Năm 1991 (tiếp theo và hết)
Hồi ký
Năm 1991
(Kỳ 2)
NGUYÊN NGỌC
Thào Mỹ ngày gặp lại
Đồng Văn ngày xưa là một huyện lớn, nay chia làm bốn: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ.
Ngày chiến tranh biên giới, thị trấn Đồng Văn và tất cả các xã đều trở
thành phía trước phơi mình ra dưới tầm pháo. Huyện Mèo Vạc phải nhường
cho Đồng Văn ba xã để có chỗ mà lui. Huyện lỵ Đồng Văn phải chạy lùi về
Lũng Phìn. Nghe nói tốn tới hàng trăm tấn thuốc nổ phá núi dựng cơ quan
huyện ủy và ủy ban mới. Cơ quan khá đàng hoàng, cất toàn bằng gỗ trắc
núi đá rắn hơn thép, trên đồi cao, khoáng đạt, khang trang. Chỉ có điều
rét tê người quanh năm. Đêm chúng tôi ở lại, sương buốt tựa băng rơi
lộp độp suốt sáng như một thứ mưa rào chậm chạp và bí mật. Có cửa hàng
mậu dịch, có cả ngân hàng, kho bạc… Nhưng hình như quang cảnh chung lại
đìu hiu hơn, xơ xác hơn xưa nhiều. So với ngày tôi ở trước đây, chỉ có
hai điều thay đổi tân tiến rõ rệt: đường ô-tô đã đến hầu khắp các xã,
tất nhiên là đường hiểm trở vô song, nhưng dẫu sao cũng là đường.
Và nước. Trên vùng núi đã vôi mênh mông này nước quý hơn vàng. Mưa ào
xuống một cái, vài phút sau núi đá vôi đã hút khô sạch. Nay đã có đường
ống dẫn nước, bằng kim loại hẳn hoi, qua các xã. Nước được chứa trong
các bể xi-măng lớn, xanh rờn và lều phều rêu rác, nhưng cũng là nước,
là thiên đường, so với cái đói nước kinh niên ngày trước.
Tiếp chúng tôi là Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Lì
Mí Pó. Theo chỗ tôi nhớ, tôi chưa gặp người H’mông nào như anh. Không
sôi nổi, nhiệt huyết ồn ầo, dễ say và dễ buồn, dễ cực điểm. Lì Mí Pó
chắc chắn, hơi trầm mặc, ít nói, cười rất nhẹ, đăm chiêu nhiều hơn. Anh
nói chậm, cân nhắc từng chữ, câu nói gọn và chắc. Người gầy, rắn đanh
như được tạc bằng gỗ trắc núi đá, mắt không xếch lắm, khuôn mặt rắn
rỏi, kiên định. Anh là kỹ sư nông nghiệp.
Câu chuyện loanh quanh một ít những kỷ niệm xưa, rồi lập tức, chẳng
dừng được, bị cuốn ngay vào đề tài nóng bỏng nhất: sống thế nào đây,
trên núi đá cằn cỗi muôn đời này?
Lì Mí Pó đi nhiều. Người đi nhiều thường cũng là người nghĩ nhiều. Anh
bảo:
– Tôi công tác ở huyện mỗi năm trung bình đi bộ ba, bốn nghìn cây số,
buổi trưa nhịn đói.
Câu chuyện của anh, tất nhiên, xoắn chặt vào việc làm ăn. Vẫn câu hỏi
cháy bỏng ấy: trồng cây gì?
Lì Mí Pó:
– Chúng tôi có 4 vạn hai dân, 11 dân tộc, 90 phần trăm người H’mông.
Bình quân đất sản xuất 0,17 héc-ta/đầu người.
Tôi cười :
– Đất hay đá?
Lì Mí Pó cũng hơi cười:
– Vâng, đá.
– Trồng gì?
– Ngô và một ít lúa. Năng suất ngô 9 tạ/héc-ta, lúa 2,4 tấn/héc-ta. Thử
trồng ngô hai vụ nhưng thất bại, anh ạ, vì thiếu cường độ ánh sáng.
Anh nhìn ra ngoài. Đã gần 10 giờ sáng. Mà bốn bề vẫn còn mù mịt sương.
– Đành quay lại một vụ, thu hoạch khoảng tháng năm tháng sáu, phụ thuộc
có mưa sớm mới cày được. Tháng chín, tháng mười giá lạnh, cờ ngô bị khô
trắng. Năm nay do mưa nhiều, lũ trôi cây, phân gio. Dân không có tiền
mua phân đạm. Hiện nay ba bốn mươi phần trăm số hộ đói. Không có ngô
ăn, chỉ trông chờ tam giác mạch, nhưng tam giác mạch sẽ làm chua đất,
xấu ngô.
– Còn cây dược liệu?
– Cũng có đấy: đương quy, tam quy, tam thất. Nhưng thị trường bấp bênh,
các thứ ấy bây giờ bên Tàu tràn qua nhiều. Dân chán, mỗi năm chỉ thu
hoạch được vài chục cân. Trên này có ưu thế mận, lê, chắc anh từng biết
rồi. Nhưng bảo quản, vận chuyển thế nào? Thuê một chiếc xe tải từ thị
xã Hà Giang lên, về, mất bốn triệu đồng.
Tôi liều mạng bục ra một câu hỏi kỳ thực vẫn ấm ức từ lâu:
– Hay trở lại cây thuốc phiện?
Lì Mí Pó ngồi im lặng rất lâu. Những gì đang trào lên trong anh mà
khiến đôi mắt của người kỹ sư nông nghiệp H’mông sinh ra trên đất đá
khắc nghiệt này, hơn nửa đời trằn trọc với quê hương này, mỗi năm đi
bộ, nhịn bữa trưa, hàng 3, 4 nghìn cây số khắp núi non này, đôi mắt
nhỏ, dài ấy đột nhiên ánh rực lên.
