Nhớ Nội ngày tết
NHỚ NỘI NGÀY TẾT
Ninh Kiều
Cứ mỗi khi Tết đến
trên đất Pháp, tôi lại nhớ
Tết ở Việt Nam…
Những năm đầu
mới qua thì ít nhớ Tết vì
tương lai còn dài, réo gọi phía
trước, và quá khứ còn ngắn,
nằm im lìm phía sau.
Mới chớp mắt mấy
cái mà tương lai ngắn lại, hết
có gì hồ hởi réo gọi mà
có réo cũng làm biếng ơi, và
quá khứ thì dài nhằng, ngập
nhớ thương.
Rồi càng tiến về
phía… mức sẽ không thể không
đến, lại càng nhớ Nội ngày
Tết, Tết hồi chưa xa xứ. Nhất là
giận mình đã không nghĩ đến
Nội đúng mức lúc Nội còn
sống.
Thật ra là Ngoại
chứ không phải Nội nhưng tôi ưng
kêu Nội giống y như các anh chị ở
chung nhà với tôi và Ngoại trở
thành Nội cho tất cả cháu ngoại
trong nhà.
Mấy tuần trước
Tết, tôi theo Nội leo lên xích lô
đến nhà người quen chủ vườn
cây ăn trái ở Phú Nhuận đặt
mua trước vú sữa đang chín cây,
trắng và tím than. Đứng dưới
tàn cây râm mát, tôi ngẩng đầu
nhìn lên : lá vú sữa xanh sậm
một mặt và nâu sẫm mặt kia, lấp
lánh dưới ánh nắng, đung đưa
theo gió, che nửa kín nửa hở vú
sữa hườm hườm bóng da. “
Của
mình hết hả Nội ”, tôi háo hức hỏi và Nội trả lời
“ Mua bao nhiêu hái bấy
nhiêu ”.
Sau đó tôi theo
Nội ra chợ Bà Chiểu mua nếp, đậu
xanh, bột, đường, dừa khô.... để
được Nội cho ngồi chồm hổm ăn
một chén chè khoai môn và căn
dặn ngồi yên đó đợi Nội
ghé trả tiền thiếu chịu chú
Tiều tiệm chạp phô đầu chợ.
Nội hay nói răng,
rứa, nớ, chừ, mô, hỉ… vì
Nội là người làng Vân Dương huyện
Hoà Vang tỉnh Quảng Nam. Tuy là con gái
Cần Thơ nhưng từ nhỏ tôi đã
hiểu ngôn ngữ của Nội : răng
rứa là sao vậy, chỗ nớ là chỗ
đó, chừ là bây giờ, không
răng mô là không sao đâu, hỉ
là nhé, là nghen, là nha… Nội
nói rặt giọng Quảng Nôm. Khi Nội
hỏi “ Ăn chưa ?
” nghe như “ En
chưa ? ”. Và “
hắn ” thành
“ hén ”.
Giờ nghĩ lại mới
nhận thấy hồi sống với Nội, tôi
ở Sài Gòn mà ăn Tết… Quảng
Nôm, rồi sau đó tôi ở Paris mà
ăn Tết… Sài gòn. Hoá ra Nội
cũng xa xứ như tôi bây giờ. Nội
đã từng sống ở Huế, rồi ra
Bắc sống ở Hà Nội, lộn về
miền Trung, vô Nam sống ở Cần Thơ,
rồi trở lên sống ở Sài gòn
nhưng ở đâu, dường như Nội
cũng ăn Tết y như bà Cố Bá,
tức mẹ ruột của Nội, tức bà
Cố Ngoại của tôi. Bà Cố Bá
có ruộng đất, có vựa chứa
lúa nên Nội hay kể hồi mới ra
riêng, vì lấy chồng nghèo nên
Tết đến Nội cắp thúng về
nhà mạ đong nếp, đậu xanh về
gói bánh tét.
Gói bánh tét,
không gói bánh chưng. Khoanh bánh tét
bằng lòng bàn tay của Nội, toàn
nếp, chỉ có chút đậu xanh tròn
tròn bằng ngón cái làm cục
nhưn nằm chính giữa. Nội không
trộn thịt mỡ, trộn dừa như miền
Nam. Nội chê bánh tét miền Nam dễ
thiu trong khi bánh tét của Nội còn
ăn được cả tháng sau Tết tuy
cứng như đá, liệng chó kêu
ăng ẳng nhưng lấy dao bén cắt
khoanh đem chiên thì còn ngon hơn cả
bánh mới.
