Lạc loài ư ? Không !
Lạc
loài ư ?
|
Có một vùng đất tôi đã sống qua vài năm thơ ấu. Rất nhiều hồi ức về nó bây giờ thật lòng tôi không biết đã có từ đâu. Từ sự sống thực của một con bé con hay từ những câu chuyện rầm rì không đầu không cuối của mấy bà già đũng quần khai sực bên đống lửa khơi giữa nhà ngày tháng chạp rét nẻ gót chân. Nằm ngay bên một ngã ba sông mà hai bề có những hai cái lô cốt cực kì kiên cố, một thời có những họng súng nhòm ra từ các lỗ châu mai. Cái lô cốt có những lỗ châu mai tăm tối ấy tôi từng thuộc lòng những ngăn, những khoang, những cửa khi chen chúc trốn tìm cùng mấy con bò to họng bao nhiêu trưa làng. Những ban trưa xưa lắm. Vừa xôn xao vừa êm ả. Trong tiếng con cồ cộ kêu váng ngọn xoan đào. Trong tiếng vườn chuối tự quật mình tướp lá. Trong tiếng chao chát của mấy bà rỗi việc xăm xắn chải chuốt cho mình ngoài dốc bến. Bên kia sông xa về Hà Nội là Ba la Bông đỏ, gần là bốn làng Vân, là Vác, xuôi về Vân Đình - một địa danh quen lắm với bao người một thời mang ba mươi sáu phố phường đi kháng chiến. Phía ấy là căn cứ địa của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Phải Hai người đàn bà xóm Trại của ông đã mướt mát, đã khô héo đi cùng hơi xuân sông nước nơi chốn ấy? Chéo bên sông dọc bờ sông Nhuệ bãi dâu mươn mướt là Lưu Xá. Cách nhau có một ngã ba sông nhưng lại không cầu, phiên chợ tết họp bên bãi sông phía Ứng Hòa còn phải nhắm mắt quên câu „đò đầy chớ qua“, Lưu Xá có bao nhiêu là tập tục khác lạ làm mắt bọn nhóc làng tôi mở không nhắm được. Khác nhất là tục tang ma. Con cháu xô gai rũ rượi thay nhau quăng mình đánh huỵch xuống đất trước hàng đô tùy khênh nhà táng, suốt dọc con đường đưa người chết ra đồng. Bên này sông, về làng, qua những Yên Phụ, Vĩnh Xương, Vĩnh Lạc, Kinh Đào, xuôi về những Xuy Xá, Phù Lưu Tế, Khu Cháy, cũng là những tên đất một thời lại thỉnh thoảng quẫy lên trong tâm hồn những kẻ từng ngược xuôi dặm dài kháng chiến cho một ngày về xuôi chân ghé Thăng Long buồn. À, nhớ chục năm trước nghe bài hát Có phải em mùa thu Hà Nội, túm được câu này, cứ yên tâm rằng người viết lời phải là người Hà Nội sắp hoặc đã trong độ tuổi xưa nay hiếm. Ai ngờ hóa ra mới qua tuổi hai mươi, chẳng phải người gần sông Hồng mà là sông Hàn. Ngẫm càng thấy đất Rồng bay ám ảnh hồn người và tài nhân thì không nệ tuổi.
Sống ở đó bao lăm nhỉ? Hình như chưa được năm năm, từ thủa lên ba tháng tuổi. Vài ba tháng lại ra Hà nội một lần. Nó là chốn dừng của đứa trẻ suốt đời ốm yếu là tôi khi gia cảnh khó. Năm năm, và những quãng ngừng, đánh dấu bằng trọn vẹn ba cuộc chiến tranh đánh phá của Mỹ.
Năm
ngoái, ông Đặng
Tiến vô tình gửi qua mạng một
bức ảnh. Ông nhà phê bình này
có thói quen chia sẻ tất cả cho đồng
bọn, chỉ là để vui
thôi
mà. Tin rằng những người nhận
tấm ảnh (ai chụp thế cho tôi gửi
lời…) không cảm động đậy giống tôi đâu.