– Đó là việc của cấp quốc gia – anh nói.
– Nhưng còn ý kiến riêng anh?
Lì Mí Pó nhắc lại.
– Đó là việc của cấp quốc gia… Bây giờ cấm trồng thuốc phiện nhưng
người ta vẫn hút đấy. Có điều chui lủi, lén lút, khó nhọc hơn, đắt hơn.
Ngừng một lát rồi anh nói:
– Sức mua của dân rất thấp, chỉ trông vào ba hạt ngô còm cõi.
Đêm hôm ấy tôi lại ngồi với Lí Mí Pó đến khuya. Hình như sự tĩnh mặc
của đêm núi rừng khiến anh cởi mở hơn. Anh tâm sự:
– Tôi có nghĩ một phương án: làm thủy điện sông Nho Quế. Tôi đi xem kỹ
rồi. Làm được. Tất nhiên nhà nước Trung ương phải hỗ trợ chúng tôi.
Chẳng lẽ nhà nước Trung ương bỏ chúng tôi sao?
– Để làm gì? – Tôi hỏi.
– Sẽ chế biến bảo quản lê, mận, đào, rồi chuyển về xuôi. Tôi nghĩ nát
óc rồi, chỉ còn phương kế đó.
Chúng tôi lại ngồi im lặng. Tôi không dám hỏi thêm Pó câu gì nữa. Tôi
biết cái phương án của anh đẹp quá, nhưng rồi chắc cũng chỉ là một thứ
ảo tưởng như bao ảo tưởng của chúng ta… Lê, mận Đồng Văn, Phó Bảng ngon
nổi tiếng. Nhưng sản lượng được là bao?…
Thật sự chưa có con đường ra cho cái cao nguyên đá kỳ dị này.
*
Trên đường từ Lũng Phìn qua Mèo Vạc, Gác lái xe bảo:
– Cái dốc này gọi là dốc Ba Cô Giáo đây.
– Là thế nào?
Gác cười. Anh đánh nhanh tay lái tránh một tảng đá lớn.
– Anh cho em xin điếu thuốc… Nguyên chỗ này có một cái trường cấp 1,
tất nhiên, có ba lớp thôi. Lớp 1, lớp 2, lớp 3. Lớp 1 mười học sinh,
lớp 2 năm, lớp 3 thì chỉ còn có hai. Cả ba lớp ngồi chung tất một
phòng, dạy chung, học chung, lộn tùng phèo. Ba cô giáo là người dưới
xuôi lên. Kinh có, Tày có. Anh nghĩ coi, heo hút giữa rừng đá, bốn bên
toàn đá. Bộ đội ta phát hiện ra. Đi qua, tạt vào, nghỉ lại đêm. Đủ ba
người thì tốt, hai người cũng được, một cũng được. Nghĩa là… anh hiểu
rồi chứ gì?… Thương quá.
Chúng tôi sững người. Và bỗng sực nhớ ba cô gái trong cái trạm sản xuất
bị bỏ quên giữa rừng Tây Nguyên và những cậu trinh sát khao khát và tội
lỗi trong quyển tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
Ôi, giữa những ngày tôi và các bạn đang sống yên ổn giữa Hà Nội, với
bao nhiêu chuyện hằng ngày hữu tích sự và vô tích sự của chúng ta, thì
ở nơi núi non xa xôi này vẫn còn có câu chuyện bi thảm tội lỗi và đau
đớn này sao?…
Chúng tôi phải dừng xe lại, nép hẳn vào một bờ ta-luy nhường đường cho
hai chiếc xe tải chở rất nặng ngược chiều. Thùng xe chất toàn những hòm
gỗ lớn: xe quân đội chở đạn về xuôi. Chiến tranh biên giới đã yên. Bộ
đội đang rút dần về.
… Có người đón đường đi nhờ xe: một cô giáo ở chính cái trường S.L. Gác
vừa kể, đi nhờ xe về Mèo Vạc: ngày mai là phiên chợ. Cô gái má đỏ au,
rắn chắc. Hình như là người Tày Chiêm Hóa. Đường xóc nảy người mà cháu
bé vẫn ngủ say.
Chúng tôi không dám hỏi chồng cô bây giờ ở đâu. Cô gái cười tươi rói:
– May quá, không thì mẹ con cháu cuốc bộ nửa đêm mới đến nơi.
Cô giáo cũng đi chợ. Chốn đèo heo hút gió này chợ là ngày hội mà.
*
– Thào Mỹ bây giờ ở đâu?
Anh Phó Chủ tịch huyện Mèo Vạc hơi ngơ ngác:
– Thào Mỹ?… Thào Mỹ nào nhỉ?… À phải rồi, hình như là bán cái quán ngay
trước cổng cơ quan đây.
“Hình như…”. Tôi hơi cay đắng, nhưng biết chẳng trách ai được. Anh Phó
Chủ tịch người tận dưới Thái Bình, chắc là mới được điều lên công tác
vùng cao sau khi Thào Mỹ đã nghỉ việc. Bao nhiêu lo toan rối rắm hằng
ngày, anh đâu có thì giờ tìm hiểu những chuyện mấy chục năm trước.
“Hình như là bán cái quán ngay trước cổng cơ quan đây”, nghĩa là cách
chỗ tôi đang ngồi chỉ năm bảy chục mét. Tôi vội rửa ráy qua quít rồi
chạy ù ra:
– Chị Thào Mỹ!
– Anh!
Chúng tôi không nói được gì nữa. Thào Mỹ cúi xuống lục tìm mãi một vật
gì đó trong cái thúng hàng lộn xộn, chắc là để giấu đi một nỗi niềm xúc
động quá bất ngờ. Lâu lắm chị mới ngửng lên, gần như thì thào:
– Vậy mà em nghe tin anh đã hy sinh rồi.