Mấy ngày trước
khi đưa ông Táo, Nội đi rảo
trong xóm coi vườn nhà nào trồng
chuối, có lá ít tưa, Nội xin
rồi lựa chặt từng tàu để
cho tôi vác trên vai và dặn tôi
coi chừng mủ chuối dính áo giặt
không ra. Về nhà Nội tước tàu
lá chuối, lấy khăn lau kỹ lưỡng
khiến lá bóng mượt trong khi tôi
tước bẹ chuối đem phơi khô làm
dây gói bánh. Lá chuối Nội xếp
chồng như xếp vải may áo, đi ngang
qua nghe mùi lá thơm thoang thoảng. Chắc
vì vậy mà chiếc áo dài đầu
tiên của tôi xanh màu đọt chuối,
cái màu kỵ nước da ngăm đen.
Cái nước da mà tôi hết lòng
kỳ cọ ở tuổi dậy thì song chỉ
lợt bớt nhờ vô số mùa đông
Paris.
Ngày Nội gói
bánh tét, thức dậy tôi đã
thấy Nội ngồi trên tấm phản lớn
trong nhà bếp, chung quanh bày đầy
thúng mủng.
Nội đong nếp trong
chén cơm, rải đều chừng hai gang
tay trên lá chuối rồi vắt trong lòng
bàn tay đậu xanh đã nấu chín
thành đòn nhỏ bằng ngón tay cái
để đặt dài dài trong lòng
nếp. Nội phủ lên thêm một chén
nếp nữa rồi gói. Nội cắn dây
chuối bằng hàm răng đen, giữa đôi
môi đỏ trầu để siết dây
bó chặt thành đòn.
Sau khi tôi ăn xong chén
cơm nguội chiên tép mỡ khử tỏi
thơm mùi nước mắm Nam Ô, nước
mắm ngon nhất trần gian của Nội thì
Nội cho tôi vắt đậu xanh làm
nhưn. Chị tôi được Nội cho
thắt thêm dây vào các đòn
bánh Nội gói vì chị tôi đã
thành thiếu nữ giỏi dang, khéo tay.
Đám cháu trai chạy lăng xăng phá
đám, không được Nội sai bảo,
còn bị Nội rầy “ Con
trai đi lên
nhà trên, không léo hánh dưới
bếp ”. Nội tôi gói đến đứng
ngọ - như cách Nội nói - thì
xong phần Nội nhưng còn phần gói
bánh của đám con nít nữa.
Nội chừa một ít
lá, nếp, đậu để cho bọn con
nít, đám con trai với mỗi tôi là
gái, mỗi đứa gói một đòn,
làm dấu riêng để sau nầy biết
là bánh của mình. Trong khi bọn trẻ
méo miệng o bế đòn bánh của
mình thì Nội và chị tôi đi
nấu cơm trưa, “ En qua
loa, hỉ ”, Nội
nói.
Trong lúc chị tôi
dọn cơm thì Nội gói dùm đòn
bánh tét cho thằng cháu cưng của
Nội vì nó nhỏ nhất nhà và
đang hát bài ca khóc nhè mà
chỉ có bóng dáng thấp thoáng
đâu đó của cậu tôi mới
làm nó hạ giọng. Rồi Nội kêu
hai anh lớn sáng giờ ngồi chồm hổm
chùi mấy bộ lư ngoài hàng ba vô
rửa tay chuẩn bị ăn cơm. Rồi Nội
sai một đứa ra mời cậu tôi đang
tỉa cây mai trồng kế bên hòn non
bộ gần cửa ngõ và sai một đứa
khác mời tất cả người lớn
trong nhà xuống nhà bếp ăn cơm
trưa. Đây là những người lớn
cũng rất bận rộn nhiều việc trong
nhà nhưng tôi không để ý
thành ra không nhớ họ đã làm
gì.
Trong đôi mắt trẻ
thơ của tôi lúc bấy giờ, Nội
tôi là nhứt. Nội đi chợ và
nấu ăn cho cả nhà. Nội không làm
ra tiền nhưng xin Nội tiền là có,
không nhiều, năm cắc, một đồng.
Đủ kêu cà lem leng keng hay chạy ù
đi mua ổi ngâm cam thảo. Nội mặc
áo cánh trắng hai túi, túi găm
kim phồng to, có nhiều giấy bạc lớn,
túi không găm kim thì có bạc
cắc và vài đồng lẻ. Nội
cho ăn, Nội binh vực. Có Nội là
có ăn, có Nội thì không có
roi nào đụng được vào đít.