Chụp ở đúng chốn đó, Ba
Thá, của tôi. Một cây cầu, do
Pháp xây, không đẹp, xây vì
mục tiêu quân sự ai lấy sự đẹp
làm đầu, càng thô kệch sau bao
nhiêu lần sửa chữa. Nguời con gái
cằn cỗi trước tuổi, ngồi bên
đống mía, duỗi cả bàn chân
đi đất, (cũng không đẹp, không
có lấy một mảy nõn nà) vào
mặt người xem. Chắc là cô ấy
lấy công làm lãi đây, buôn
bán thế này biết đến bao giờ
hết khó. Chỉ thế thôi mà tôi
như bị sốc điện. Chính cây
cầu ấy đấy, năm nào còn lát
gỗ vênh gần khắp các nhịp, từng
để lọt của tôi đồng năm
xu quý báu bà cho để theo đò
sang Lưu Xá nghe hát chèo, và cũng
vì thế mà tôi đã bắt buộc
phải nếm trải nông nỗi dạt vòm
từ lúc còn tấm bé. Hình như
vào khuya đêm chèo vãn mọi
người mới tìm ra tôi ở chân
đống rơm nhà hàng xóm, nhà
Thủy Ánh. Hình như chính ông
Thủy Ánh tìm thấy tôi tít thò
lò trong cái hũm nhà ông thường
rút rơm, bế tôi về giả bà
để bà hôm sau tra khảo và chán
nản nhìn mặt ranh con tôi đực ra
như ngỗng ỉa. Tôi không nhớ gì
về cuộc dạt vòm đầu tiên
ấy. Nhưng lại nhớ ông Thủy Ánh,
người phải gọi bà tôi vợ
liệt sĩ kháng chiến là cô, người
từng là một ông cai ông đội
lính dõng gì đó, người
mỗi bận Mỹ tìm cách đưa
miền Bắc trở lại thời kì đồ
đá bằng bom lại chụp cái mũ
lá lên đầu, cần cù đi tù,
trong khi anh Bảo anh cái Lệ học toán
hạng siêu mà lại không được
tự tính toán cho đời mình cũng
con một ông bộ đội tây núp
lô cốt thì lại khăn gói từ
trường đại học về làng sống
thầm lặng không giống bất cứ anh
trai làng nào. Ba lần chiến tranh, ba lần
anh làm kĩ sư thiếu tháng, rồi
buông xuôi cam phận làm chồng một
cô thợ may màu mỡ có cái hiệu
may trấn ở đầu cầu. Chính chỗ
ấy đấy, tôi với mấy đứa
gái nhà quê cởi trần không cởi
truồng bám thành cầu cố nhìn
mấy thằng ôn con cùng tuổi lao bạt
mạng xuống nước, xem chúng nó
cắm đầu xuống thì bòi có
chổng ngược lên không. Chân cầu
ấy, bao ngày Hà Nội đi qua những
đêm không ngủ, tôi một mình
trốn ra đó khóc thầm, đầu
óc quẩn quanh tiếng còi báo máy
bay Mỹ tới rú lên từ Nhà Hát
Lớn, và một phố nhỏ chiều chiều
chớp trắng những cánh cò có
những số nhà thân thuộc. Sông
Đáy thao thiết về xuôi, lắng dưới
lòng sâu đời cát. Nặng.
Vùng
đất ấy, với
xóm Gianh, cải cách ruộng đất
rồi hợp tác xong thì được
đánh số thành xóm Bảy nghe
trung tính đến thành vô cảm, với
ngõ Đồng, với cây đa cầu
Đồng Bán, vào sâu trong chân núi
Miếu Môn là những Chân Chim, Đồng
Mít, Thượng Lâm, Tuy Lai, biền biệt
mãi một ấu thời tôi. Xóm cuối
làng, nghèo nên mới có cái
tên gốc rễ rạ gianh như thế, vậy
mà lại có nhà có máu mặt
nhất làng, chia nhau làm tới nghị
viên Bắc Kì, chánh tổng, chánh
hội, con cháu ra Hà Nội học không
trường Bưởi cũng trường tây.
Những chuyện cường hào ác bá
kiểu Bá Kiến ở đâu xa, chứ
về mấy gia đình này, từ bé
tôi toàn nghe các ông các bà
già cả trong làng nói điều tử
tế. Có lẽ thế nên sang thời cách
mạng, cải cách ruộng đất, ông
nghị Móm cũng khốn đốn do mấy
lời tố điêu ngoa, trong tình thế
oái oăm là con trai thứ đang chỉ
đạo cải cách ruộng đất tổng
Hà Đông, nhưng con cháu ông sau
này phương trưởng và thành
đạt cả. Chắc nhờ có học đến
đũa đến đầu, chẳng cứ chữ
nghĩa mà là cái đạo ở đời.
