Bạn đang ở: Trang chủ / Sáng tác / Những kẻ xa lạ lạ kì

Những kẻ xa lạ lạ kì

- Linda Le/Dương Tường — published 25/10/2010 01:17, cập nhật lần cuối 12/04/2016 22:20
Bản tiếng Việt bài Étranges Étrangers của Linda Lê

NHỮNG KẺ XA LẠ LẠ KÌ (*)


Linda Lê


Hôm nay, tôi sẽ không mạo muội giành quyền phát ngôn nhân danh những người bắc cầu nối liền Đông và Tây, hoặc những người mang trong mình tiềm năng trở thành đại sứ cho công cuộc hoà trộn các nền văn hoá. Họ không cần đến tôi để tố cáo đầu óc hẹp hòi và lên án việc gạt bỏ người có gốc gác nơi khác, điều gây ra tệ cuồng tín và mù quáng.

Chúng ta chỉ có thể thắng tính nhỏ mọn bằng những giáo huấn nhân đạo, bằng cách thoát ra khỏi cái nhà tù duy ngã trung tâm của chúng ta để mở lòng với cái mà Maurice Blanchot gọi là cõi vô tận của khác dị. Nhiệm vụ của người cầm bút là đánh thức ở mỗi người niềm thích thú được ra khỏi cái vỏ ốc của mình, hội giác thế giới đa bội và vạch cho mình một con đường đến với đồng loại, khi người đồng loại ấy không còn là kẻ xâm nhập mà trở thành người nắm giữ một bí ẩn cần làm sáng tỏ, không còn là một chướng ngại vật chặn đường ta mà biến thành nơi kí thác những điều có-thể.

Văn học chỉ có giá trị nếu nó tấn công vào những ý tưởng có sẵn, nếu nó nhổ bật được sự không thông cảm từ đáy những con tim, nếu nó tạo được sức bật cho phép vượt qua những giới hạn của thân phận chúng ta. Những viễn cảnh chưa từng thấy do nó tạo ra chứa đựng một hứa hẹn đạt tới tầm siêu việt: ý thức được sự hữu hạn của mình, chúng ta tìm cách tự nâng cao hơn bản thân bằng cách đón nhận kẻ khác mình, chúng ta tìm kiếm một sự thẩm thấu giữa triết học của chúng ta và những định kiến của người đối diện với chúng ta. Chúng ta biết rằng sự giàu có của chúng ta đến từ khả năng phóng chiếu hình ảnh của mình lên Kẻ Khác đồng thời chấp nhận kẻ xa lạ trong bản thân mình. Sự chuyển động xoay chiều ấy tuyệt nhiên không hề làm lung lay những nền tảng phòng vệ của chúng ta, mà trái lại còn làm chúng ta miễn dịch đối với những bản năng xấu và tăng cường sự gắn kết của chúng ta. Chúng ta chỉ có thể là tất cả khi chúng ta đón nhận những ảnh hưởng đa dạng, trở thành một hỗn hống những tương phản phong phú, một khoang cộng hưởng trong đó vang lên những lời đa nghĩa nhất.

Bởi lẽ những rào cản giữa con người với nhau đôi khi hoá ra hầu như không thể vượt qua, điều cốt tử là phải cố lật nhào chúng bằng cách túm “ngang lưng” những bất đồng để biến xung đột gây hận thù thành một phương tiện tiêu trừ khuynh hướng bè phái. Bởi lẽ các học thuyết của chúng ta chỉ đứng vững được nếu dựa trên cơ sở những tổng hợp bao gồm những mệnh đề đối nghịch nhau, nên chúng ta cần xem xét sâu xa tận đáy cùng bản thể của mình, nơi đang cùng tồn tại một kẻ bảo thủ thiển cận quyết chiến với những gì đe doạ tính nhất quán của nó và một người tiên phong nôn nóng muốn mở rộng tầm mắt và tự phục hồi sinh lực bằng cách uống ngay từ mạch nước vọt ra từ những tương phản. Bởi lẽ mức độ hoàn hảo của chúng ta tuỳ thuộc vào khả năng bóp nghẹt nỗi ám ảnh về kẻ thù bên ngoài, điều quan trọng hàng đầu là phải tính đến kẻ thù bên trong là sự khép mình lại. Bởi lẽ những định kiến vốn dai dẳng, điều thiết yếu là chiến thắng những tiên kiến của chúng ta bằng cách tăng bội lòng tin: người đối thoại với chúng ta, dù đến từ đâu, cũng có một chức năng kích thích, anh ta ngăn chúng ta cố thủ trong một thứ chủ nghĩa dân tộc sô-vanh và lên án kẻ không giống chúng ta về tội dị tướng, anh ta ngăn chúng ta tống khứ mọi kiều dân như thể họ là những kẻ xâm lược, ngăn chúng ta khỏi gục ngã trước những huyễn tưởng bài ngoại gây nên nỗi khiếp đảm tận gan ruột về một cuộc tràn lấn ào ạt của lũ man rợ. Bởi lẽ một bộ mặt kín bưng là một cuốn sách cần giải mã, điều quan trọng là đừng xua đẩy những gì khó giải thích, bất ngờ và khác thường. Bởi lẽ những người bình đẳng với chúng ta, bất luận màu da của họ, chỉ có được vị thế ấy nếu chúng ta không loại trừ họ khỏi không gian sống của chúng ta, nhiệm vụ của chúng ta là không nhượng bộ tư tưởng lấy dân tộc mình làm trung tâm, không áp đặt những qui chuẩn của chúng ta như là chuẩn mực duy nhất, không sợ du nhập những khái niệm cách tân, không sợ sự lưu thông tự do của các tiềm năng biến đổi.

