Ngựa phi đường xa
Đặng Tiến
NGỰA PHI ĐƯỜNG XA
LTS. Nhà thơ Tô Thuỳ Yên vừa từ trần vào ngày 21/5/2019 tại Houston, Texas, Hoa Kỳ. Diễn Đàn đã giới thiệu ngay trong mục Thấy trên mạng hai bài viết của các văn hữu. Trong khi chờ đợi có bài viết mới hơn, xin mời bạn đọc tưởng nhớ ông và thơ ông qua bài viết tinh tế này của nhà phê bình Đặng Tiến.
Tô Thùy Yên đến với văn học trên “Cánh đồng Con ngựa Chuyến tàu”, bài thơ làm năm 1956, đăng trên báo Sáng Tạo thời đó và được độc giả hoan nghênh ngay, nhất là trong giới thanh niên, học sinh. Thời ấy sinh viên chưa nhiều, quần chúng văn chương còn thưa thớt, một thế hệ độc giả mới đang chớm thành hình. Với thời gian nhìn lại, bài thơ có thể xem là một sự kiện văn học vì lời thơ tân kỳ, ý thơ mới lạ, không giống một bài thơ nào khác trước kia mà đã được người đọc không chuyên môn văn học yêu thích ngay. Chuyện hiếm, vì công chúng Việt Nam nói chung là thủ cựu.
Chuyện đẹp, vì bài thơ của tác giả 18 tuổi đi thẳng đến độc giả 18 tuổi.
Ngày nay Tô Thùy Yên là tác giả danh tiếng. Bài thơ thanh xuân được những lớp phù sa bồi thêm nhiều ý nghĩa mới.
Trên
cánh đồng hoang thuần
một màu,
Trên cánh đồng hoang dài
đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu.
Tàu chạy mau, tàu chạy rất
mau.
Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt
tàu.
(…) Mặt trời mọc xong, mặt
trời lặn.
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục
đầu.
(…) Ngựa ngã lăn mình mướt
như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết
nâu.
(Tô Thùy Yên, Thơ Tuyển, tr 13)
Cánh đồng, con ngựa ở đây khác với những hình ảnh trong thơ cổ, tranh Đường, tranh Tống, ngược lại phần nào đó, gợi lên nền “văn hóa đồng hoang” của Nga La Tư thời cổ đại. Chuyến tàu – nôm na là xe lửa – là biểu tượng văn minh cơ khí và hiện đại. Cuộc va chạm lớn lao giữa hai nền văn minh đông phương thảo mộc và tây phương cơ giới đã được nhà văn Phạm Văn Ký, 1910- 1992, vẽ lại trong tiểu thuyết Mất nơi trú ẩn (Perdre la Demeure, Gallimard, 1961, giải thuởng Hàn Lâm Viện Pháp), mô tả cảnh xây dựng con đường sắt tại Nhật Bản vào thế kỷ XIX. Ngày nay, với tập THƠ TUYỂN (1, ghi tắt TT), của Tô Thùy Yên, con tàu còn mang nhiều ý nghĩa khác, như hình ảnh của lịch sử, dân tộc và loài người, tàn khốc và vô tâm:
Tàu
đi, khoan xoáy sâu đêm
thép,
Tiếng nghiến ghê người,
thác lửa sa.
Lịch sử dường như rất vội
vã,
Tàu không đỗ lại các ga qua.