Mà sung sướng nhất, là bà Móm
Trẻ của ông, người con gái nhan
sắc mặn mà ông cưới về do
bàn tay thu xếp của bà vợ cả,
được đội cải cách cùng
rễ với chuỗi giải phóng đủ
kiểu vẫn nhất định không bỏ
ông chồng già đang bị nhốt chuồng
trâu. Họ đó phải buổi đất
nước bão giông, cũng nhiều người
phiêu dạt. Xa nhất hiện giờ hình
như là ông anh họ tôi, từng liều
cả tuổi học trò vượt tuyến,
từ bắc vào nam, rồi lại từ nam
ra bắc mười mấy năm trời trong thân
phận kẻ chiến bại, rồi giờ thì
ở Mỹ. Nghe nói trước ngày đi
anh có về thăm lại quê hương.
Bà cô tôi kể lể mãi vẫn
ngỡ ngàng cái nỗi cái
anh
Anh con bác thơ kí Úy thậm giỏi.
Đi mấy chục năm ròng về làng
nhận không sai mặt nhầm tên một
ai. Ông bác này đây, người
nhỏ thó, ăn nói chẳng ra dáng
một ông già nào tôi vẫn quen
nhìn thấy sau buổi làm đồng tồng
ngồng vai vác cái cày sáng choang,
tay che che phía trước đi dọc đường
đê, cả làng quen gọi là ông
Thơ, nghe nói ngày xưa từng chịu
chơi mở một hiệu sách to đùng
ở Hà Nội, chỉ vì nỗi trót
lụy Tự lực văn đoàn, và ông
lang Mạch có hàm râu trắng nhà
đầu ngõ, ngày xưa lúc nào
cũng làm tôi chờn chợn khi trót
dại điều gì. Như chặt trộm
cây chuối tơ làm phao theo chúng bạn
ra sông vùng vẫy. Như rồ dại đuổi
con gà mái đang cuống cuồng tìm
chỗ đẻ. Chao ôi là năm tháng!
Nếu không phải là còn trong tuổi
bé, được nhênh nhàng như
thế, có lẽ suốt đời tôi sau
này sẽ bị ám ảnh cái nỗi
xa nhà. Hoặc nếu không có bà
tôi… Sẽ mãi mãi, bà ơi,
con sóng nhỏ chiều xuân vờn quanh ống
chân hai bà cháu bên bến nước
khi con thuyền đinh khẳm cát ngược
dòng. Sẽ mãi mãi, đăng đắng
ngọt, cọng cỏ ấu nhổ từ bãi
bồi phơ phất cờ ngô mưa bụi.
Sẽ mãi mãi một niềm gì phơi
phới khi đứng giữa bãi tha ma chiều
áp tết chờ bọn trẻ trâu chia cho
nửa củ khoai lùi. Tôi đã lớn
lên như thế đấy, không hẳn
như một con bé thị thành, dù
toàn bị trẻ làng bắt nạt chế con Hà Nội quần phăng tóc ngắn
đầu ngôi lệch, mà cũng
không ra một con bé nhà quê, dù
cũng xắn quần móng trâu con cón
ra đồng theo chúng bạn mò cua bắt
ốc hót phân trâu, đủ cả.
Vùng
đất ấy quen
thuộc biết bao nhiêu với tôi. Từ
Hà Nội qua Hà Đông, Ba la Bông
đỏ, Thạch Thất, Bình Đà.
Chỗ Vác, rẽ hơi xuôi về phía
trái sẽ tới Vân Đình. Vân
Đình thịt chó, Vân Đình cà
phê của bao người Hà Nội nghe lời
núi sông ra đi một thuở. Một con
đường trải đá dăm nắng
mưa đã đào xới tới cả
phần đá hộc dẫn qua bốn làng
Vân về Ba Thá. Từ Ba Thá xuôi
theo sông Đáy là những làng
ngày xưa rất âm thầm, vì xa trục
đường quốc lộ. Đây, sông
Đáy, trôi qua những đồng Bương
Cấn mạn thành Sơn hiện ra êm đềm
qua một vòng bánh xe đạp lăn về
phía trước. Đây, một triền
đê cỏ lơ thơ dưới mõm
trâu bò mùa đông khổ ải.