Và chúng tôi lại ngồi im lặng. Đột nhiên chẳng còn có gì để nói với
nhau cả. Tất cả vụt tan biến hết. Xuân Thiều và Ma Liễu ý tứ bỏ đi đâu
đó. Tôi ngồi một mình cạnh Thào Mỹ, cách có vài gang tay, nhưng giữa
chúng tôi là 30 năm dâu bể. Vậy mà người đàn bà ấy vẫn đẹp một cách lạ
lùng. Tôi chưa thấy người đàn bà nào có thể đi qua 30 năm dằng dặc đau
khổ trầm luân tưởng chừng nhẹ tênh đến vậy. Vẫn đôi mắt xanh nâu đắm
đuối ấy, có bình tĩnh và chín chắn hơn đương nhiên, nhưng ngọn lửa khát
khao chừng không thể, không hề tắt. Vẫn gọn gàng nhanh nhẹn rắn chắc,
có lẽ vẫn hệt ngày xưa, những ngày leo lên công tác Thào Trứ Lũng, Cán
Trứ Phìn chót vót, Thào Mỹ đi trước, tôi theo sau, thấy chiếc váy lanh
óng ánh của chị đong đưa theo nhịp bước và đôi bắp chân Mỹ nõn nà như
hai cái ức trắng của đôi chim rừng lướt đi trong cỏ đá.
Tôi buột miệng:
– Chị Mỹ ơi, sáng mai ta lên Thào Trứ Lũng đi, thăm ông già Lầu Xểnh Va.
Thào Mỹ cười:
– Anh chẳng còn leo nổi nữa đâu. Mà ông Lầu Xểnh Va cũng mất rồi.
Chị bảo:
– Tối nay anh sang nhà em nhé, anh còn nhớ món mèn mén không, em đãi
anh một bữa. Chồng em mất rồi, năm ngoái… Anh ấy đi đột ngột quá, đâu
có mấy ngày, em chạy không kịp… Bây giờ ở nhà còn thằng con trai và đứa
con dâu. Thằng Dính, con đầu của em, đang học trường quân sự dưới Hà
Nội… Chỉ tiếc anh lên mà không còn gặp được chồng em. Anh ấy cũng nhắc
anh luôn đấy, em kể lại tất cả mà.
Thào
Mỹ ngày gặp lại
Tôi ngạc nhiên. Người chồng Lô Lô, trẻ hơn Mỹ đến gần chục tuổi, đã đánh đập hành hạ chị tàn bạo, đã gọi chị là “Con Mèo già, cút đi!”, vậy mà chị nói về anh với biết bao thương yêu. Chị đã có hạnh phúc thật sự chăng? Một chút hạnh phúc bắt được giữa cuộc đời xáo động. Hay là một cố gắng tuyệt vọng để níu lấy một bóng dáng hạnh phúc do chính chị tưởng tượng ra?
Không, Thào Mỹ đã có hạnh phúc thật. Nhìn đứa con trai và cô con dâu
chị thì biết và tin. Cậu con trai đẹp quá chừng, đôi mắt xanh nâu tinh
anh đằm thắm của mẹ, cái vạm vỡ tự tin táo bạo chắc là của cha. Và sự
chắt lọc pha trộn của hai dòng máu, để làm nên cái tác phẩm kỳ diệu
này. Cô con dâu người Lô Lô Lũng Cú mới nằm nơi dậy, ngồi bên bếp lửa
thản nhiên trật vú cho con bú. Cô gái Lô Lô một con ấy trông ngon lành
như một trái đào vừa chín tới.
Tôi hỏi cậu con trai:
– Làm thế nào mò lên tận Lũng Cú mà tìm được cục vàng này thế?
Cậu cười ranh mãnh:
– Thì ngày trước bác chẳng lặn lội lên tận Mèo Vạc này là gì. Mẹ cháu
kể hết. Cả nhà này đều biết bác. Bọn cháu chờ, cháu bảo: Thế nào cũng
có ngày bác trở lên. Cháu đoán có sai đâu…
Tôi rủ Thào Mỹ sang thăm Lùng Sùng Páo. Chúng tôi đi trong đêm rét căm
căm, qua Chúng Pả, rồi Xả Pả. Thào Mỹ bảo:
– Anh Páo bây giờ bị mù, nhưng còn tinh lắm. Em sẽ không giới thiệu gì
cả, để xem anh ấy có nhận ra anh không.
Cả nhà đang quây quần quanh bếp lửa. Tôi bước vào và gọi:
– Anh Páo, có người cũ về thăm đây. Nhớ không?
Một người đứng dậy. Cao lớn, gầy, quần áo chàm, đầu quấn khăn. Người ấy
mò mẫm bước tới mấy bước, đứng lặng một chút, rồi đột ngột ôm chầm lấy
tôi:
– Anh Ngọc!… Các con ơi, bà ơi, anh Ngọc về đây này!
Páo khóc. Từ đôi mắt mù của anh len ra hai giọt nước mắt lớn. Tôi cứ
đứng vậy mà để cho hai giọt nước mắt nghĩa tình ấy ướt ấm trên má tôi.
Chúng tôi uống rượu. Lâu lắm tôi mới lại uống nhiều thế. Cô con gái
Páo, học trường thiếu niên vùng cao, lém lỉnh chuốc rượu đến tài. La đà
say, tôi nghe Páo kể:
– Mấy năm tôi đi các làng, đồng bào hỏi thăm anh Ngọc mãi. Ai cũng
nhắc: anh cán bộ Ngọc không bao giờ dọa dân…
Páo kể. Và lại khóc. Chúng tôi lại uống.
Xuân Thiều ghé tai tôi:
– Tớ ghen với hạnh phúc của cậu.
*
Phiên chợ Mèo Vạc nghèo và buồn. Phải nói thật điều này thôi: không
bằng 30 năm trước.