(Tàu Đêm, 1980 , TT, tr 122)
Bài thơ làm trong thời gian học tập cải tạo miệt Nghệ Tĩnh; con tàu chở những người tù lưu xứ (tr 121), từ một sự vật cụ thể, mang thêm nội hàm tượng trưng rộng lớn trong thế giới Tô Thùy Yên:
Thời
đại đang đi từng mảng
lớn
Rào rào những cụm khói miên
man
( TT, tr 125)
"Trên đường lịch sử sắt tuôn mau” (tr 120) con tàu đối lập với ngựa; ngựa là hình ảnh loài người trong thân phận cá nhân, trong một thế hệ, một dân tộc hay thời đại trước tiến hóa. Sức người có hạn rượt theo bánh xe lịch sử, vô hạn và vô định, vì lý tưởng chính đáng, vì những say mê cuồng nhiệt và mù quáng, vì “duy ý chí”, vì hoang tưởng hay chỉ là nạn nhân trong một hoàn cảnh. Cho đến khi “ gục đầu, gục đầu’
Ngựa
ngã lăn mình mướt như
cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết
nâu.
Ngựa nâu là màu ngựa thường, có khi là ngựa thồ, không phải là bạch câu, ô truy hay xích thố. Ngựa của Kim Trọng trắng tựa “tuyết in”, chấm trên nền cỏ thanh minh như một đóa hoa lê; ngựa của chinh phu cũng"tuyết in" nổi bật dưới chiến bào “đỏ tựa ráng pha”. Ngựa của Vân Tiên đen tuyền, lấp lánh dưới kim khôi và siêu bạc rạng ngời giữa trận tiền. Ngựa của Tô Lang chỉ có “lớp áo” nâu sòng, màu của số phận dân quê, nói được là màu “dân tộc” cày sâu cuốc bẫm, hay cửa chùa vắng lặng. Khi thua cuộc, con ngựa -con người- chỉ để lại một “vết nâu”.
Nâu như một giọt máu khô.
Thơ, và nghệ thuật nói rộng ra, là những giọt máu đang khô, hay đã khô, trên nền mãi mãi non xanh của ngôn ngữ loài người.
Cuộc đời như thế đấy.
THƠ TUYỂN của Tô Thùy Yên bắt đầu bằng một câu trần trụi, trong bài nhan đề Thi Sĩ làm năm 1960, có thể xem như là tuyên ngôn. Thơ, thơ ai cũng vậy, bao giờ cũng vậy, là Lời, lẫn với Đời. Khác nhau ở tỷ lệ: đời ít lời nhiều, hay ngược lại. Ở Tô Thùy Yên đời và lời cân phân.
Câu thơ dù bay bổng, nợ đời, tình đời vẫn nặng chĩu.
Thơ nhẹ cánh, mà đời nặng gánh. Nói “đời” là mơ hồ, thậm chí hàm hồ. Đời nào, đời ai, đời những ai? Đời tênh hênh thì thơ cũng tô hô. Ngày xưa Xuân Diệu tự xem như con chim “ngứa cổ hát chơi”, lại thêm “hát vô ích thế mà chim vỡ cổ”. Tô Thùy Yên không làm thơ để mà chơi.
Tôi
giành giựt đổ máu với
tôi
Từng chữ một
(Thi sĩ, TT, tr 9)
Người xưa kể lại giai thoại “thôi xao”, nhẹ nhàng như việc "đẩy cửa dưới trăng, tăng xao nguyệt hạ môn", ( chuyện nhà thơ Giả Đảo đời Đường ) không “đổ máu” như Tô Thùy Yên. Lê Đạt nói về nỗi vất vả trong lao động chữ nghĩa có dùng hình ảnh "phu chữ”; Tô Hoài, trong bài viết đùa thân mật, diễn nôm là “cu ly chữ”. Tôi có dịp hỏi ý kiến Lê Đạt, anh trả lời: hiểu như thế không sai, nhưng cục bộ, “phu” còn có nghĩa là "đại phu", hay "đại trượng phu" theo Mạnh Tử. Đây là lời nói riêng, không phải là ý kiến.