Vậy mà có người trong nhà than
phiền Nội ngự trị độc đoán,
thiên vị, cục bộ, nói Nội giống
Võ Hậu !
Rồi trong khi bọn trẻ
lo đánh tù tì coi đứa nào
rửa chén thì Nội đội nón
lá dang nắng chan chan chất bánh vô
ba cái thùng thiếc đựng dầu hôi
đã được Nội phơi phóng,
rửa sạch, đặt trên ba cái lò
xây tạm mỗi cái bằng ba cục gạch
cao ngay trên mặt đất, giữa sân.
Tôi chọn thùng giữa, để đòn
bánh của mình vô rồi còn kêu
Nội làm chứng.
Khi ba thùng bánh tét
sôi sùng sục thì Nội ngồi nghỉ
trên chiếc ghế dài ngoài hiên
nhà bếp, sai đứa nào đem ra cho
Nội ấm nước trà và ô trầu.
Nội ực một hơi ly nước trà
nóng, mở ô trầu, têm trầu và
ăn trầu. Cử chỉ Nội chậm rãi,
khoan thai, nhìn Nội tôi thấy bình
yên trong khi Sài Gòn đảo chánh
mấy lần, dinh Độc Lập bị máy
bay dội bom có tôi nhìn thấy và
người lớn hay xì xầm chuyện đánh
nhau, chuyện bắt bớ.
Trong khi chị tôi ngào
dừa trên chảo để làm mứt
dừa thì tôi in bánh phục linh. Dừa
khô gọt vỏ cắt sợi và bột
bánh phục linh chuẩn bị từ lúc
nào tôi không hay, chỉ biết tôi
được chị sai in bánh, như chơi
đất sét. Bỏ bột vào khuôn
bánh bằng cây, ém cho thật chặt
rồi gõ nhè nhẹ trên khuôn thì
bánh rơi ra. Sau đó còn đặt
bánh vô lò để nướng, có
lửa than dưới và trên, nhưng đó
không phải là việc của tôi.
Nội tôi giống nữ
tướng Phàn Lê Huê trong truyện
Tàu, tả xông hữu đột giữa
chốn ba quân, song toàn quân vô tích
sự, lẩn quẩn dưới chân Nội.
Nội bực mình rầy la bao nhiêu cũng
không sợ, chỉ sợ Nội đạp
chân. Nội đạp chân đứa nào
thì dù có la làng Nội cũng
không rút chân ra được liền.
Cái bàn chân nhỏ xíu phải chịu
đựng toàn bộ sức nặng của
Nội trước khi Nội chuyển được
trọng lượng của Nội qua chân kia.
Nội lại mang guốc, nạn nhân hay đi
chân không. Thường là dịp tốt
cho nạn nhân khóc la thoải mái mà
không sợ bị rầy. Cũng như mọi
người lớn trong nhà, Nội không
nhận lỗi mà còn rầy “Răng
mi để chân chỗ nớ ”. Miệng
tuy nói vậy mà tay Nội rút chai dầu
Nhị Thiên Đường trong túi áo
rồi ngồi xuống xoa bóp và an ủi
“Không răng mô”
cái chân
đau đóng đất đen sì và
thế nào cuối cùng cũng có màn
Nội xuống nước năn nỉ “Muốn
ăn chi, Nội cho” rồi Nội móc túi
áo không gài kim dúi cho nạn nhân,
quên khóc vì lo ngó, mấy đồng.
Khi trời tắt nắng
thì ba ông Táo được Nội
canh củi, canh nước từ trưa đến
giờ, tiếp tục đội ba thùng thiếc
sôi sùng sục, hắt ánh lửa vui
trên chiếc chiếu thiệt to được
trải ra tự bao giờ, sau bữa cơm tối cũng “En qua loa, hỉ ”.
Thế rồi trên chiếc
chiếu đã trải lần lượt diễn
ra màn đặt bầu cua cá cọp, sát
phạt bài cào, dì dách vì đây
là dịp duy nhất trong năm con nít được
cờ bạc hợp pháp. Nhưng không khí
chưa hào hứng lắm, mới chơi búng
lỗ tai hay quẹt lọ nghẹ bởi chưa
đứa nào có tiền lì xì.
Có tiền lì xì rồi thì rậm
đám từ sáng mồng một và
sát phạt ăn thua đủ đến hết
mồng ba.