Không còn những chõ xôi vàng rực, chỉ nhìn đủ thèm. Không còn những gói
hoàng tinh (mà ở đây người ta gọi là voòng chính) mỡ màng chất đầy các
củi tấu. Không còn những chú lợn béo ụ được dòng dây vào cổ, người bán
người mua thách và mặc cả ầm ĩ. Cả những người đi bán khèn Mèo cũng
chẳng thấy. Vắng hẳn những chiếc váy H’mông xúng xính rung rinh. Ngay
đến hàng thắng cố truyền thống cũng lơ thơ… Chợ biên giới mà hàng Trung
Quốc chỉ có mấy chiếc đèn pin cổ lỗ, vài xấp vải đen rất thô, mấy thứ
thuốc cao đơn hoàn tán linh tinh. Có lẽ chỉ còn có một nơi sôi động
nhất là cái sân vận động ở đó người ta bán và mua ngựa. Trên vùng núi
đá này, ngựa là chiếc xe Honđa. Người mua thử ngựa, nhảy thót lên lưng,
giật cương chạy quanh sân. Người ngồi xem uống rượu men lá bằng bát.
Nhưng không còn thấy cảnh các đôi trai gái say mèm, người con trai cầm
khèn vừa nhảy lò cò vừa thổi, người con gái cầm ô xanh đỏ hát dìu dặt
Tu tè chí dù mưng, rồi dìu nhau vào các hốc đá tiếp tục cuộc tình đắm
đuối cho đến tối mịt…
Mới trưa chợ đã vãn.
Không gì bộc lộ rõ rệt đời sống của người dân bằng cái chợ. Lì Mí Pó
nói đúng: Sức mua của người dân đã xuống thấp lắm.
Thào Mỹ không ra chợ. Chị chỉ ngồi cái quán trước cổng huyện ủy. Quán
chị cũng đìu hiu quá: mấy cái kẹo không có tên, dăm chai rượu, vài bao
thuốc lá bán từng điếu…
Chúng tôi đảo qua chợ vài vòng, chẳng mua được gì, chẳng có gì để mua.
Tôi bảo Xuân Thiều:
– Thôi ta đi chuyện khác. Tôi sẽ cho ông xem hai kỳ quan: Mã Pi Lèng là
một, Sùng Chóa Vàng là hai.
– Sùng Chóa Vàng?
– Rồi sẽ biết…
Chúng tôi đi Mã Pi Lèng trước. Xuân Thiều đứng lặng trên đỉnh đèo, sững
sờ không nói được câu nào. Tôi có thể đoan chắc với các bạn, trên khắp
đất nước ta đấy là đệ nhất hùng quan. Thào Mỹ có lần kể với tôi rằng có
bận, hồi còn trẻ, thất tình, tuyệt vọng, chị đã lang thang khắp núi
rừng và định ăn lá ngón tự tử. May thay hôm ấy chẳng biết xui khiến thế
nào chị leo lên Mã Pi Lèng. Và chính cái đèo kỳ lạ này đã khiến chị
quyết sống. Núi sông đẹp đến thế, chết sao nổi!
Ba giờ chiều, trên đường từ Mã Pi Lèng trở về Mèo Vạc, chúng tôi ghé
lại Pả Vi thăm Sùng Chóa Vàng.
Trong ký ức của tôi, đó là một điểm sáng không thể quên, một con người
kỳ lạ. Có lẽ là người H’mông nhất trong tất cả những người H’mông tôi
từng gặp, quen biết. Một chiến sĩ thiện chiến bậc nhất và một tâm hồn
nghệ sĩ đến tận máu thịt. Vô cùng dũng cảm và vô cùng tự do. Những trận
đánh khó khăn ác liệt nhất đều có mặt Sùng Chóa Vàng. Những việc hiểm
nguy nhất, chọn ai? Bao giờ cũng là Sùng Chóa Vàng. Làm thịt chó ngon
nhất: Sùng Chóa Vàng. Ve gái tài nhất: Sùng Chóa Vàng. Yêu đến mê mẩn
vợ con, lại cũng Sùng Chóa Vàng…
Tôi nhớ một đêm chúng tôi đang đuổi theo bọn phỉ trên thôn Cán Trứ
Phìn, đột ngột Sùng Chóa Vàng tìm đến tôi:
– Cán bộ, cho mình về nhà một bữa.
– Sao được. Đang đánh nhau thế này. Mà về làm gì?
– Mình nhớ vợ!
– Trời ơi! Xong trận này đã. Sẽ cho nghỉ một tuần.
– Không cần một tuần. Một đêm thôi. Mình thèm nó quá rồi. Về một đêm.
Mai có mặt.
– Nhưng dọc đường bọn phỉ nó xơi tái ông mất.
– Sợ gì!
Nói xong, xốc súng quay đi ngay. Cây súng kíp dài ngoẵng.
Tôi chỉ kịp gọi với theo:
– Chóa Vàng, phải cẩn thận đấy. Có thể bọn phỉ đã phục sẵn quanh nhà
cậu…
Quả nhiên, chẳng sai. Chóa Vàng đi hai chục cây số đường núi đá đêm
đen. Về đến nhà, chẳng nói chẳng rằng một câu, ôm xốc vợ vật ngay lên
giường… Đang giữa cuộc ái ân cuồng dại, bỗng chị vợ đẩy mạnh Chóa Vàng
ra:
– Có tiếng động sau nhà, nghe thấy không?
Chóa Vàng vùng dậy. Cây súng đặt ngay đầu giường. Quả có tiếng sột soạt
sau nhà thật.
– Cứ nằm im – anh khẽ bảo vợ. Rồi một mình ra đứng ở cửa, nghe ngóng.
Lại có tiếng sột soạt. Chóa Vàng nổ liền hai phát.
– Cầm đuốc ra đây!