Đây, những mảng tường gạch
vỡ, mái rạ xám ỉu dưới mưa
sát bên đôi ba dáng xoan tơ.
Tiếng gà ban trưa báo trời mưa
tạnh dẫn ngọn khói bay lên, nâng
dần bầu trời phù thũng. Và tiếng
người quê. Đất tằm đất
lụa mà giọng tằm giọng lụa thì
chưa thấy bao giờ nhẹ cả. Vùng
đất ấy bây giờ được gọi
là Hà Nội Mới. Tôi vẫn chưa
bao giờ hiểu nổi làm thế nào
cái quá trình đô thị hóa
theo nghị quyết hôm nay làm được
việc hồi sức văn hóa xứ Đoài
và cấy ghép nó vào văn hóa
kinh kì bao nhiêu đời. Và, cũng
không hình dung được, qua những
đời đời nào nữa, người
của Hà Nội Cũ và Mới hôm
nay sẽ có một giọng nói riêng
làm của chung.
Thì
vậy. Dân phố
phường như tôi có ai lại nói cái chân
thành cái
chưn, tấm
gương thành tấm
hương, thanh huyền thành
thanh không, âm 'e'
ra khỏi miệng
nghe bẹt dí dị, có lẽ còn
chẳng hiểu đằng
rừng chỉ
phương nào. Phải về nơi ấy!
Nơi Ba Vì tím mờ sau bao nhiêu ngày
bị nổ mìn phá đá làm
đường cứ mỗi ban trưa nắng
ngời lại chớp bạc lên một vạt
vừa bị xẻ. Người quê, chẳng
biết tới cái bản đồ, nên có
cách định hướng riêng. Đi về
phía tây thì nói là vào
đằng rừng, vào Chân Chim, Đồng
Mít, vào Miếu Môn chẳng hạn. Về
hướng bắc lại nói là lên,
lên mạn ngược, lên Khảm
Lâm, Hạ Dục, lên Cốc, lên Sẽ,
lên Nguồn, lên Sơn (tây). Xuôi
phương nam thì thành ra xuống,
xuống Yên Phụ, Kinh Đào, Xuy Xá,
Tế Tiêu, sang sông rồi thì xuống
Vân Đình. Còn ngoảnh đi về
hướng đông thì lại nói ra,
ra Chuông, ra Vác, ra Khe Tang, ra
Bình Đà, ra tỉnh, ra Hà Nội.
Chỉ có tôi, cái đứa dân
phố lại thấy mình quê một cục
mới có kiểu lúc nào cũng đau
đáu một chữ về, ra
Hà Nội cũng là về, vào
Ba Thá cũng là về. Tội thế.
Từ
ngôi nhà của
bà, cách ngã ba sông vài mươi
mét, có vết rạn từ mái tới
chân tường, do chấn động của
trận bom máy bay Mỹ thả chệch khỏi
cầu, tôi đã xuống, đã lên,
đã vào, đã ra. Ra
Hà
Nội thì dĩ nhiên rồi. Vào
là chạy lụt năm bảy mốt, chạy
tuốt vào trong chân núi, nhưng không
được vào tận sân bay quân sự
Miếu Môn, dù trẻ con khờ khạo
chưa biết lo biết tiếc những mất
còn qua cơn giặc nước đã tí
tửng tưởng thế. Xuống
là
xuôi đê về làng Yên Phụ,
sát làng tôi. Cùng một triền
sông bên này lao xao hồn ngô mía,
bên kia sông Đáy lững lờ, cùng
một triền sông, nhưng làng Yên
Phụ có hơn làng tôi một nhà
thờ, và những tiếng chuông sớm
chuông chiều, nghe, xao xuyến, lạ, khác
hẳn cảm giác tiếng chuông nhà
thờ vẫn nghe từng ngày giữa trời
Âu. Ở mé làng đó có một
nếp nhà mái rạ, lớp một của
tôi. Tình thực, tôi quên sạch
đôi ba buổi vào ra lớp một, hỗn
hào đến mức giờ chịu không
nhớ nổi người thầy đầu tiên
của mình là thầy hay cô. Nhưng
miên man trong trí, hình như…
có một đồng dâu ngút ngát,
có con rẽ giun chốc chốc vụt bay ra.