Nội và chị tôi
không biết lục đục cái gì
trong bếp, khuya khuya mới ra. Mấy người
lớn khác nãy giờ nằm ghế bố
nói chuyện, thấy Nội ra có người
đứng dậy nhường ghế bố cho
Nội nằm nhưng Nội lại sà xuống
chiếu đề nghị bọn con nít chơi
trò “đi bắt Tào Tháo” bởi
Nội rành truyện Tam Quốc. Trừ thằng
khóc nhè, đứa nào cũng đã
có đọc Tam Quốc mướn ngoài
tiệm sách ở Tân Định cho Nội
nghe. Nội nghe từ khi xóm còn thắp
đèn dầu, nhờ vậy mới có ba
thùng thiếc sôi bánh tét kia, cho
đến khi có đèn neon.
Trong ánh lửa củi
nổ lách tách, người rút nhằm
thẻ Lưu Bị dõng dạc hạ lệnh
cho kẻ có thẻ Khổng Minh chọn một
tướng đi bắt Tào Tháo. Khổng
Minh xưng danh “Ta là
Khổng Minh đây”
rồi đặt ngửa thẻ xuống chiếu.
Nhà trên nhà
dưới đều tắt đèn để
cho cả khoảng sân tắm ánh lửa
bập bùng trong tiếng nước sôi bốc
mùi bánh đang chín thơm lá
chuối, tăng thêm không khí Tết,
góp phần hồi hộp trong cuộc lùng
bắt tên đại gian hùng nổi tiếng
nầy.
Có lúc Khổng
Minh ngần ngừ chưa biết chọn tướng
nào thì Nội nhắc “Triệu
Vân,
nãy chừ chưa ai sai hén”. Nhưng
Triệu Vân, trước khi xuất đầu
lộ diện, ngồi yên kín đáo
thăm dò tìm kiếm một dấu hiệu
gì đó trên các gương mặt
có vẻ bình tĩnh kia. Vấn đề
là phải phát hiện cho ra một cái
mặt tai tái trong ánh lửa hồng. Tái
vì xui xẻo bắt phải thẻ Tào
Tháo, nhưng phải tái thiệt chứ
không phải tái giả vì có lắm
trung thần ra vẻ lơ láo để được
khoái chí bị bắt lầm. Khi có
người đập thẻ xuống chiếu
dõng dạc tự xưng “Ta là
Triệu
Vân đây, tuân lệnh Khổng Minh, ta
đi bắt Tào Tháo” thì trò
chơi mới bước vào giai đoạn
thật sự hào hứng. Thẻ là những
que tre dầy, dài chừng một gang tay, chuốt
giống nhau, trên có viết nắn nót
Lưu Bị, Tào Tháo, Khổng Minh, Quan
Công, Trương Phi, Triệu Vân, Mã
Siêu, Lã Bố… tuy bảo là giống
hệt nhau nhưng thực ra thì mỗi thẻ
có mỗi dấu hiệu đặc thù,
do vậy người tham dự trò chơi rút
xong thẻ rồi thì vừa phải đọc
để biết mình là ai vừa phải
giấu thẻ như mèo giấu…cứt.
Hào hứng, hồi hộp
truy lùng Tào Tháo được một
lúc lâu thì thằng khóc nhè
nằm lăn ra ngủ trong lòng Nội khiến
Nội đỡ nó ngồi dậy “Khuya
rồi, đứa mô bồng em vô giường
bây” trong khi đứa bị Nội đạp
chân hồi chiều lui cui tìm guốc cho
Nội. “Bây thức canh bánh
tét
hỉ. Ba giờ sáng nhớ kêu Nội
dậy”, Nội dặn.
Không đứa nào
thức nổi đến ba giờ sáng để
kêu Nội trừ cái Tết Sài gòn
cuối cùng của tôi năm 1964, có
anh tôi thức để lén ôm hôn
con bạn thân của tôi vì lúc bấy
giờ bọn con nít có đứa đã
lớn, đang bước vào tuổi yêu
đương. Thường Nội vớt bánh
hồi nào không đứa nào hay, sáng
ra thấy bánh tét nằm sắp lớp
trong nhiều cái sàng. Nội cẩn thận
để riêng mấy đòn bánh nhỏ
xíu của bọn nhỏ trong một rổ rá.
Sáu đòn bánh nhỏ không được
bó thật chặt, bèo nhèo, chẹp
nhẹp trong đó có một cái banh
ruột không đứa nào thèm nhìn.