Bởi lẽ các nền văn minh đều có thể chết1, chúng ta có trách nhiệm phải suy ngẫm về sự đóng góp của những nhà văn vô tổ quốc cho đất nước họ đã chọn làm nơi cư trú. Họ đã xoá bỏ những hàng rào ngăn cách, làm nhoà ranh giới giữa những đặc điểm của một cộng đồng và những nẻt đặc thù của một tập thể nhỏ. Họ đã vươn tới tính phổ quát bằng cách tự tẩy rửa khỏi thói thành kiến, bằng cách đấu tranh chống những ý tưởng sáo mòn về mỗi dân tộc, về người da trắng, người da đen, người châu Á, về những di dân đã đồng hoá hay còn cô lập. Họ đã ca ngợi cái mà Robert Antelme mệnh danh là “cuộc phiêu lưu lạ thường khi thích mình là kẻ khác”. Để dò sâu vào miền thẳm tối của tâm hồn người, họ hoá thân thành những điều tra viên không biên giới với diện điều tra mênh mông: không phán quyết qua loa, không kết luận hấp tấp, họ phân biệt nhiều sắc thái trong đánh giá, họ đạt tới chỗ hoàn thiện những chân dung phức hợp của những hành khách “chui”, lén xuống con thuyền tội đồ kì cục là cuộc sống trong xã hội này, với hành lí duy nhất là khát khao tri thức, với tấm hộ chiếu duy nhất là ý chí đập tan xiềng xích, nghĩa là ý chí tự giải phóng khỏi một sự cắm rễ quá sâu vào mảnh đất chôn nhau cắt rốn, có hại cho sự mãn khai và ngăn trở sự phát triển trí tuệ. Quốc tế ca của những kẻ bỏ hàng ngũ sẽ lấy khẩu hiệu là lời tuyên ngôn của Benjamin Fondane, nhà văn Do thái Rumani đã chọn viết bằng tiếng Pháp và đã lớn tiếng tuyên bố: “Chúng tôi không thuộc về bất kì nước nào / đất chúng tôi ở là nơi chốn dập dềnh / bến náu của chúng tôi chao đảo tròng trành”. “Bài hát người di cư” của ông là một giản yếu về sự nhổ rễ, khi mà, bất chấp sức nặng của cả nòi giống tổ tien, chúng ta thả bỏ những dây neo ràng buộc chúng ta, khi chúng ta trơ trọi một mình, đơn đọc trong đêm dày của chính chúng ta, khi chúng ta gieo và gặt người, khi chúng ta nói “ngôn ngữ của một khát khao bánh mì, khát khao phá huý / khát khao âu yếm, mật ngọt, chiêm bao, quyền lực”, khi chúng ta hô gọi giông tố giáng xuống chúng ta và khi tiếng kêu than của chúng ta lăn ra ngoài lịch sử.

Tôi, mà những mối ràng buộc với nước Việt Nam là lỏng lẻo, không có tham vọng tự phong làm người tiên phong cầm cờ của đám người xa xứ bị giằng xé giữa nỗi nhớ tiếc quê hương bản quán và sự thèm khát khám phá những xứ sở mới, giữa sự cần thiết phải tránh không thuộc về bất cứ một cộng đồng nào để bảo toàn bản sắc của mình, và ước muốn được sống cộng sinh với bộ tộc họ đã sáp nhập vào. Tôi sẽ không làm sứ giả của những người lưu vong, bởi lẽ tôi là một kẻ phản bội đã quên tiếng mẹ đẻ và chọn tiếng Pháp để kể lại những trầm luân của những nhân vật lập lờ hai mặt, luôn ở giữa dòng, xô giạt đây đó, lòng hướng về quá khứ nhưng lại nơm nớp lo sao trừ bỏ được những hiểm nguy của hoài cố.

