xà bông thơm thường hơn, gọi
Thơ khùng tới chơi thường hơn, và anh chàng ràng cái
radio kè kè bên lỗ tai có bữa nằm ngửa xãi lai dang rộng
chân tay nói, “ tui đang làm con chồng học tiếng người ”.
Ba anh Thơ hết hồn, dọn anh đi tới một chỗ hoang dã
khác, chỗ yên tĩnh để anh làm con gì cũng được, miễn
đừng làm con chồng, tổn hao sức khỏe.
Đất Cồn vắng đi một người đẹp. Một
tâm hồn miễn nhiễm với những vui buồn, tranh đua, khao
khát. Người không thêm không bớt, vui vẻ với thế giới
của mình trong chiếc radio, với một nửa trí khôn. Phiên
nhớ Thơ, cuộc đi đó làm nó bắt đầu ngửi được mùi
mất mát. Nó hay đứng xơ lơ bìa cồn ngó mênh mông.
Trong tầm mắt nó, những chiếc xáng bắt đầu ngược
xuôi gào rú, hút cát từ lòng sông, bất kể đêm ngày.
Dòng chảy thay đổi đã ăn mòn đôi bờ, sông càng mênh
mông. Đất cồn bị nước nuốt chửng từng mảng, sóng
đánh vỡ tan bờ lá, đất lở mang theo những cây bần đã
cho cồn cái tên Bần.
Và căn chòi của ông Sáu lặng lẽ biến
mất trong một tối tháng ba lặng gió. Nó mang theo ông già
rắn rỏi giỏi lặn lội. Tôi đau nhói bởi ý nghĩ, ông
đã để mình chìm. Chiều hôm trước, một đám người
tắm sông gần chỗ chúng tôi ngồi câu, ai đó chớt nhả
với tôi, “ em ơi, ở chung với ông già thì em làm đàn
bà sao được, xuống đây với anh đi…”. Tôi thấy ngọn
câu của ông chao đảo. Mà tôi không biết nói gì với
họ, mười mấy năm sống đất Cồn, tôi dường như
không dùng tới những từ ngữ bốp chát, nặng nề. Sượng
câm, tôi đứng lên về, và hình ảnh cuối cùng về ông
Sáu mà tôi có khi ngoái lại là lưng ông bỗng cong khẳm,
cảm giác hình như vai ông đổ xuống, run run.
Thằng Phiên khóc mướt, trong mớ nước mắt
đó, tôi biết nó khóc cho những cổ tích đã chết rồi.
Những bà tiên cũng chết ngắc. Nó đã khẩn cầu mấy
ngày đêm liền, không tiên nào mang ông Sáu với anh Thơ
khùng quay lại.
Tôi thấy mình đang mất Phiên. Mất từng
ngày, khi cơ thể Phiên bắt đầu thay đổi, nó bể tiếng,
nhổ giò. Nó choáng váng, ngây ngất với những khám phá
trên người mình, từ chính mình. Nó không còn tắm truồng
nữa, ngượng ngập và cô độc. Trên cồn, cả con chó xà
mâu cũng có bạn tình, Phiên chỉ một mình. Một vài đứa
trẻ đã theo cha mẹ đến đây, kết bạn kết bè với
nó. Bỗng một sáng người ta nhổ nhà đi mất, nhổ đám
trẻ theo cuộc đi mù mịt.
Trong nỗi thiếu thốn, khi chiếc xáng cơm
khai thác cát sông ghé qua, thả những gã đàn ông xa lạ
lên bờ, họ nấu nướng, tắm giặt, họ treo võng ngủ,
họ nhậu nhẹt hát ca... Phiên nhanh chóng gắn bó với họ.
Nó tò mò nghe họ nói chuyện đàn bà, chuyện những thành
phố không bao giờ tắt đèn. Nó xuống xà lan chơi cát
ướt, biểu diễn tài lặn lâu trong nước, tài treo ngược
trên cây. Và một bữa đòng đưa thân mình trên nhánh ô
môi, nó kể họ nghe về cha mình, sau đó khóc nức nở
khi thấy họ bò lăn ra cười.