Tô Lang không chơi chữ nước đôi kiểu ấy: "đổ máu" là đổ máu, chỉ có một nghĩa, dĩ nhiên là nghĩa bóng. Đọc thơ Tô Thùy Yên, cũng không nên đọc để mà chơi. Tác giả kén chọn người đọc và cách đọc, có lẽ vì thế mà 40 năm sau khi có thơ thường xuyên đăng báo, anh mới cho xuất bản một tập THƠ TUYỂN. Viết về anh có phần khó; không phải ở khâu bình giải khen chê, mà ở mức độ đồng cảm. Tôi viết bài này là do yêu cầu của độc giả, chủ yếu vì lí do tâm cảm và đồng cảm, xem từng chữ của Tô Thùy Yên như những giọt máu. Ví dụ con ngựa nâu là giọt máu mới đông. Cũng trong bài tuyên ngôn Thi sĩ:
Bài
thơ lọt vào người như
kẻ trộm
Âm thầm
Vơ vét sạch vô tư
( TT, tr 10)
Như vậy đơn vị thơ Tô Thùy Yên không phải ở câu thơ, như thường lệ, mà là bài thơ có khi khá dài, thường trên một trăm câu, và từng bài thơ một, phải đặt lại vào toàn thể tập thơ mới đúng vị trí và ý nghĩa của nó. Trích dẫn từng câu, từng đoạn, dù tiêu biểu, là việc cực chẳng đã. Đọc toàn tập, chúng ta nhận thấy thơ của Tô Thùy Yên không có tuổi, cho dù mang nhiều âm vang của lịch sử, trong một giai đoạn chiến tranh, đổi đời và tù đày khốc liệt.
Bây
giờ ta đã già như tuyết
Già vô âm vọng
Già thâm u
Bây giờ ta trẻ như hừng đông
Trẻ như tiếng reo
Trẻ bất tử.
Ta ca ngợi những điều vô
ích nhất,
Như tình yêu, cuộc đời, sợi
tóc cỏ.
(Chim Bay Biển Bắc, 1972, TT, tr 69)
Chàng thanh niên 18 tuổi, khi kể chuyện Con ngựa Chuyến tàu đã là một tâm hồn già; con người ngũ tuần vừa ra khỏi trại cải tạo sau nhiều năm lưu xứ với “mái đầu sương điểm”.
Ta
về một bóng trên đường
lớn,
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
(Câu mở đầu bài Ta về, 1985, TT, tr 126)
Bài tuyên ngôn “Thi sĩ” làm 1960 đã có những câu:
Những
tên cai ngục
Ngôn ngữ bất đồng.
Với thứ linh hồn quốc cấm,
Tôi tù tội chung thân
( TT, tr 9)
Trong một bài thơ đề tặng Thụy Vũ, ghi 7-1972 đăng báo Văn (Sài Gòn) số 208 ngày 15-8-1972:
Ôi
những rặng cao su thẳng
lối ngay hàng
Ôi những rặng cây mang án
tử hình treo
(Bất tận nỗi đời hung hãn đó, tr 58)
Lại còn bài này nữa cùng thời 1972:
Sống trên đời
chuyện ghê
gớm quá,
Vậy mà ta sống, có kỳ không
?
Nước mắt ta tuôn khi nghĩ
tới
Những người đã chết, chết
như rơm..
...
Hề,
ta trở lại
gian nhà cỏ
Sống tàn đời kẻ sĩ tàn mùa
Trên dốc thời gian hòn đá
tuột
Lăn dài kinh động cả hư vô
...
Hề,
ta trở lại gian nhà cỏ
Tử tội mừng ơn lịch sử tha
Ba vách, ngọn đèn xanh,
bóng lẻ
Ngày qua ngày, cho hết đời
ta ...
( Bài: Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, TT, tr 43- 45-46)
"Tử tội mừng ơn lịch sử tha"! Bài thơ ghi thời điểm sáng tác: tháng 7-1972. Tôi ngờ ngợ tác giả nhớ nhầm, thơ in nhầm ngày tháng chăng? Tôi (vớ vẩn) đi kiểm soát lại thì thấy đúng, bài thơ đăng trên báo Văn, Sài Gòn số 208 đã dẫn, thời đó, có ghi rõ: làm ngày 11-7-1972.