Mọi tác phẩm nghệ thuật, theo tôi, đều phải là một lời phù chú, vừa là một phép trừ tà nhằm đánh bại những ma quỉ bên trong đe doạ lí trí của tôi vừa là một âm mưu chống lại những cường lực xúi giục người ta nhẫn nhục. Mọi tác phẩm đều phải là một cuộc lang bang trong những miền đất chưa được thám hiểm, một sự vượt qua những biên giới phân cách thực tại với ước mơ, sự phàm tục với chủ nghĩa lí tưởng, tha nhân với bản thân. Mọi tác phẩm đều phải mang tính chính trị theo cái nghĩa là nó nêu vấn đề về vị trí của cá nhân giữa đồng loại, về đóng góp của cá nhân vào việc bảo tồn một số giá trị tinh thần như tình huynh đệ và lòng nhân đạo, về sự thích nghi của cá nhân với hoàn cảnh, khó hay dễ tuỳ theo những thất thường của bánh xe Vận Hạn, tạo thuận lợi cho một số người được ân sủng để thiệt thòi cho số còn lại của bầy đàn. Mọi tác phẩm hoàn thành trong bóng tối đều tỏ ra có tính dấy loạn: nó không để cho độc giả thảnh thơi, họ buộc phải nghi ngờ những nguyên lí của mình, phải tự hỏi liệu việc hội nhập vào một cơ thể xã hội có phương hại đến tính khác dị của mình không? Liệu họ có hi sinh cho những qui ước để tự lo cho mình một lối thoát khi bị cắt mọi phương tiện tự cứu? Liệu thái độ xu thời có phải là một lực kết tụ mà, muốn hay không, họ cũng phải qui phục? Phải chăng họ chỉ đơn thuần là người diễn tấu một tổng phổ soạn bởi một nhạc sĩ có uy tín vững vàng? Liệu việc lo toan chiếm một địa vị trong giới có quan trọng hơn việc từ từ dấn bước tới tiến triển tinh thần? Liệu có phải họ đang chạy theo những ảo ảnh là sự phồn thịnh vật chất, thành công, vinh quang? Có phải họ đang đánh đổi cái-gì-đó bất kham trong bản thân lấy một cảm giác sở thuộc hão huyền? Liệu việc tuân theo những tục lệ có buộc họ phải thu móng vuốt lại đến độ không còn là người xới lên những vấn đề gai góc mà chỉ là kẻ cung cúc vâng-vâng-dạ-dạ? Phải chăng họ đã rời bỏ chốn không-là-đâu, nơi ở của họ vào cái thời họ hài lòng với việc không cần người bảo lãnh cũng chẳng có tổ quốc nào dính chặt ở đế giày, để buông neo vao một bến cảng ở đó họ luôn trong tình trạng quá cảnh? Phải chăng nỗi đau họ đang chịu đựng là mất mọi dấu tích khi mà việc từ bỏ những chuẩn mực văn hoá cũ không kèm theo một sự tán thành hoàn toàn những qui chuẩn của tập đoàn mà họ tìm cách gia nhập? Đã chán chường đến thế, mặc dù cố tập trung bản thân vẫn tan tác, không cách chi gom lại được những mảnh vỡ của bản ngã, liệu họ có thể còn chút xung động nào nữa không?

Với họ, sự cứu rỗi nằm ở Nhu Cầu Ngoại Lai2, theo định nghĩa của Victor Segalen. Nhu Cầu Ngoại Lai này không đồng nghĩa với sở thích đối với sự quyến rũ của những vùng nhiệt đới, mà đồng nghĩa với niềm ngây ngất của chủ thể cảm nhận cái Hỗn-Dị3, khi diễn ra “phản ứng mau lẹ và kì lạ trước sự va chạm của một cá tính mạnh mẽ với một khách quan mà nó nhận biết là xa cách và khoái thú khoảng cách đó.”4 Những sự không hài hòa trở thành hài hòa của cái Hỗn-Di. Cảm giác về Nhu Cầu Ngoai Lai, khái niệm về cái khác dị, tương đương với nhận thức về một cái ngoài bản thân, không thể ghì chặt vào trong mình. Nhờ cảm thụ sự khác biệt, nhân cách của chúng ta, được làm cho bớt chật hẹp và đa bội hơn, trở nên giàu có hơn. Quyền năng của Nhu Cầu Ngoại Lai là một năng lượng mang lại sinh khí, nó trao cho những ai có cá tính mạnh khả năng quan niệm khác đi. Và Victor Segalen nói thêm: “Chính nhờ Khác Biệt, và trong Hỗn Dị, mà cuộc sống thăng hoa”.