Đã thưa vắng những câu hỏi mẹ ơi mẹ
à, thằng Phiên lẳng lặng tìm hiểu tại sao những gì
tôi nói đều không đúng. Nó ngoáy tai liên tục. Và tôi
cũng liên tục để cơm khét, cá cháy. Tôi làm bể chén.
Tôi thấy mình nghèo quá, mình chỉ có tình thương. Tôi
chỉ có thể hứa những lời hứa nghèo, chừng nào hái
bí mẹ mua cho con bộ đồ mới, chừng nào con lớn mẹ sẽ
cho đi chơi thành phố, chừng nào kiếm nhiều tiền mẹ
mua chiếc xe đạp cho con chạy lòng vòng cồn chơi. Hoặc
lời hứa mịt mù kiểu như “ nghe lời mẹ rồi mẹ
thương…”
Nhưng gã đàn ông trải đời trên chiếc
xáng, người có mấy cái răng bịt vàng và nụ cười
chói lóe nhăn nhở chỉ cần nói, “ Ê nhóc, mai qua chợ
nhậu không, bên đó có mấy đứa con gái hết sẩy…”,
ngay lập tức những hứa hẹn của tôi đã giãy chết.
Chúng quá giản dị, tẻ nhạt và đơn điệu. Tôi thấy
mình hơi tuyệt vọng khi làm bộ ngang qua đó, giận dữ
nói, “ thằng con tôi còn con nít khờ ịt, mấy anh đừng
làm hư nó. Phiên, về ! ”. Trong một khoảnh khắc khi gã
đàn ông vuốt ánh mắt trên cổ mình, tôi nhận ra mười
bốn năm qua tôi vẫn là đàn bà. Và đẹp.
Lần đầu tiên tôi căm ghét mình. Gã bắt
đầu tới lui ve vãn. Chiếc xáng tạt qua cồn thường
hơn, rủ rê nhiều xáng cơm, xà lan khác. Dân xóm Cồn hớn
hở bưng rau trái ra bán. Chị Thắm hớn hở tắm xà bông
thơm, ngồi ngoài sân tỉa chân mày, chị tỏ ra buồn lòng
khi chủ chiếc xáng ngậm cái tăm chỉ dừng lại nói mấy
câu ỡm ờ, rồi vượt qua đám sậy thưa tới nhà tôi.
Có đôi lần ghé lại, gã đã hỏi em nhớ tôi không, với
ánh nhìn tràn đầy hy vọng. Tôi ước gì có thể trả
lời, hoặc ngọt ngào rằng, em nhớ muốn chết, hoặc hứ
nguýt xa xôi, sao không đi luôn đi… Và gã sẽ bớt nhẫn
tâm.
Nhưng tôi không còn gì cho gã hết, dù là
giả đò. Gã vẫn tin có ngày tôi khuất phục, vì gã điều
khiển được thằng nhỏ Phiên, bởi những hứa hẹn
hấp dẫn, đầy ma lực và cám dỗ. Gã biết đứa con
trai mới lớn muốn gì, biết đứa con là điểm yếu của
bà mẹ. Một bữa gã phát hiện ra tôi có điểm yếu
khác, từ tờ giấy báo lót dưới đáy rương giữ gìn
những kỷ vật của gia đình gã. Tôi ở đó, nằm xẹp
dưới mớ đầu tóc mượn, bộ răng xương.
Gã đến tìm tôi.
13
Chiếc xáng tháo ra khỏi cồn rồi, Phiên về
đứng dựa cửa ngó tôi lui cui trong bếp :
— Chú Sở kêu gả mẹ cho ổng.
— Vậy sao ?
— Con nói mẹ con ghét chú. Ổng nói, mấy
ngày nữa chú quay lại là mẹ thương liền.