Hình như … có bờ mương đôi
ba khi lại có con rắn hoa nằm vắt
ngang dậm dọa sát bãi phân trâu
đầy hấp dẫn, có những bụi
hoa muồng muồng vàng dại, có cánh
chuồn chuồn bão lộng lẫy màu
cam đỏ chớp sáng những cô độc
trưa chiều. Và những gì nữa nhỉ?
Cái mũ rơm nặng trịch chị Lễ
nhà bác Oánh bện cho, chiếc túi
cứu thương đầy đủ bông
băng thuốc đỏ, túi áo bông
luôn lưng lửng một cái gì ăn
được. Nhớ, sao thèm quá thể,
trời ơi. Thèm, sao nhớ thế, hai đứa
bạn gái ngày xưa. Hình như một
đứa là Lương con ông Tư Lỉnh,
hình như một đứa là Dung con bác
Công lùn. Bác Công lùn nổi
tiếng thời làng còn là làng
tề, làm du kích vác dao phay nhảy
lên xe giặc chém sả tay thằng Tây
đồn trưởng lô cốt đầu
cầu. Cả hai bác Công trai Công gái
vừa xấu vừa tốt. Xấu tướng,
tốt tính. Thế mà cái Dung thì
mỏng mày hay hạt, lông mày dài,
môi đỏ, khác kiểu con gái nhà
quê, y như con hai bác nuôi hộ ai. Hình
như nhà nó ngay đầu cổng bệnh
viện tâm thần bây giờ, xưa là
doanh trại bộ đội. Hình như cái
Dung đẹp người thế mà một
đời cô khổ. Hình như cái
Lương cũng vậy, lam lũ cả đời.
Tôi nhớ tôi cứ bỏ rồi chơi
lần lượt với hai đứa, tùy
theo sự phát triển quá trình cạnh
tranh viện trợ lương thực và thực
phẩm của chúng nó cho tôi. Cà
chua, khoai lang sống/ chín, bỏng ngô, thóc
rang hay nướng cả bông, hay một con muồm
muỗm béo. Chao ôi, hóa ra tôi xấu
thói ngay từ ngày đó nhỉ. Mà
hình như, hồi ức này có thật
hay không ?
Xuống,
gần là Yên
Phụ. Lên, gần là Khảm Lâm. Cũng
chỉ vì cây cầu mục tiêu đánh
phá của Mỹ một thời mà chị
em tôi phải từ nhà bà sơ tán
thêm lần nữa. Cách nhau có mỗi
một đỗi đường đê, mà
bốn mươi năm trời tôi vẫn chưa
một lần về lại. Trong kí ức mờ
mịt của tôi, lỗi nửa phần ở
tuổi ngây ngô chưa biết nhớ, nửa
phần ở tuổi sắp già lẩn thẩn
chóng quên, có một dải đê
vắng ngơ ngẩn cả người, có
những ngõ nhỏ mát rượi vì
nắng khó nhọc lắm mới xuyên qua
được vòm lá xanh đan dệt bên
trên, có những ngôi nhà cách
nhau thửa vườn to như ruộng, trồng
su hào vừa bén rễ, lá nhỏ xanh
bạc chiều đông. Sao có những ngày
có những người rộng lòng đến
vậy. Bốn bà cháu lốc tha lốc
thốc cùng cả gà qué lên ở
nhờ, mà vẫn có ngay chỗ đậu.