Cùng với bài Tưởng tượng ta về nơi bản trạch, lời thơ bi tráng tuyệt diễm:
Ta
bằng lòng phận que diêm
tắt,
Chỉ giận sao mồi lửa cháy
suông.
Thôi nói, bởi còn chi để
nói,
Núi xa, chim giục giã hoàng
hôn.
Tưởng
tượng ta về nơi bản
trạch,
Áo phơi xanh phới nhánh đào
hồng.
Mùa xuân bay múa trên trời
biếc,
Ta búng văng tàn thuốc
xuống sông
(Báo Văn, tr 61, Thơ Tuyển tr 51)
Que diêm tắt mà vẫn phơi phới đào hồng, trên cõi đời này, chỉ có Tô Thùy Yên! Niềm hạo nhiên đó, Tô Quân còn gọi là: “cái có nơi ta” trong bài Chim Bay Biển Bắc đã dẫn, làm ngày 4.8.1972.
Đừng
loạn tâm, đừng loạn tâm
Cuối chặng hành trình quay
đảo nhất
Cả thảy sẽ an nhiên
Trong trật tự hằng hằng của
vũ trụ
A! Loài người thăng tiến
được bao xa?
Trời đất phồng lên cơn giận
dữ
Thổi trận mưa rơm, Cõi Tạm
mù
(Văn số 208, tr 91, Thơ Tuyển tr 70)
Trước đó, bài Đãng Tử,1971 có ghi tiền đề: (epigraphe)
Ngày
kia trở lại Ngôi Nhà
Lớn
Lòng những bằng lòng một
kiếp chơi.
( Báo Văn, số 190, TT, tr 23)
Mười năm lưu đày, thêm những lần bị bắt đi bắt lại, âu cũng chỉ là một kiếp chơi! Nắm bắt được điều đó, mới hiểu thấu bài Ta về (1985) nổi tiếng về sau, được nhiều người trích dẫn, không phải lúc nào cũng với hảo ý văn nghệ.
Gần đây và hiện nay, về mặt văn hóa, trong nước đang thảo luận dài dòng về đề tài: truyền thống và hiện đại; dân tộc và thế giới; cái riêng trong cõi chung… Ý hướng tốt: muốn liên minh cái nọ với cái kia, điều hòa cuộc sống dân tộc trong một thế giới đang bước đi những bước khổng lồ.
Thực tế văn hóa, nghệ thuật không rắc rối như vậy. Người nghệ sĩ làm thơ, vẽ tranh một cách hồn nhiên muốn sao làm vậy, rồi tác phẩm của họ nó ra sao còn tùy; dân tộc hay hiện đại là do người xem người đọc. Nếu rung cảm chân thành và sâu sắc thì phải mang đủ hai yếu tố, với phần liều lượng khác nhau.
Nói rằng điều hòa truyền thống với hịện đại, ngày nay trở thành một khẩu hiệu, một cách chào hàng trong thị trường văn hóa. Trong thâm tâm người sản xuất đã có hậu ý đối lập: làm sao cho có bản sắc dân tộc mà vẫn hiện đại; làm sao theo kịp các trào lưu của thế giới mà vẫn giữ truyền thống. Hai chữ “mà vẫn” có tính cách lãnh đạo và tham lam. Mà lãnh đạo và tham lam là phi văn hóa. Người nghệ sĩ chân chính, dù cho bề ngoài phải chịu ức thúc, nhưng trong đáy tâm hồn, trong cõi thâm sâu của sáng tạo, họ là những cá nhân tự do sống và sáng tác với "cái có trong ta" như chữ nghĩa Tô Thùy Yên.
