Người Diễn Đàn
Số đặc biệt 30 năm Diễn Đàn
NGƯỜI DIỄN ĐÀN
Nguyễn Duy
1.
Mùa hè 1981, tôi đang làm việc tại nhiệm sở, Văn phòng thường trực miền Nam của tuần báo Văn Nghệ – 43 Đồng Khởi, Sài Gòn – thì có người lạ đến tìm. Một đàn ông cao ráo trạc tứ tuần, mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao, với nụ cười tươi cởi mở. Khách tự giới thiệu tên Giao, Nguyễn Ngọc Giao, biên tập viên báo Đoàn Kết của Hội Người Việt Nam tại Pháp... Ối giời, Việt kiều à, quí hoá quá !
Hồi đó, đầu thập niên 1980, Việt kiều được về
nước họp hành hay tư vấn gì đó toàn những vị trong
các Hội “Người Việt Yêu Nước”, từ Pháp, từ Đức,
từ Canada... chứ chưa thấy từ Mỹ đâu nhé. Phần lớn
trong số họ là những người trí thức, du học nước
ngoài từ trước 1975, nói chung là với tư cách rất
"oai", được quốc nội nể trọng. Dân gian có ca dao ghi nhận :
Việt Minh – Việt Cộng – Việt Kiều
Trong ba Việt ấy Đảng yêu Việt nào
Việt Minh thì tuổi đã cao
Việt Cộng ốm yếu xanh xao gầy mòn
Việt Kiều như gái còn son
Đảng yêu Đảng quí như con trong nhà.
Lần gặp đầu tiên ấy, anh Giao tặng tôi mấy tờ báo Đoàn Kết có đăng thơ của tôi, những bài thơ về quê hương thanh bình lấy từ sách báo trong nước. Dần dà thân thiết nhau, tôi mới biết anh Giao đã từng hoạt động sôi nổi theo tinh thần "ăn cơm nhà vác ngà voi" trong phong trào "chống Mỹ cứu nước" của cộng đồng người Việt tại Pháp, đặc biệt trong công việc thông ngôn, dịch thuật giúp phái đoàn Việt Nam tại Hội đàm Paris 1968-1973.
Cùng anh Giao đến chơi chỗ tôi thường có anh Hạc, Trần
Hải Hạc, một người lặng lẽ và hiền như Phật, sau
đó ít lâu anh làm tổng biên tập tờ Đoàn Kết. Suốt
những buổi gặp gỡ vui vẻ với bạn bè văn nghệ chúng
tôi, anh Hạc rất ít nói, hầu như chỉ ngồi nghe và góp
cười. Cho đến hết thập niên 1980 các anh vẫn thỉnh
thoảng đăng thơ tôi trên Đoàn Kết và gửi báo biếu
cho tôi đều đều qua đường bưu chính. Tuyệt nhiên
không có nhuận bút. Ấy là “đúng qui trình” của tờ
báo, ngay cả ban biên tập cũng không lương, không nhuận
bút; các anh sống bằng lương nhà giáo, làm báo như một
nhu cầu thiện nguyện. Ấy lại là điều rất khác với
trong nước, bài đăng báo là phải có nhuận bút, dù rất
thấp, chỉ dăm ba đồng lẻ.
Chạnh nhớ một kỉ niệm lịch sử với anh Giao. Trong
chuyến về nước hè 1981 kể trên, anh mang đến tặng tôi
mấy cặp rượu vang đỏ Bordeaux vừa mua được (chắc
chắn bằng tiền riêng) tại cửa hàng anh-téc-sốp gì đó.
Gọi là chút quà thay cho nhuận bút những bài thơ đã
đăng trên Đoàn Kết, xin tác giả vui lòng nhận cho. Tất
nhiên tôi rất vui. Nhưng rồi lại rất bùi ngùi. Đang
thời hậu chiến gian khổ, lại vừa trải thêm hai cuộc
binh lửa tàn khốc trên toàn tuyến biên giới với
Cămpuchia và với Trung Quốc, cả nước đói. Cả thành
phố đói. Cả nhà tôi đói. Thương mấy đứa con tôi
nheo nhóc, trẹo quai hàm nhai bo bo thay cơm, nghĩ đến miếng
thịt mà chảy dãi. Giá có được mấy đồng nhuận bút,
có được bao gạo trắng, cân thịt ngon cho các con thì
vẫn hả dạ hơn là cởi trần ngồi bệt chiêu rượu Tây
với cà mắm. Bạn bè tụi tôi hồi đó phần đông là
bạn lính, còn ngu ngơ lạc hậu về ẩm thực lắm lắm,
thỉnh thoảng cũng tụ tập nhậu nhẹt nhưng chỉ mồi
nhà quê đạm bạc, rượu nhà quê rẻ tiền, toàn những
đế Gò Đen, rum Hiệp Hoà,
vốt-ca-thuốc-rầy, cô-nhắc-mía,
uýt-ki-cồn-công-nghiệp / nhấm nháp vị đời muối ớt
với ổi xanh / uống rượu suông là tự nhắm thịt mình
(thơ ND)... Hầu như chưa ai biết rượu Tây.