Rồi Phiên hỏi, thiệt không mẹ. Tôi nói
không, chú đó giỡn chơi thôi. Rồi thấy mắc nghẹn, ứa
nước mắt. Phiên giờ hay dùng ba chữ “ thiệt không
mẹ ? ”. “ Người ta nói con không có ba, thiệt không mẹ ? ”,
“ Người ta nói trên đời này không có tiên, thiệt không
mẹ ? ”…nghe nhói lên sự hoài nghi, ngờ vực. Lòng tin
vào tôi đã hao hớt.
Bữa cơm chiều bỗng lặng đi trong tiếng
đũa khua, tiếng muỗng cạo nhói đít nồi. Trên mâm chỉ
có cá rô kho khô mặn quắt với vài ngọn bí luộc. Cơm
nhão như cháo. Chỉ vì khi vo gạo, tôi nhìn thấy mình
trong lu nước chênh chao. Tôi không còn là đứa con gái
trên bài báo nằm nơi túi áo. Mười bốn năm dài hơn tôi
cảm thấy. Những người cùng có mặt trong bài báo đó,
có còn không ?
Cha tôi còn sống không, còn mỏi mòn tìm
kiếm và hy vọng, hay đến lúc chết vẫn không biết được
con trai ông đã bị bắt đi bởi con gái ông. Tôi đọc
bài viết cũ lần thứ hai, thứ ba, và nhận ra Anh không
hé lộ gì về nhân thân của tôi hết. Rừng cần anh giữ
bí mật đó để giữ chúng. Lỗi quản lý không nghiêm để
nhân viên phạm tội nhỏ hơn lỗi tạo điều kiện để
nhân viên phạm tội.
Phóng viên chụp ảnh Anh tiều tụy ngồi ở
bàn làm việc của mình, mực phai nhòe nhoẹt. Tôi nhớ,
phía lưng Anh có tấm bản đồ tự nhiên rất lớn, choán
hết cả một bức tường. Anh có bao giờ đứng trước
nó và nghĩ tới tôi như tôi vẫn nhớ Anh từ cái chấm
nhỏ nhoi trên đường kẻ ngoằn ngoèo màu lam — màu của
những dòng sông. Tôi ngày ngày ngồi ở đó buông cái
lưỡi câu chữ i và đôi khi thấy mình đang đợi, trời
ơi sao người ta không tới tìm mình, còng tay, trói gô
lại, dí súng vào đầu mình ? Nhưng có một sự thật
khiến tôi không đưa Phiên qua bên sông và la làng giữa
chợ, “ thằng nhỏ này tôi bắt cóc nè, bớ bà con ai
rảnh rỗi bắt tôi giao cảnh sát giùm ”, sự thật là
không ai tìm tôi cả, họ chỉ tìm thằng nhỏ tên Phiên,
nó mới là điều họ cảm thấy mất mát, không phải
tôi.
Nên tôi giữ rịt Phiên ở chỗ đìu hiu
này. Nên tôi không ngạc nhiên khi thấy nước mắt cha tôi
ràn rụa trên mảnh báo. Phóng viên kể lại câu nói duy
nhất của ông, “ tôi chỉ cần thằng nhỏ, tôi sẽ đổi
bằng tất cả gia tài của tôi, mạng sống của tôi…”.
Rủi là lúc đó tôi ẵm thằng Phiên trốn chui trốn nhủi,
tờ báo không đến tay, phải đọc được biết đâu tôi
đã đưa nó về và nói, thưa ông, tôi chỉ cần một lời
xin lỗi.
Mảnh báo trong túi áo cựa quậy nhói ran,
chừng ngó lại thì gạo ngâm lâu trong nước rã nát.