Thế là cãi nhau. Nội lại phải
đứng ra làm Bao Công. Đứa nào
cũng muốn được Nội binh. Cãi
đến độ Nội phải đầu
hàng “Tau để bây cãi cho
no…
”. Còn tôi thì nhất định
bắt đền Nội cái bánh Nội
để vô cái thùng chính giữa,
con đã dặn Nội rồi, Nội ừ,
bây giờ nó ở đâu !
Đêm giao thừa,
trong tiếng pháo nổ liên tu bất tận,
Nội kêu tôi thức dậy như lời
tôi dặn đi dặn lại để xem Nội
xẻ dưa hấu. Năm nào Nội cũng
nhắc cái năm ruột dưa bọng nước
đổ ra cái xoà, vậy là ba tôi
đau thương hàn tưởng chết. Vì
vậy mà năm nay Nội chịu khó lặn
lội khắp chợ Bà Chiểu đi tìm
bà bán dưa năm ngoái, đã
lựa cho Nội trái dưa đỏ tươi.
Nội tôi giống bà
tiên có đũa thần. Nội gõ
đũa thần hồi nào mà trên
bàn có đủ thứ, ngoài các
thứ tôi đã thấy Nội làm
còn có thêm dưa món, trữi, bánh
tổ, chè đậu xanh đánh, toàn
những thức ăn không bao giờ thiu,
kể cả thịt kho, không kho nước
dừa, càng hâm càng mặn, ăn đến
bữa đưa Ông Bà vẫn còn.
Tôi bận o bế mấy
bộ đồ mới mặc ba ngày Tết,
lo đếm tiền lì xì, lo ăn thua cờ
bạc, lo đặt bầu cua cá cọp rồi
lớn hơn một chút thì lo ngồi nhớ
tình cờ gặp anh ấy trên đường
Lê Lợi hôm mồng hai Tết, được
anh ấy bao uống nước chanh soda rồi còn
cùng anh ấy lên xe buýt về chung. Do
vậy chỉ nhớ Nội, ngày mồng một
Tết tươi cười lì xì đám
giặc, dặn tôi không được mặt
chù ụ và không được nhắc
khách có anh có em vắng nhà để
khách để lại tiền lì xì.
Tuy không bước ra chợ, không nấu
ăn mà ăn suốt ba ngày. Ai tới nhà
Nội cũng mời ăn bánh tét của
Nội, ai cũng khen ngon nhưng không mấy ai
ăn thêm khoanh nữa.
Qua Tết rất lâu,
tôi còn được ăn bánh tét
chiên, bánh tổ chiên của Nội vì
Nội cất giấu đâu đó, lâu
lâu ló ra vài bánh.
Năm 1978, tôi trở
về ăn Tết với Nội nhưng tôi
đã là con dâu của nhà người
khác, có nhiều chuyện để lo và
không mấy gì có tiền. Nội không
còn là Phàn Lê Huê nữa, đám
quân vô dụng đã lớn lên đi
tứ tán và Nội không còn đạp
chân đứa nào được nữa
vì Nội ngồi xe lăn.
Giờ thì Nội hết
theo kịp thời sự sau khi đã đi gần
trọn thế kỷ 20 nên Nội không hiểu
tại sao không có chi cúng bà Cố
Bá, Tết nhất mà nhà lạnh tanh.
Ngày xưa con cháu
dành ngủ với Nội để được
Nội quạt. Giờ thì Nội ngủ một
mình một phòng. Thỉnh thoảng có
đứa thiếu kinh nghiệm xung phong vô ngủ
trên đi văng cạnh Nội. Thế là
Nội vui lắm, kể chuyện bà Cố Bá
đến khuya, rồi khi bắt đầu thiu
thiu ngủ thì Nội bảo thấy cây
đèn chong ngọn to quá sợ hao dầu,
Nội kêu vặn nhỏ lại, rồi một
lúc sau Nội lại bảo tại sao đèn
lu câm, Nội kêu vặn lớn lên một
chút... Cứ như vậy, cả đêm.
Chẳng lẽ Nội không ngủ, nằm nhìn
cây đèn chong ?
Bây giờ ngồi nhớ
Nội trong những ngày qua, ngoài vô số
ưu điểm và vài khuyết điểm
như độc đoán, cục bộ, thiên
vị (với thằng khóc nhè chẳng
hạn), tôi nhận thấy ưu điểm
nổi bật của Nội tôi là giỏi
nhìn mặt.
Nhìn mặt không
phải để biết Cộng Sản hay Quốc
gia mà để coi “En
chưa ? ”.