Đúng dịp bố tôi đi tàu hoả từ ngoài quê vào thăm con
cháu. Cụ vốn sâu rượu, uống hàng ngày, nhưng không
uống nhiều và chỉ quen uống rượu gạo nhà nấu, loại
rượu tăm hạng nặng, ngọt hậu, mùi men thuốc bắc thơm
lừng. Cụ vào đến Sài Gòn thì chai “cuốc lủi” nút
lá chuối mang theo cũng hết. Sẵn có vang Tây dưới gầm
giường, tôi khui một chai để hai bố con nhắm với đậu
phụ luộc chấm mắm tôm Thanh Hoá vừa đưa vào. Tôi rót
rượu vang ra cốc nhựa, nhà tôi hồi đó toàn cốc nhựa,
hai tay trịnh trọng nâng mời bố nếm trước. Cụ hớp
nhẹ một ngụm nhỏ, ngậm im chốc lát như nghe ngóng, súc
miệng òng ọc rồi nhổ cái toẹt và phán, chua như cứt
mèo !
2.
Bẵng một dạo cả chục năm không thấy anh Giao về nước, nghe phong thanh anh bị “cấm cửa” từ sau vụ tâm thư tâm thiếc gì đó, các hội Việt kiều góp ý góp iếc với lãnh đạo trong nước về những vấn đề gì gì đó. Tôi chỉ nghe đồn thôi, không hay hư thực thế nào. Bỗng thấy tờ Đoàn Kết biến mất, tờ Diễn Đàn xuất hiện. Thì ra, nhóm biên tập chủ chốt của Đoàn Kết trả tờ báo lại cho Hội Người Việt Nam Tại Pháp và lập riêng một tờ mới. Lại có tin “rỉ tai”, rằng từ "bên an ninh", Diễn Đàn và Nguyễn Ngọc Giao là "phản động", là thuộc "thế lực thù địch", hình như còn bị nêu đích danh trên truyền hình nhà nước và bêu ảnh ở Bảo Tàng Chứng Tích Chiến Tranh (tp.HCM). Tôi thấy điều ấy bình thường rồi, ở trong nước, ai nói tiếng nói phản biện mạnh mẽ cũng bị qui, hoặc bị vu "phản động".
Mùa hè 1996, tôi được mời đi cùng đoàn Múa Đương Đại
của nghệ sỹ Ea Sola sang châu Âu lưu diễn kịch múa Hạn
Hán và Cơn Mưa, do tôi viết lời thơ cho các khúc hát
lồng điệu Chèo trong tác phẩm đó. Điều đặc biệt,
đoàn có mười bốn diễn viên đều là lão nông chân
chất của đất chèo Thái Bình, lần đầu tiên ra khỏi
luỹ tre làng là bước thẳng lên sân khấu nghệ thuật
quốc tế. Mấy anh trong Ban biên tập Diễn Đàn mang hoa ra
tận sân bay Charles de Gaulle đón chúng tôi, thật vui và
cảm động. Diễn Đàn rất nhiệt tình cổ vũ và quảng
bá cho Hạn Hán và Cơn Mưa, cũng là cho văn hoá Việt.
Riêng tôi, được dịp khám phá "sào huyệt"của
Diễn Đàn. Hoá ra tờ báo không có nhiệm sở, ban biên
tập xoay vòng làm việc tại nhà các thành viên. Tôi lần
lượt đuợc uống rượu với nhiều thành viên "gia
đình" Diễn Đàn, những Hà Dương Tường, Hà Dương
Tuấn, Vũ Văn Luân...và, tửu đồ cự phách Phan Huy Đường,
người uống không biết mệt và rủ rỉ nói chuyện không
biết mệt. Nhớ đời, buổi tối Nguyễn Đôn Phước chở
tôi đến chơi nhà anh Đường, đã thấy anh bày sẵn bàn
rượu. Có nhà văn Trần Vũ tham dự. Khoảng nửa đêm,
Trần Vũ cáo lui. Còn ba người, kéo một mạch đến sáng
bạch, vừa uống vừa trò chuyện mà chẳng nhớ là chuyện
gì với chuyện gì.