Ngoài sông, những chiếc xà lan vẫn chà đi
xát lại làm xây xước mặt nước, vẫn kêu rú khoái
trá, tục tằn man rợ khi sục những cái vòi vào thân thể
sông, hút mòn xương máu nó, phơi tan hoang lòng nó. Làm
xói lở bờ bến cuối cùng, lấy đi của tôi những
thương yêu cuối cùng. Tôi không thể để tôi cũng mất.
Tôi đặt mảnh báo cũ trước mặt Phiên, và kể cho nó
nghe một câu chuyện. Tôi không muốn bất cứ ai kể và
nó chạy về mếu máo hỏi, thiệt không mẹ, thiệt không ?
— Người này là cha tụi mình — Tôi chỉ vào
tấm ảnh lem luốc. Phản ứng duy nhất của Phiên là câm
lặng. Khoảnh khắc đó tôi nhận ra em trai tôi cũng khiếm
khuyết, tật nguyền. Phiên gần như không biết biểu lộ
sự giận dữ, bàng hoàng, đau đớn… dù trong nó có tất
cả cảm giác đó, bị chúng quăng quật trong lòng. Tôi
không dạy nó cách đương đầu với những sự thật phũ
phàng, thậm chí nó còn không biết cuộc đời này có thể
tồn tại điều gì, ai đó xấu xa giống như tôi.
Thằng Phiên bỏ đi tìm ai đó có thể giúp
nó biết giận dữ, phẫn uất như một con người đúng
nghĩa. Ngoài kia vẳng lại tiếng khạc nhổ, tiếng nói
cười ánh ỏi, tôi biết Phiên sẽ tìm được người,
một người rất sẵn lòng nói cho nó biết nó đã bị
tôi tước đoạt đi nhiều như thế nào. Một mái nhà yên
ấm đông đúc với người cha hết lòng cưng chiều, những
ngôi trường, những món đồ chơi hấp dẫn, những đứa
con gái dễ thương, một cuộc sống tiện nghi hiện đại
với những quán net, tiệm game dập dìu trên đường…
Cái thế giới bên kia sông mà Phiên đã bỏ lỡ mười
bốn năm đó mới thật sự là thiên đường. Và tôi đánh
cắp.
Tôi biết trong bóng tối rập rờn trên
những gương mặt người, gã đàn ông thua cuộc sẽ dồn
cả sự giận dữ của mình vào Phiên, làm nó chật căng,
nổ tung. Phiên của tôi đang nghĩ cách nào trừng phạt
người chị nhẫn tâm của nó. Nhưng Phiên không biết
điều đó cũng làm nó trở nên nhẫn tâm. Tôi không cam
lòng, vẻ đẹp thiên thần mà tôi giữ gìn mười bốn
năm qua không thể mất bằng cách như người đời thường
đánh mất.
Quờ quạng trong bóng tối như một người
mù, va đập vào trống không đau điếng, tôi lần dò vào
bếp, bắc ấm nước lên cái cà ràng và nhóm lửa. Tôi
chụm rất nhiều củi, chờ nước kêu ấm, nghĩ gió thổi
hướng này chắc Phiên không thể nào bắt mùi được
những nếp lá mục bắt đầu le lói cháy. Tôi đứng
trong khói và tự hỏi, làm sao giữ được vẻ đẹp lộng
lẫy này của khói, với mùi trứng kiến cháy cùng những
con mối ú mềm, mùi lửa bén vào chiếc trái khế con rụng
xuống nằm khô trong máng nước, mùi lửa liếm láp lên
chiếc lông gà, cái quạt tàu cau giắt trên vách, chiếc
chiếu đã đứt mất mấy sợi dây trân, và khói bắt đầu
sẽ sàng bén vào những sợi tóc…
Khói này, là món quà cuối cùng tôi tặng
em tôi. Nhưng khi nắm chúng lại, tôi chỉ nghe những ngón
tay mình xỏ vào lòng tay của chính mình.
Nguyễn Ngọc Tư
NGUỒN : bản do tác giả gửi Viet-Studies
Các thao tác trên Tài liệu