Chị vợ xốc vội chiếc váy, đốt đuốc chạy ra: hai tên phỉ nằm vắt ngang
bờ rào sau nhà, cả hai đều trúng đạn đúng giữa trán…
Sáng hôm sau anh lại đã có mặt chỗ chúng tôi. Hỏi gì cũng chỉ trả lời
gọn lỏn:
– Hai thằng!
Một tuần sau chúng tôi mới biết rõ hết chuyện…
Ôi, Sùng Chóa Vàng, người chiến sĩ nghệ sĩ tuyệt diệu của tôi 30 năm
trước, bây giờ anh thế nào? Nghe nói khi Đồng Văn – Mèo Vạc đã dẹp xong
vụ phỉ, anh về làm bí thư xã Pả Vi liên tục mười năm. Rồi nghỉ hưu…
– Nhà Chóa Vàng kia kìa – Thào Mỹ chỉ.
Chúng tôi men theo bờ một nương đá, vòng vèo hơn vài trăm mét mới đến
một ngôi nhà tranh, một túp lều xơ xác. Đang đi, bỗng vấp phải một
người quấn tấm chăn rách tả tơi nằm ngủ ngay bờ rào. Cúi xuống, kéo
chăn, thấy ló ra một cái đầu trọc lóc: Sùng Chóa Vàng!…
Chúng tôi lại ngồi với nhau bên bếp lửa. Chẳng còn biết nói câu gì. Cả
anh Phó Chủ tịch huyện đi cùng với chúng tôi cũng lặng thinh. Căn nhà
người anh hùng của chúng tôi 30 năm trước hoàn toàn trống trơn, không
giường, không chiếu, không bàn ghế, chỉ có cái cối đá xay mèn mén và
cái nồi nhôm treo trên bếp lửa. Tường thưng bằng bẹ ngô. Mái tranh rách
bươm…
Chóa Vàng bốn mươi năm sau
(Ảnh chụp năm 2002. Khi tôi lên lại lần sau.)
Lúc từ giã, Chóa Vàng nắm tay tôi hỏi:
– Anh có lên lần nữa không?
Trên đường về tôi kéo Thào Mỹ đi lùi lại sau. Tôi hỏi:
– Chị Mỹ, trồng cây gì bây giờ ở đây? Trồng ngô thì chết đói. Chóa Vàng
đấy…
Thào Mỹ nhìn tôi:
– Chẳng lẽ trở lại cây thuốc phiện sao anh? Thì chính anh đã viết Mùa
hoa thuốc phiện cuối cùng. Chính anh phải trả lời đi chứ.
Quanh hai chúng tôi miên man những nương đá lởm chởm, tầng tầng lớp
lớp, sâu hút tận bờ sông Nho Quế thăm thẳm, cao ngất tận đỉnh Mã Pi
Lèng vòi vọi. Giữa các hốc đá là những bụm đất đỏ quạch nhỏ đúng bằng
bàn tay. Người H’mông có nghệ thuật xếp đá giỏi nhất thế gian. Để cúp
cum giữ từng bụm đất vàng ngọc ấy. Và cắm xuống đấy một cây ngô chết
đói.
Cây gì ?
Làm sao ?
Lì Mí Pó bảo tôi, lúc chia tay:
– Đấy là việc giải quyết ở tầm quốc gia, anh ạ. Anh đã cất công lên đến
đây, tôi xin gửi anh như một lời nhắn. Tôi nói điều này, anh đừng chê
trách nhé: chúng tôi đuối sức rồi. Hãy cứu chúng tôi!
Bạn ở Hà Nội, xin mở bản đồ ra mà xem: Đồng Văn – Mèo Vạc – Lũng Cú, ấy
là cái mỏm nhọn nhất trên cơ thể Tổ quốc đó.
Tôi vừa từ nơi ấy về. Mang theo lời nhắn của Lì Mí Pó.
Tháng 8 năm 1991
*
Ở trên tôi có nói từ vùng cao trở về tôi hôi hổi muốn ngồi ngay vào bàn và cầm bút, bao nhiêu ấn tượng còn sống động cựa quậy. Và quan trọng hơn nhiều: Cảm giác tôi có thể viết khác lần này, tôi đã có thể thật sự làm mới các từ của mình, rứt chúng ra khỏi cái ký ức tồn dư ngoan cố bám dính trong ấy cả một phần đời tôi…
Nhưng rồi không ngờ lại có chuyện rắc rối chẳng đâu vào đâu đang chờ,
đến có cơ sẽ làm nhạt nhòa tất cả … Tất nhiên phải kể, cả hai, cái thúc
giục và cái rắc rối.
Tôi có thói quen để bắt đầu cho viết thường lục tung tủ sách tìm thứ gì
đó thường khi rất bất ngờ làm đà. Lần này tôi tìm được, cứ như trên
trời rơi xuống, một cuốn sách không nhớ từ đâu tôi có được của ông linh
mục kiêm nhà dân tộc học F. M. Savina Lịch sử người Miêu
(Histoire des Miao) in năm 1930 ở Hồng Kông, khá ly kỳ.
Hãy nghe trước hết Savina định nghĩa người H’mông : “Chỉ cần hai từ để xác định người H’mông:
một người rách rưới lang thang trên núi, lưng đeo gùi và thổi khèn”.
Ông dẫn tục ngữ H’mông :
“Mê ngiee lỏa dề, mờ nồng giang pêr,
ndô, mê Hmông nhoà sau trông
Cá lội dưới nước, chim bay trên trời,
người H’mông ở trên núi cao”
Và đây là chân dung họ:
“… đàn ông trung bình, đàn bà nhỏ
thó hơn, ngực nở, vai rộng, bàn tay bàn chân nhỏ, đi dép quai mảnh, mũi
thường tẹt, đôi khi thẳng, gò má hơi lồi, trai gái đều má phúng, miệng
nhỏ, môi mỏng, mắt hơi xếch và cứ như muốn nhắm lại, tóc khi đen khi
màu hạt dẻ hay râu ngô, da sáng hay trắng và râu thưa khiến những con
người này thuộc một chủng tộc đặc biệt nằm giữa chủng da trắng và chủng
da vàng”
Tôi muốn bổ sung Savina: Phụ nữ H’mông ở nước ta là phụ nữ dân tộc
thiểu số duy nhất mặc váy xếp li.