Các cuộc tiếp khách phương xa của Diễn Đàn cũng xoay
vòng, nhưng thường xuyên hơn là tại nhà anh chị Giao -
Thiện. Tôi mang sang đây cả rượu nếp Làng Vân hảo
hạng lẫn mắm tôm, cà cuống và cơm mẻ. Anh Giao đưa
tôi đi chợ, chọn được loại cá côông
gì đó
của Địa Trung Hải (*) có thể làm món chả cá kiểu Hà
Nội. Tiệc chả cá thành công và, tôi đã chuyển cho anh
Giao công thức chế biến để sau đó anh làm, cũng thành
công tại Paris, món chả cá Hà Nội kiểu Diễn Đàn.
Những ngày tiếp xúc với "gia đình" Diễn Đàn,
tôi thấy họ sống thật vui vẻ, nhẹ nhõm và an nhiên.
Mùa hè 1997. Tôi lại được mời đi cùng đoàn Múa của
Ea Sola dự liên hoan nghệ thuật Hamburg (CHLB Đức). Tạt
sang Pháp chơi một tuần lễ, tôi tá túc tại nhà anh
Giao. Nhà anh luôn dành sẵn một phòng nhỏ để bạn bè
xa ghé qua ở nhờ. Không ít danh sỹ Việt từ trong nước
sang, từ các nước khác tới đã lần lượt ngả lưng
trên chiếc giường đơn bình dị trong căn phòng nhỏ
nhưng lại rất rộng lớn này. Anh Giao cùng gia đình Diễn
Đàn đã góp tay giúp nhiều việc cho nhiều ngành văn hoá
Việt Nam, từ văn chương, dịch thuật, hội hoạ đến
sân khấu, điện ảnh... Vậy mà, đến giữa năm 1997 Đại
sứ quán Việt Nam tại Pháp vừa tái cấp thị thực cho
anh Giao được về nước thì ngay lập tức lại huỷ thị
thực. Về Hà Nội, trong một cuộc gặp thủ tướng Võ
Văn Kiệt, tôi kể việc này với ông. Ông bảo:" Cậu
nhắn anh Giao cứ tiếp tục xin thị thực, tôi sẽ góp
tiếng nói. Nếu anh ấy về, tôi sẽ tiếp". Mấy năm
sau, anh Giao về Hà Nội. Ông Kiệt đã hết nhiệm kỳ thủ
tướng. Vẫn nhớ lời hẹn cũ, ông thân hành đến thăm
vợ chồng anh Giao tại khách sạn 32 Bà Triệu.
3.
Mùa hè 1995. tôi và ba nhà văn cựu chiến binh Việt Nam
nữa được William Joiner Center (Hoa Kì) mời sang Boston dự
trại viết cùng với các nhà thơ, nhà văn cựu chiến
binh Mỹ từng tham gia chiến tranh Việt Nam. Xong công việc
bên miền Đông, tôi tách đoàn bay sang California, thăm
viếng một số anh em văn nghệ mà tôi quen biết từ Sài
Gòn sau 1975, và tham dự buổi đọc thơ kỉ niệm ngày Mỹ
ném bom Hiroshima (6/8) do Lannan Foundation tổ chức tại Los
Angeles.
Hoàn toàn ngẫu nhiên, người sẽ ra sân bay LAX đón tôi
vừa là cộng tác viên vừa là bạn thân thiết của Diễn
Đàn, kỹ sư điện toán Nguyễn Hoàng, em rể giáo sư Cao
Huy Thuần. Tôi hình dung anh Hoàng cao lớn phương phi, kính
trắng, com lê, oách. Ra khỏi quầy lấy hành lí, tôi dớn
dác tìm người theo trí tưởng tượng. Không thấy. Chỉ
thấy một ông đầu đen, gầy đen, ăn mặc xuề xoà cũng
đang nhớn nhác như tìm ai. Chắc là ông HO Việt Nam, tôi
tiến đến hỏi thăm. Hoá ra ông chính là Nguyễn Hoàng.