Con người nô lệ, vụ lợi và xu thời, giỏi lắm là nghệ nhân hay văn công. Trong thực tế sáng tạo, dân tộc và hiện đại là một đơn vị bất khả phân. Nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân, trong một tác phẩm mới in, đã nói chí lí và dũng cảm: “cái khẩu hiệu Dân tộc Hiện đại của văn nghệ chúng ta trong nhiều năm nay là một mệnh đề thiếu chính xác và hoàn chỉnh ngay ở mặt tu từ (…) khẩu hiệu này thiếu cái hàm ý nhân loại trong truyền thống” (tr 58). Trong một bài khác, anh nói thêm “ Cũng vậy đối với nghệ thuật bản sắc dân tộc và tính toàn cầu phải được hiểu là một”.(tr 73).
Cần nêu lên tiền đề này trước khi đề cập đến đề tài cục bộ: Tô Thùy Yên, dân tộc và hiện đại, đặt một trường hợp riêng lẻ trong cuộc thảo luận chung của đất nước - dù rằng cuộc thảo luận khập khiểng. Nói khác đi, vấn đề không đặt ra với tôi; với tôi chỉ có thân xác những bài thơ ngoài thời gian và vô quốc tịch; nó là thơ Tô Thùy Yên thế thôi, không dân tộc hiện đại gì ráo. Nhưng với người đọc – người đọc báo chẳng hạn, người viết có nhiệm vụ (và hạnh phúc) phải cập nhật hóa bài viết, trong bối cảnh lý luận rộng lớn hơn, hiện hành trên đất nước.
Tô Thùy Yên đến với văn học Việt Nam ở một giai đọan mới, mở ra tại miền Nam khoảng 1955-1956. Anh là thanh niên trí thức, đọc nhiều sách báo nước ngoài, trên một mảnh đất mở vào “Thế giới tự do” thì dĩ nhiên tâm hồn và trước tác cũng phải hiện đại: câu thơ, nhịp thơ, hình ảnh, ý tứ trong thơ Tô Thùy Yên minh chứng điều đó, chúng ta không cần đồ họa lôi thôi. Cái chính là làm nổi bật tính dân tộc trong thơ Tô Thùy Yên, đã đưa thơ anh đến với một nhân loại muôn đời,vượt qua hàng rào “hiện đại”.
Trong số những nhà thơ đương thời, có lẽ Tô Thùy Yên là người sử dụng nhiều ca dao nhất. Lưu Trọng Lư, một trong những người phát động thơ mới, thuộc nhiều ca dao, hay nhắc đến những màu sắc dân tộc, nhưng ít khi đưa ca dao vào thơ. Thanh Tâm Tuyền sành ca dao, nhưng không sử dụng, thậm chí có thể nói thơ Thanh Tâm Tuyền là một thi loại phản-ca-dao. Tô Thùy Yên, ngược lại ưa dùng lời ăn tiếng nói dân gian; nếu không thuộc tục ngữ, ca dao, người đọc có khi không hiểu anh nói gì. Ví dụ bài thơ mới làm cuối 1993, để Giã Biệt, “từ bỏ căn nhà, từ bỏ quê hương” lên phi cơ biệt xứ:
Anh
ra đi
Bứt ruột mà đi (a)
Như đã một lần cũng bứt ruột
Đi những mười năm tưởng
chẳng còn về
Máu chảy không cầm như nước
theo sông
Thành phố của anh
Nhục nhằn duyên cưỡng ép (b)
Cay đắng phận rau răm (c)
Tim lay lắt chập chờn nỗi
đợi
Mòn mỏi nén nhang khuya (d)
Buổi trở lại, trèo lên cây
bưởi cũ (e)
Trông thấy nhau, thương chỉ
để mà thương (f)
Đôi bông đó thôi thì em hãy
giữ (g)
Tưởng tình xưa
Xin bỏ lỗi cho anh
Anh ra đi
Một lần nữa ra đi
Một lần nữa bứt ruột
Thương người ở lại
Thương như mưa (h)
( TT, tr 203)
………………………..
a. Đưa tay mà bứt ngọn ngò
Thương
em đứt ruột, giả đò ngó lơ
b. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên
c. Cay đắng phận nghèo (mùi đời)
(thành ngữ).