Họ từ đâu đến vậy, để tôi trở thành thân thiết và sẽ góp phần thay đổi
cả ngòi bút của tôi như tôi sẽ muốn tâm sự, những con người nửa Âu nửa
Á, nửa trắng nửa vàng tôi đã gặp và cũng từng ít nhiều nhúng tay can dự
vào số phận của họ?
Theo Savina, nhìn trên một bản đồ dân tộc học có thể nhận ra rất nhiều
chủng tộc từ khởi nguyên đều tụ ở một vùng đất, ông chỉ rõ, phía Đông
là cao nguyên Pamir, Đông Nam là sông Indus, Tây Bắc là biển Oman, Tây
Nam là vịnh Persique, chính Tây là các lưu vực sông Tigre và Euphrate,
Đông Bắc là biển Caspienne, chính Bắc là hồ Aral.
Savina tin rằng người H’mông, vốn gốc Touranien, từng sống ở vùng thiết
lập Tháp Ngôn ngữ (Babel), sau bị người Aryen và người Sémite đánh
đuổi, thay vì chạy về vùng Trung Á như nhiều tộc người khác, xuất phát
từ vùng nằm giữa Pamir, biển Caspienne và vịnh Persique mà họ gọi là
“cao nguyên Tả Soa” rất thân thiết trong tâm khảm mỗi người H’mông cho
đến tận ngày nay, họ lại mải miết đi về phương Bắc, vượt qua cả vĩ
tuyến 60, lọt hẳn vào Vòng tròn Bắc cực – cho nên trong các truyện cổ
tích Thào Mỹ kể cho tôi nghe những đêm cùng thức trắng ở Mèo Vạc có cả
chuyện đêm dài sáu tháng ngày dài sáu tháng… Từ đây họ đổ xuống phương
Nam, làm chủ vùng Trung Nguyên, mạn Bắc Kinh ngày nay, trước khi bị
người Hán du mục từ Đông Bắc men theo sông Vị, sông Hoài và bờ Nam sông
Hoàng Hà tràn xuống đánh đuổi. Cuộc thất bại lịch sử này của họ bắt đầu
từ bao giờ? Theo Léon Weiger trong sách Trung Quốc qua các thời đại (La Chine à travers les
âges, 1920), chậm nhất là khoảng năm 2500 trước Công Nguyên.
Nghĩa là người H’mông đã đi suốt 5000 năm từ Nam lên Bắc, rồi lại đổ
xuống đi xuyên lục địa Trung Hoa để đến biên giới Việt Nam. Và toàn đi
trên các đỉnh cao bởi vì những vùng đồng bằng đã bị các dân tộc khác
chiếm hết rồi. Họ vào Việt Nam ở mũi nhọn Lũng Cú…
Savina viết: “… Họ đã nán lại quá
lâu trên núi cao, chẳng còn chỗ cho họ ở đồng bằng. Dân tộc lữ hành
này, chưa bao giờ có tổ quốc cố định, chẳng hề quan tâm đến biên giới
của các dân tộc khác, nhưng họ thành thạo tuyệt vời các con sông và các
ngọn núi của châu Á, và đã đặt tên cho hầu hết các sông núi đó bằng
ngôn ngữ của mình. Hẳn họ sẽ đoạt giải nhất về địa lý so với toàn bộ
người phương Đông! [Cho tôi nói thêm nhé: Cho nên xuống thấp thì
họ ngạt thở!]
Người H’mông chưa bao giờ có tổ quốc
cố định, tuy nhiên lại cũng chưa bao giờ biết chịu nô lệ. Độc lập một
cách dữ tợn là dấu hiệu khác biệt của người H’mông, suốt mọi thời đại…”
Nhân đây cho tôi kể một câu chuyện phiêu du kỳ lạ nữa xảy ra ở chính
Mèo Vạc cách đây chưa đến mươi năm và đã được đăng trên báo Thanh Niên. Một hôm có người đàn
ông tên là Vừ Già Pó đột ngột mất tích. Trên vùng biên cương xáo động
và bí ẩn này chuyện ấy cũng không hoàn toàn lạ. Thỉnh thoảng vẫn có
người bị bắt cóc bán sang Tàu, con gái thì làm vợ người ta hay bị ném
vào các ổ điếm, đàn ông thì làm nô lệ. Vừ Già Pó biến mất. Người ta đi
tìm… Rồi người ta quên… Cho đến một hôm bỗng có tin, trên báo chính
thống hẳn hoi, Vừ Già Pó bị bắt tại… Kashmir, vùng đất tranh chấp khốc
liệt giữa Ấn Độ và Pakistan. Hẳn Vừ Già Pó đã trốn thoát được cảnh nô
lệ bên Tàu, tờ báo đoán thế. Nhưng tại sao anh lại lưu lạc tít tắp tận
Kashmir? Tính ra từ cái thôn Lũng Lầu, xã Khâu Vai, huyện Mèo Vạc quê
hương, bị bắt sang Tàu rồi thoát, Pó đã đi bộ 5800 km xuyên Bắc Lào,
Bắc Thái Lan, Myanmar, vượt sườn Hymalaya, sang Bangladesh, Bhutan,
Nepal, rồi Bắc Ấn Độ, đến Kashmir. Chỉ có thể đi như trong cơn mê.