Bác chủ nhà tên là Lau. Riêng
điều này tôi nhớ kĩ. Hình
như bác cụt một tay, hình như bác
gái hơi lé mắt. Hai bác không
con. Vậy mà cũng chịu được
cảnh cửa nhà trẻ mỏ luôn ầm
ĩ, chịu được cả cảnh con em họ
tôi quái tính, cứ buồn ị là
chạy ra gốc xoan đầu ngõ chổng
mông. Hình như bác là cán bộ
xã, vì sau này tôi con được
gặp bác đôi lần, đeo xà cột
đi xe đạp ghé qua thăm bà cháu
tôi. Hai bác đã sẻ đã chia
cho bà cháu tôi nhà cửa, miếng
ăn, là tất cả của nả của
con người một thời. Củ su hào nhổ
từ ruộng sau nhà. Vỉ cá nướng
bằng đống rấm đầu ngõ chiều
tháng chạp. Con thiểu, con trôi, con chày
mắt đỏ, khô cong rồi lại đem
kho khô với riềng và thìa mỡ
nước ăn ngày sau tết, ngon thủng
nồi trôi rế. Bây giờ, mua con cá
chép suýt soát năm cân, béo
phù mình, lừ đừ như sắp
ngất trong bể, lại tiếc, tiếc một
cái tên, những từ những ngữ, như
tên mấy loài cá sông kia, trẻ
thành phố có lẽ chẳng bao giờ
nghe thấy. Mà người lớn ở tuổi
tôi, rằng cũng đêm
nằm năm
ở, nhưng bao nhiêu bận bịu cơm
áo hàng ngày, hẳn cũng quên
rồi.
Hồi
đó tôi lên
mấy nhỉ ? Hình như bốn tuổi. Tôi
nhớ có những chiều chiều bà
cháu mang thúng ra bãi vải quét lá
về thổi cơm. Bãi vải là rẻo
đất nằm thoi loi triền sông, ít
người lai vãng. Sông chảy dưới
kia có âm vang gì không nhỉ? Nhưng
tiếng gió lùa qua bãi vải, tôi
nhớ khô khô. Hình như ở gần
đó hay ngay trong đó có một ngôi
chùa, lớp học đầu tiên, vỡ
lòng vỡ ruột của chị tôi. Mấy
chục cái đầu trẻ con cúi trên
cuốn vở trong ánh sáng âm u. Còn
tôi lũn cũn theo ông giáo làng
lang thang trong hậu điện. Tôi biết ông
Cu Lo gầy xiêu vẹo, bà Di Lặc béo
phề rốn là nhờ ông. Hình như
đó là bài học đầu tiên
của tôi, bài học ông không dạy
cho đám học trò chính danh. Sau này,
vãng mỗi cảnh chùa, biết sự
tích chư Phật rồi, biết thì cứ
biết, mà tôi vẫn muốn giữ mãi
cho mình những lời kể thực hư
kia. Hình như tôi biết viết biết
đọc cùng với học trò ông.
Vì sao thì không biết. Bởi chỉ
có mấy bà cháu sống cùng
nhau, không sách không vở ngoài một
cuốn vỡ lòng và dăm ba cuốn Bình
dân học vụ, không gì cả, ngoài
tấm lòng bà mong một ngày yên
hàn đưa cháu về làng, ra Hà
Nội.
Rất
lâu sau này, khi
đường về quê qua Vác khó đi
hơn đường qua Mai Lĩnh mới làm,
mỗi bận về quê, tôi đều đi
qua những Cốc, Sẽ, Nguồn, rồi tới
Khảm Lâm, thêm một đỗi đường
đê nữa đã là cây gạo
đầu làng Ba Thá. Nhưng chưa khi
nào hai chị em tôi có dịp rẽ
qua thăm hai bác Lau gái Lau trai. Sau này,
lớn lên, già đi, mỗi bận về
làng là lại vội vội vàng vàng
bao nhiêu việc, cũng chẳng làm sao thu
xếp được. Thì như tôi, mấy
năm mới một lần về lại Việt
Nam, hết thăm người đã khuất
lại lo thăm người đang sống, vèo
cái hết ngày. Nhưng có hẳn là
khúc mắc chuyện thời giờ. Hay tại
lòng mình vợi, cạn? Chứ ngẫm
như dân xứ đạo, một tuần có
được ngày chủ nhật, mình
chỉ chăm chăm những chuyện đâu
đâu, họ thì thành kính tới
nhà thờ mất béng nửa ngày,
không toàn tâm ý không thể nào
thu xếp được đời mình như
vậy.