Gió đưa
cây cải về trời
Rau răm
ở lại chịu lời đắng cay.
d. Anh buồn còn chỗ thở than
Em buồn
như ngọn nhang tàn thắp khuya
e. Trèo lên cây bưởi hái hoa
f. Cây cao bóng ngã qua rào
Trông cho thấy
mặt không chào cũng thương.
g. Một mai thiếp có xa chàng
Đôi
bông thiếp trả, đôi vàng thiếp xin.
h. Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Dĩ nhiên là còn nhiều câu khác mà tôi không biết, như “máu chảy không cầm” tôi nhớ mang máng đâu đó, không tường tận. Muốn tìm ra nhiều điển cố dân gian trong một bài thơ như vậy, phải lần lên đến Quốc âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, thế kỷ thứ XV.
Có những giao hưởng tài hoa và thi vị,
trong lời hẹn một ngày về Vườn hạ
Ăn
trái chín cây mùa hạ
trước
Thấy nhành ớt động bóng
chim quen
( TT , tr 91)
Muốn đi vào tâm tư tác giả, ta cần biết:
- Chim chuyền bụi ớt líu lo
Tình thương quân tử ốm o
gầy mòn
- Chim quyên ăn trái nhãn
lồng
Thia thia quen chậu, vợ
chồng quen hơi
Trong bài Ta về, 1985:
Đêm
buồn, ai nữa đứng bờ ao
Khóc người, ta khóc ta rơi
rụng
( TT, tr 135)
Câu trên gợi lên cảnh “ đêm khuya ra đứng bờ ao” mà ai cũng nhận ra, nhưng không gian bờ ao kết hợp với “rụng” nhắc lại một câu ca dao khác và gợi ra tâm trạng hờn tủi của người về
Thiếu chi cam rim hường
rim anh không chuộng
Anh đi tìm trái khế rụng bờ
ao.
Một bài khác còn nhắc tới cây khế dung
dị nhưng tuyệt đẹp:
Ta nhớ lắm
Khu vườn xưa, cây khế tím
mùa hoa
Có khi Tô Thùy Yên sử dụng nguyên si một câu ca dao:
Thôi,
em tiếc thêm chi cái
sợi dây dài
Để đến nỗi ngồi hoài bên
giếng cạn ?
( TT, tr 150)
Nguyên câu văn ca dao, hóm mà sâu :
Tưởng giếng sâu em(anh) nối
sợi dây dài,
Ai ngờ giếng cạn em(anh)
tiếc hoài sợi dây.
Bài Mùa Hạ làm trong trại học tập Nghệ Tĩnh, trực tiếp nhắc nhở nội dung dân gian của một hình ảnh.
Ngày
nghỉ về vườn thăm họ
ngoại
Lòng như con sáo trong ca
dao
( TT, tr 108)
Con sáo là hình tượng tự do: "con sáo sổ lồng sáo bay”. Vương vấn đâu đó ít nhiều cay đắng, khi nhớ đến câu trước: "Ai đem con sáo sang sông," so với tình huống của người dân miền Nam đi học tập cải tạo “ bên kia sông”. Cùng trong trang đó:
Em
mặc bà ba ra bến nước,
Đưa tay khỏa nhẹ nhớ thương
nào,
Đến nay lòng ấy còn xao gợn…
Mùa trái cây nào hái tặng
nhau .