Lại ngẫu nhiên gặp gia đình Diễn Đàn. Vợ chồng anh
Giao sang thăm mẹ. Vợ chồng anh Tường sang thăm người
anh, Hà Dương Dực. Vợ chồng nhà báo Thế Thanh
- Trương Trọng Nghĩa, cũng là bạn thân thiết của Diễn
Đàn, từ trong nước sang chơi. Anh em, họ hàng Diễn Đàn
quây quần trên sân nhà anh Dực, mở tiệc mừng gặp
nhau, nghe Nguyễn Duy đọc thơ và hát xẩm. Lần đầu
tiên, người của ba quốc tịch khác nhau cùng nghe xẩm
dân gian Việt Nam trên đất Mỹ.
Một cộng tác viên của Diễn Đàn mà tôi không thể
không nhắc nhớ. Đó là nhà văn Vũ Huy Quang, cựu đại
uý QLVNCH, (tác giả Chín truyện
ngắn, Mười truyện tân
liêu trai, và các bản dịch Đường
lên trời, Nhục Bồ
Đoàn...) Anh đã thông dịch giúp tôi trong cuộc đọc thơ
tại Vườn Thơ Los Angeles và viết bài "THI CA và
CHIẾN TRANH" đăng Diễn Đàn (số 44-9.95), trong đó có
đoạn:
"Hôm kỉ niệm dội bom Hiroshima
6.8.95, tôi đang ở sở
làm thì thì có điện thoại ở nhà gọi ngược vào sở,
bảo tôi liên lạc gấp lên Los Angeles. Hóa ra thi sĩ bộ
đội cầu cứu, rằng “có mình tôi mà chung quanh toàn là
Mỹ…ông lên thông dịch hộ”. Ba chân
bốn cẳng tôi
chạy lên cho Nguyễn Duy thoát cảnh lúng túng. Hóa ra chàng
được khẩn cấp mời tới đọc thơ tại tại Vườn Thơ
ở cao ốc Lannan Foundation (1501 McConnell, Los Angeles).
Buổi đọc thơ có Naomi Shihab Nye và
Bruce Weigl, mỗi người
đọc hàng 10 -15 bài. Nguyễn Duy đọc chót, đọc hai bài
Đá ơi và Bắn! Hai bài này đã được dịch rồi (Bruce
đọc bản dịch), tôi chỉ có nhiệm vụ giới thiệu lại
qua lời của Nguyễn Duy. Sau khi tôi thêm ít lời, rằng
chúng tôi không những đã bất ngờ không sửa soạn gì,
chúng tôi lại mới quen nhau chưa được một tuần, là đã
từng kẻ Nam người Bắc trong hai quân đội khác nhau…thì
người ta vỗ tay và chụp hình quá xá (dĩ nhiên tôi cũng
được chụp… lây).
Hai bài thơ như sau (...)
Mọi người nghe lời dịch của Bruce
Weigl, nghe lời đọc
dõng dạc của Nguyễn Duy để kết thúc buổi đọc thơ
(Readings in the Poetry Garden) và anh chàng Duy này “steals the
show”, nghĩa là trở thành cái đinh khỏa lấp hai thi sĩ
trước đó. Người ta vỗ tay ôi là vỗ tay, và lâu ơi là
lâu. Tôi cũng phải vỗ tay theo…
Những bao nhiêu người lại khen và bắt
tay Duy, nào “cảm
ơn” (thanhk you), nào “rất cảm động” (very
touching)…Nhưng để kết luận, có một phụ nữ đợi
mãi trong đám hai, ba trăm thính giả, bắt tôi dịch từng
lời cho Duy. Bà ta là một trong những người sau chót. Tôi
cảm động, bà ta cảm động, và Nguyễn Duy cũng cảm
động." (**)
Đoàn Kết, rồi Diễn Đàn, đã đăng nhiều thơ của tôi,
đồng quê thanh bình có, thế sự gay gắt có. Nhưng ám
ảnh tôi nhất lại là bài báo ngắn trên đây của Vũ
Huy Quang. Biểu trưng chưa thấy có ở đâu. Ba thằng lính
bằng thịt xương người thật, một Việt Cộng - một
quân lực Việt Nam Cộng Hoà - một quân lực Mỹ, từng
đánh nhau chí chết trên chiến trường Việt Nam, nay cùng đứng
giữa Vườn Thơ nước Mỹ mà gửi đến muôn sau lời cầu chúc hoà
bình.
Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến tranh
Phe nào thắng thì nhân dân đều bại.
Đêm 30.10.2021
NGUYỄN DUY
Chú thích của Ban biên tập :
(**) Có thể đọc toàn văn bài viết của Vũ Huy Quang trong Diễn Đàn số 44, tháng 9.1995 (tr. 23-24)
Các thao tác trên Tài liệu