Không, tôi không về lại nơi ấy được, nhưng chưa bao giờ quên. Trí tưởng tượng sẽ bù đắp cho trí nhớ mù mờ của tôi. Chưa bao giờ tôi quên hai bác Lau, chưa bao giờ tôi quên dáng bác xà cột đeo lệch bên người, khó nhọc dựng xe đạp bên thềm nhà bà tôi bằng một cái tay còn lại. Cũng như hóa ra chưa bao giờ các bác quên chị em tôi. Mới hôm trước, chat với bà chị gái ở Hà Nội, chị tôi kể vô tình quen một người Khảm Lâm vẫn hay đi chợ cùng khu, hỏi ra, ông ấy kể là họ hàng của bác Lau, và bác vẫn nhắc tới hai con bé con Hà Nội ngày nào. Mà đã bốn mươi năm có lẻ rồi. Hóa ra bác vẫn còn đang sống. Nhưng thế thì già lão lắm rồi. Chị tôi buồn buồn bảo thế nào tết này về quê thăm mộ bà xong cũng sẽ lên Khảm Lâm, thăm bác, không thì quá muộn.
Không thì quá muộn! Bỗng dưng mũi cay sè.
Vèo
cái, trở về
chốn cũ, thấy chẳng còn gì quen
thuộc nữa, hồ nghi không biết „đến“
hay về.
Vẫn biết cái eo sèo
hẩm hút một thời không thể và
không nên còn nữa, nhưng cảnh
làng xóm lổn nhổn mái bằng,
cảnh bãi tha ma làng người chết
quay đầu bốn phương tám hướng
tranh hơn từng phân gạch xây chân
mộ, cảnh giai gái làng mặc toàn
đồ thị thành hết mốt ra tỉnh
kiếm ăn quanh hôm nay vẫn làm lòng
buồn bã. Như mất hẳn một cái
gì nằm trong cội rễ riêng mình.
Bãi vải đầu làng Khảm Lâm
kia, nay không còn nữa. Hàng phi lao che
chắn cho cả phiên chợ huyện chạy
máy bay một thời, cũng mất. Sông
Đáy chậm nguồn chẳng phải vì
tự tình gì với đất với
người mà vì người trồng rau
muống thả. Triền đê êm ả xưa
vừa đi vừa nhảy nhẫng, nửa vì
trẻ con đói ăn mà vẫn rồ
dại, nửa vì cát bỏng chân đứa
trẻ thị thành đua đòi theo chúng
bạn nhà quê chân đất, giờ
rỗng ruột vì máy hút cát sùng
sục đêm ngày. Lá cỏ bợ
ngày nào đi làm đồng về cô
láng giềng vẫn gọi cầm rổ ra sẻ
cho một nửa bây giờ được đóng
gói vào bao nilon bán thành rau đặc
sản…. Như…, không phải là
như nữa, mà thực mất hẳn một
cái gì làm nên cội rễ của
riêng mình.
Vèo cái, từ con bé con con đã thành ra mẹ mướp bốn mươi có lẻ rồi. Tuổi nhi bất hoặc đây. Mà nhiều lúc tức tối chán vẫn phải công nhận chồng thường đúng khi méo miệng lắc đầu cười vợ cô mình rằng cô mình ơi – khi nào thì hết dở hơi. Thực lòng, càng sống, càng thấy dại. Dại nhất là cứ ham hố đâu đâu, cứ thán phục những ai ai, không biết chăm chút những ân cần, thương qúy mình nhận được từng ngày từ những người bình thường đến độ như vô danh tính. Bao nhiêu cái tặc lưỡi đủ làm mòn đi rất nhiều thương nhớ trong đời. Cứ tưởng là vụn vặt. Mà hóa ra nhờ đó mình níu được mình khỏi bao nhiêu va đập đời thường, khi không biết còn phải bám víu vào cái gì để mà sống tiếp.
Thằng con sinh ở đất này đứng sau lưng đánh vần trộm được mấy dòng vừa hỏi mẹ viết hồi kí đấy à. Ới dào, mẹ mày ngốc thành ra mày cũng ngốc. Mẹ danh phận mọn, cả đời chẳng nên cơm cháo gì, thành công lớn nhất trong đời là lấy được bố mày, viết hồi kí có gì mà kể, kể ai nghe.
Nhưng con ạ, một chút gì để nhớ, để yêu thương thì ai cũng có. Cái chút gì đó luôn luôn là của nả đáng giá nhất đời người.
Nhận ra điều đó sớm thì chỉ có nghĩa là người già sớm.
Mình già sớm.
Thôi. Kệ !
Sau tháng chạp là tháng giêng.
Là xuân.
Lê Minh Hà
Các thao tác trên Tài liệu