Khi Nội hỏi “En
chưa ? ” y như
là “Chưa en”,
rồi Nội cho
ăn.
Không những vậy,
Nội lại không chịu nổi tiếng kêu
“Đói”, ngay
cả với chó
mèo. Khi Nội hỏi “Bây
cho chó
mèo en chưa ?” thì thế nào
cũng có đứa trả lời “không
phải phiên con” trong khi chó mèo kêu
đói rối rít dưới chân Nội.
Rồi con cháu dòng họ nhà Đỗ
Thừa rống lên cãi nhau trong khi Nội
lui cui đi lục cơm nguội chan chút nước
cá để trong hai cái thau nhỏ rồi
cuối xuống đặt gần bụi trúc.
Nhờ Nội không chịu
được tiếng kêu đói nên
tôi mới khảo được tiền túi
của Nội, mới ăn phần xoài của
Nội, xứng đáng làm con nít vô
tâm và vô tình ! Chỉ cần
“Con đói quá !
” thì thế
nào Nội cũng có cái gì đó
nhét vô miệng, một trái chuối,
một chén chè để phần… Lúc
nào cũng đói và ăn cái gì
cũng ngon vậy mà đứa nào đứa
nấy ốm nhom như cây tăm, mới lạ
chớ ! Cứ ăn rồi cãi và leo
cây ổi thì lấy chi “En”
cho phỉ,
đó là phê phán của Nội về
bọn con nít.
Bởi Nội không còn
theo sát thời sự nên Nội không
hay thiên hạ có người vượt
biên, lao ra biển khơi, sống chết giao
cho số mạng. Không hẳn vì sợ đói
mà chắc vì sợ bị nhìn mặt.
Bởi không phải ai cũng như Nội,
nhìn mặt để coi “En
chưa ?”.
Mấy ngày trước
Tết năm 1980, tuy đã vô cảm với
chuyện vui buồn đang xảy ra trên đất
nước mình, vậy mà trong những
giờ phút cuối cùng, Nội lại mê
sảng thấy người ta tràn vào nhà,
bò lổn ngổn quanh chỗ Nội nằm,
kêu đói… năm 1945 ở miền
Bắc. Lúc đó đang đêm, nằm
trên giường mà Nội gượng
ngồi dậy, nói đi nói lại “Hén
đói, có chút chi cho hén”. Gặp
con vợ của thằng khóc nhè là
đứa sợ ma, sau nầy nó hay kể lại
cho tôi nghe mà vẫn còn rùng mình
“Nội chỉ tay như Nội
thấy có
người trước mặt, làm em tưởng
thiệt…”.
Sáng hôm sau thằng
khóc nhè từ Hà Nội chạy về,
gặp Nội xong thì Nội nhắm mắt
như thể chỉ còn nuối mỗi một
mình nó.
Sau nầy tôi nghe kể
lại là hôm đám tang Nội có
một người không là con cháu ruột
thịt mà nhất định quấn khăn
trắng khóc “Nội ơi Nội…”.
Đó là anh bán vé số mù
loà trong xóm mà tôi biết từ
hồi nhỏ, đi biệt kích trước
75, là một trong những người mà
Nội đã nhiều nhìn mặt cho ăn.
Tôi không rõ
khuynh hướng chính trị của Nội vì
là điều không thể bộc bạch
ở cái xứ Việt Nam của tôi, từ
trước tới giờ. Song tôi nghi Nội
tôi thiên Cộng. Vì không hiểu
sao tôi lại nhớ hồi nhỏ có lần
tôi dẫn Nội đi bầu Quốc hội,
Nội tôi nhất định bầu cho một
ông tên Vân - lạ chưa tôi còn
nhớ cả tên - chỉ vì trên tấm
áp phích vận động tranh cử có
hình cây búa trong khi thiên hạ đồn
ông nầy bê bối. Về điểm nầy,
dường như Nội may mắn hơn tôi
vì Nội tôi thuộc thế hệ có
lý tưởng.
Khi từ giã Nội,
tôi muốn ôm hôn Nội mà không
dám, muốn nói “Nội ơi
con đi…”
mà không ra lời vì tôi e Nội
không còn sức để dỗ nín
tôi nữa…
Ra khỏi ngõ, tôi quay lại nhìn Nội qua hàng rào râm bụt lúc ấy còn xơ xác để thấy Nội ngồi yên trên xe lăn, mắt ngó xuống. Lần cuối.
Paris ngày 12 tháng giêng 2009
Ninh Kiều
Các thao tác trên Tài liệu