Cuộc phiêu lưu kỳ lạ của Vừ Già Pó
Khi bị bắt Vừ Già Pó đang còn đi, mải
miết về hướng Tây. Mải miết về hướng Tây thì đến vùng đất cổ nằm giữa
núi Pamir, biển Caspienne và vịnh Ba Tư, tức cao nguyên Tả Soa, thường
xuyên được nhắc đến trong các truyền thuyết H’mông Thào Mỹ thuộc lạ
lùng và kể cho tôi bao đêm cùng thức trắng: điểm xuất phát cuộc trường
chinh 5000 năm của H’mông lên Bắc Cực, rồi quay xuống phương Nam, toàn
đi trên các đỉnh cao và đặt tên cho chúng, cho đến cái thung lũng đá kỳ
dị này và đặt cho nó cái tên cuối cùng: Mèo Vạc. Chưa bao giờ được biết
ký ức lạ lùng đến thế của một dân tộc .
Lại cũng không thể không nói về cách người H’mông đến Mèo Vạc và trồng
cây thuốc phiện.
Sau khi vào Việt Nam tại đỉnh nhọn Lũng Cú, họ tạt qua Đồng Văn, rồi đi
tiếp về hướng tây, qua Xà Phình, Phó Cáo (nhưng không ra Yên Minh,
thung lũng lúa nước của người Tày) mà hướng về Phó Bảng, men theo chân
dãy Thập Vạn Đại Sơn, rồi đi tiếp sang Lào Kay, Sơn La, Lai Châu, Điện
Biên, để tiếp tục cuộc trường chinh trên Tam Giác Vàng Bắc Lào -Thái,
đến Myanmar…
Riêng một nhánh nhỏ đã có chọn lựa khác lạ. Từ Đồng Văn còn ít nhiều
núi đất, họ tách ra, rẽ xế về Nam, leo lên Mã Pi Lèng hiểm trở, hay bị
chính ngọn đèo kỳ quan này mê hoặc, đột ngột bỗng thấy mình đã đứng
trên một ngọn cao chót vót, ngọn cao nhất, trước mặt, một cảnh tượng
chưa từng thấy: tuyệt không có gì khác ngoài đá tai mèo trùng điêp.
Tổ tiên Thào Mỹ đi theo chính nhánh này. Nhánh mạo hiểm nhất.
Từ nay, với họ, là sống trên đá. Ngoảnh mặt hướng nào cũng là đỉnh cao
và đá. Nương ư? Là trăm nghìn hốc đá mỗi hốc chỉ bằng một vụm tay. Đất
ư? Phải tụt xuống tận bờ sông Nho Quế leo lẻo xanh nghìn mét dưới kia,
hì hục xúc từng gùi đất, lại hì hục ngược lên nghìn mét dốc đá, tằn
tiện đổ vào các hốc đá chỉ bằng vụm tay ấy. Và cắm xuống đấy một cây…
Cây gì?
Câu hỏi sống còn.
Hoa và quả thuốc phiện
Trải mấy trăm hay mấy nghìn năm chọn
lựa gian truân, họ tìm được loại cây duy nhất thích hợp với đất đá và
nắng mưa sương gió nơi này, lại cho con người sống khá dư dả: cây thuốc
phiện. Giống anh túc đẹp nhất, cũng dữ dội và hiểm nguy nhất trong toàn
họ anh túc. Anh túc-Mỹ nhân. Hệt người đẹp trên đời, lúc còn bé cây
thuốc phiện tầm thường và hiền lành chẳng phân biệt với cây cải cúc, có
thể nấu canh như canh cải ăn với mèn mén. Nhưng chỉ chừng hai tháng
tuổi nó bỗng dậy thì, không thèm ra hoa cải vàng mộc mạc, mà kỳ ảo như
ma, chỉ một đêm sáng ra một thân cây lẳng lơ nở đến mấy loại hoa đủ màu
khác nhau, đỏ, tím, hồng, lác đác xanh hay lốm đốm điểm hồng trên nền
trắng cao quý và quyến rũ. Đã bắt đầu thấy đôi ba quả, rồi hối hả mỗi
lúc một rộ lên những quả thoạt trông như quả vừng nhưng to và bọng,
những chiếc vú ứ sữa khiêu khích. Ba tháng thì thu hoạch được. Rất công
phu. Buổi chiều sẫm lên nương, dùng chiếc liềm nhỏ răng sắc và thật
mịn, cứa nhẹ vào hai mặt của quả (chiều hôm sau lại cứa nốt hai mặt còn
lại), sáng ra gạt lấy chỗ nhựa ứa từ vết thương do cứa hôm trước lên
một lưỡi dao, cả nương mới được nửa lưỡi dao. Một sào Bắc bộ (360m²)
cho ba lạng mủ. Mủ ấy phết lên một tấm giấy bản rồi đem hong khô thì
thành “thuốc sống”. Lấy thuốc sống bóc bỏ giấy, đem dầm vào nước sôi,
lọc sạch rồi đun cho đặc lại mới thành “thuốc chín”. Là dạng thuốc dùng
hút ở Đông Dương vào đầu thế kỷ 20, gọi là nha phiến. Mười cân nha
phiến tinh chế được một cân bạch phiến. Đắt hơn vàng…
Cây thuốc phiện, chọn lựa sống còn và bi kịch truyền đời của người
H’mông để tồn tại trên những rẻo cao đá tai mèo.
*
Trên bàn viết ở Hà Nội, một chiếc phong bì đang chờ khi tôi từ Mèo Vạc
trở về. Công an văn hóa A 25 triệu tập. Triệu tập nhé, chứ không phải
mời. Đến Trần Bình Trọng. Anh Phùng trưởng A 25 quen từ hồi tôi còn làm
báo Văn nghệ khá lịch sự.