(TT, tr 108)
Ngoài “mùa trái cây” gợi nhớ đời sống Miệt Vườn, chữ “bà ba” là đặc tính của Nam Bộ , nhưng không xuất hiện nhiều trong thơ. Thường thường ta chỉ thấy “áo lụa Hà Đông” hay là:
Yêu nhau gói trọn hồn trong
áo
Nhớ nhau từ trong tà lụa bay
(Đinh Hùng)
Võ Phiến thời đó (1972) đã nhiều lần luận về cái áo dài tha thướt; sau này, ra nước ngoài, anh mới nhớ đến cái áo bà ba. Tô Thùy Yên trong những câu thơ uyên bác, không ngại dùng những từ dân dã, Nam Bộ như cười bung (tr 59), lá bung phơi (tr 111), bung nở (tr 212), tiếng hò mời dzô dzô (tr 47), quên ngang (tr 119). Những lời lẻ dân gian được sử dụng uyên bác:
Tôi
gầy yên lặng với âm
thanh (TT, tr 10)
Ngọn cây, ô, đã giát hoàng
hôn ( TT,tr 43)
Ngoài ra còn có một số hình ảnh lấy từ ở đời sống hàng ngày, ở tuổi thơ nông thôn, từ tàu chuối lưa thưa đến hoa khế tím, con còng, con dế, đến chim bói cá, cá thia lia, những trò chơi trẻ con như cút bắt, "xu thảy hết... đồng cái thua buồn cũng liệng sông" (tr 95) ; với những kỷ niệm sắc bén:
Ai
ngắt dùm anh cây cỏ sướt
Làm đôi gà đá, đá ăn cười
(TT, tr 92)
Gà đá, ở đây là những chùm cỏ cú, làm trò chơi của trẻ nghèo ở nông thôn.
Kỷ niệm thơ ngây, lần xen vào những câu thơ hào hoa
Con
chim lạc bạn kêu trời
rộng,
Hồn chết trôi miền dạ lý
hương.
(TT, tr 94)
Trong từ vựng, đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Việt là giá trị những hư từ, như liên từ, giới từ, những công cụ cú pháp không có nội dung riêng, trái với thơ chữ Hán nặng về thực tế và né tránh hư từ. Thơ Tô Thùy Yên cô đúc và có phong thái cổ thi nên cũng ưu đãi thực từ, nhưng hư từ trong thơ anh lại rất đắc vị:
Ta
về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất
trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Ta Về, TT, tr128)
Đọan thơ này thường được trích dẫn vì nội dung lịch sử và nhân đạo, triết học. "Hoa đã vì ta nở" nhắc đến câu thơ vua Trần Thánh Tông,1240-1290, trong bài Vườn xuân nhớ người cũ:
Vạn tử thiên hồng không lạn
mạn,
Xuân hoa như hứa, vị thùy
khai ?.
ĐT tạm dịch :
Muôn hồng ngàn
tía suông đua sắc,
Hoa nở, vì
ai vẫn nở nhiều ?
Nhưng đừng quên giá trị của nó về mặt thi pháp, cách sử dụng các hư từ “vì”, “từ”, và cách ngắt nhịp huê dạng “ từ mỗi” trong câu thơ.
Nói chuyện thơ, chúng tôi nghĩ nên ưu tiên cho các vấn đề về thi pháp, từ pháp, âm pháp, nói chung là ngôn ngữ. Dĩ nhiên nội dung của tác phẩm là quan trọng. Trong thời Tô Thùy Yên, lịch sử dân tộc để lại nhiều hình ảnh sâu đậm, quá khuôn khổ của một bài báo.
Vậy xin khất độc giả đến một dịp khác.
Paris, 22.10.1998
Điều chỉnh,
6-12-2009
Đặng Tiến
--------------
(1) Tô Thùy Yên, THƠ TUYỂN. Tác giả xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ 1995. Thơ trích từ đấy.
(2) Thái Bá Vân, TIẾP XÚC VỚI HỘI HỌA, nxb VIỆN MỸ THUẬT, Hà nội, 1998, chỉ in 400 cuốn, ai đọc ai không? Đến hôm nay, 2009, chưa thấy tái bản.
Các thao tác trên Tài liệu