Nhưng mấy cậu trẻ ngồi quanh thì xấc ra mặt. Họ tập trung hỏi về “cuộc họp ở nhà anh Trần Độ với Bùi Duy Tâm
và Dương Thu Hương”. Kế hoạch họp thế nào, bàn bạc những gì… Tất
nhiên tôi bảo chẳng có cuộc họp nào hết, với tôi và Phương Quỳnh hoàn
toàn là tình cờ, anh Độ theo tôi cũng bất ngờ, cũng chẳng có kế hoạch
bàn luận nào. Còn Hương với Bùi Duy Tâm thì các ông hỏi họ ấy. Hương bị
bắt rồi, Bùi Duy Tâm cũng trong tay các ông, khó gì… Thật ra lúc này
tôi biết chuyện bắt Dương Thu Hương đã gây rắc rối cho chính họ. Dù sao
cô ấy cũng là nhà văn có tiếng, bắt ắt phải có ý kiến cấp trên nào đấy.
Nghe bảo anh Quang Phòng Tổng Cục phó an ninh đã báo cáo Ban Bí thư
Trung ương do ông Nguyễn Thanh Bình đứng đầu (tôi đã đối mặt với ông
trong vụ Vua Lốp hồi làm báo Văn nghệ, nay lại có chuyện với
nhau khi ông về làm Trưởng ban Bí thư, duyên nợ hai chúng tôi hóa ra
cũng khá dài!). Được Quang Phòng báo cáo sau lưng Dương Thu Hương là
một tổ chức phản động quan trọng, Bùi Duy Tâm là đầu mối, nghe có vẻ
đúng quá, ông Bình đồng ý cho bắt. Hóa ra bắt xong, tìm mãi chẳng thấy
gì. Mà Hương thì rất đáo để, vào tù cô chửi Quang Phòng chẳng chừa chút
nào. Dư luận trong ngoài nước đã xôn xao, bà vợ Tổng thống Mitterrand
đã lên tiếng… Tôi sang họp Thường trực Hội Nhà văn, biết Quang Phòng đã
đánh tiếng với Hội rằng Dương Thu Hương rất phức tạp về mặt an ninh,
bắt là đúng, tuy nhiên nếu Hội Nhà văn có ý kiến “thì chúng tôi cũng có thể cân nhắc thêm”,
lại hẹn mời Hội sang họp để cùng xem xét. Thường trực bàn, biết thế là
họ sai rồi và đang lúng túng, nhất trí Hội không xin xỏ gì hết và cử
Hữu Mai sang họp khi họ mời. Đúng là họ rất bí, mà Dương Thu Hương bắt
thì dễ, thả lại không dễ chút nào, chắc gì cô đã chịu ra, cứ ở đấy chửi
cho sướng! Hôm Hữu Mai sang họp, Quang Phòng lại giở giọng “nếu Hội…”, Hữu Mai trả lời ngay: “Khi bắt các anh có hỏi gì chúng tôi đâu,
bây giờ làm gì tùy các anh, Hội không có ý kiến gì ạ!”. Cuối
cùng đành phải thả, cũng may Hương chịu ra, sau khi chửi dữ dội một
trận nữa. Nghe nói Quang Phòng mất chức vì vụ này…
Riêng tôi, họ còn nhì nhằng với tôi mãi về vụ gặp ở nhà anh Trần Độ.
Vừa rồi xem lại Trở lại Mèo Vạc
thấy còn ghi Tháng 8 năm 1991, tức tôi đã bị mất đứt ba tháng chẳng đâu
vào đâu. Cho đến hôm Tô Hoài a-lô khoe bốn tập hồi ký đang viết, dọa
tôi về chuyện Thào Mỹ rồi gửi cho tôi cả bốn tập viết tay của anh.
Thường vẫn vậy, đọc của người khác, nhất là trên bản viết tay, nghĩa là
thứ còn rất “sống”, lại đánh thức được mình khỏi cơn lừ đừ suýt nữa đã
khiến mọi chuyện thành nhạt nhòa nguội lạnh, có khi sẽ mất luôn mãi
mãi, như một người vì một chuyện chẳng ra sao đã để nhỡ chuyến tàu định
mệnh của mình. Cám ơn Tô Hoài thật nhiều, không cần đọc hết bốn tập của
anh tôi đã hối hả ngồi vào bàn, hối hả cầm bút. Và tôi nhìn thấy hiện
ra trên trang giấy là những từ run rẩy vẫn là của riêng tôi vừa đã hoàn
toàn mới, khác, của hôm nay. Vậy đó, tôi đã tìm được cách viết của
mình. Bài đăng hai kỳ trên báo Văn
nghệ.
Hai tuần sau tôi vào Sài Gòn, đến thăm Nguyễn Khải, bị Khải mắng một
trận: Mình đọc Mèo Vạc rồi,
Khải bảo, lạnh cả người, bút lực thế mà bao nhiêu năm cậu không viết là
rất có tội. Nhà văn kiểu gì lạ thế…
Khải rất thích những cái tôi dịch của Kundera, anh có tiểu thuyết
Thượng đế thì cười, là lấy từ một châm ngôn Do Thái “Con người suy nghĩ, còn Thượng đế thì cười”
được Kundera dẫn lại trong tiểu luận Nghệ thuật tiểu thuyết.
Tôi bảo Khải: Lâu nay tôi mải suy nghĩ, để ông Thượng đế (thì) cười
cho. Bây giờ tôi biết cười với ông ấy rồi.
Tình bạn của chúng tôi là vậy, lo lắng nhất là cho cái viết của nhau.
Khải hỏi tôi bao giờ thì trở lại với người H’mông. Tôi bảo không, tôi
đã tìm được “lối viết” của tôi rồi, tôi sẽ mang nó về cho mảnh đất
riêng của tôi chứ: Tây Nguyên.
Tháng 4 – 2021
Nguyên Ngọc
NGUỒN : Văn Việt, 24.4.2021
Các thao tác trên Tài liệu