Mĩ học ấy của cái Hỗn Dị là nền tảng của một lập luận ủng hộ một nền văn học liên văn hoá, trong đó thẩm thấu vào nhau nhiều phương thức tư duy, lồng khớp vào nhau những qui chiếu về các di sản của khắp chốn trên hành tinh, trong đó quyện lẫn vào nhau những lời tôn vinh các tác giả của mọi phương trời, mà không hề nẩy sinh hỗn tạp, trái lại, còn tạo nên một tổng thể nhất quán hợp thành bởi những yếu tố có vẻ như không thể dung hoà, nhưng lại quyết định một sự kết hợp hiệu quả các phản đề. Điểm hội tụ đó, nơi gặp gỡ đó của những người bảo vệ một nghệ thuật lai tạo, không phải là một điều cực chẳng đã của sự toàn cầu hoá, khi mà những tín đồ của mở cửa không phải là những tên ma cô của thói chuộng ngoại, thích cái hào nhoáng, trộn thành một mảnh chắp vá những thứ vay mượn từ chỗ này chỗ nọ, nấu mọi thứ nước xốt bằng những chất liệu bạ đâu nhặt đấy, miễn sao chúng là chỉ số nói lên sự thèm khát cái mới.

Mối hiểm nguy của việc cưỡi trên hai thế giới là trạng thái nửa dơi nửa chuột, cứ mập mờ để khỏi bị gắn nhãn định loại. Kẻ di cư như một loài cây sống dai, tồn tại nơi đất khách quê người, ráng thoát khỏi mọi sự xếp loại, nhất là nếu thế giới của hắn là lưỡng cực, nếu tâm hồn hắn bồng bềnh bất định giữa những khoảng rộng khác biệt nhau, giữa phương Đông và phương Tây. Không chối bỏ gốc gác của mình, hắn tự phân thân, thành thử hắn ở trong một tình thế lập lờ, đặc biệt khi hắn đã từ bỏ ngôn ngữ quê hương để nắm chắc hơn ngôn ngữ của đất nước hắn chọn làm nơi cư ngụ.

Tôi là một trong những trường hợp kiểu này. Trong thời thơ ấu ở Việt Nam, tôi đã học tiếng Pháp từ rất sớm. Tôi đắm mình trong việc đọc các tác phẩm cổ điển của đất nước hình lục giác, trong nghiên cứu các tác giả bách khoa toàn thư của Thế kỉ Ánh Sáng. Tôi ngập trong thơ của Hugo, Verlaine, Rimbaud. Tôi trở nên quen thuộc với những bi kịch của Racine. Tôi say mê Xưng tội của Rousseau, những chuyến xuống địa ngục của Nerval, cuộc cách mạng văn học dấy lên bởi các nhà siêu thực, bởi các giáo hoàng của trào lưu Tiểu Thuyết Mới. Thấm sâu mọi cảm hứng, tôi tích luỹ những phát hiện của mình, tôi mở rộng phạm vi kiến thức của mình mà tất cả đều liên quan đến những phát minh của các bậc sáng tạo táo bạo của châu Âu. Dạng thái tinh thần của tôi chịu ảnh hưởng của sự kết hợp nhị phân tạo thành toà án lương tâm của tôi: tôi bị giằng xé giữa sự trung thành với phương Đông mà cha tôi là đại diện và sự cám dỗ của phương Tây mà mẹ tôi, bạn của nước Pháp, là hiện thân. Dù sao mặc lòng, những ấn phẩm từ Paris vẫn cuốn hút tôi. Tôi hãnh diện vì đã nắm vững triệt để những chủ đề của những nhà sáng tạo nổi bật nhất, đã đọc kĩ đến từng dấu phảy các văn bản của các nhà văn tứ xứ đưa ta vào cuộc viễn du tới những đối cực. Tôi tự hào có thể vận dụng công cụ của mình, tiếng Pháp, tinh thông hơn người bản địa, với cái giá là từ bỏ dùng tiếng Việt. Như vậy, tôi tự triệt đường thoái lui, tự ngăn mình trở lại, nhưng với cảm giác say sưa rằng mình là một người theo thuyết biến hình, thay đổi trang phục và sắm nhiều vai: vai một công dân tương lai của thế giới, vai người sẽ chở đò làm nhiệm vụ nối đôi bờ, vai người nghệ nhân có tiềm năng làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, đồng thời cũng có thể trở thành một kẻ xúi giục gây rối, đề cập đến những điểm nhiễu sự, chẳng hạn như nhắc lại luận đề của André Gide theo đó, những nghệ sĩ lớn đều là sản phẩm của hỗn chủng, là kết quả của trốc rễ và di cư. Xa lạ với chính bản thân, đôi khi xa lạ giữa đồng bào của mình, họ biến những cơn bàng hoàng của mình thành những chủ bài để thực hiện thuật giả kim của ngôn từ. Giữ đúng mọi tỉ lệ về tầm cỡ, không tự so sánh với họ, tôi ý thức được mình là một người lai, trung gian giữa kẻ lưu vong được nhào nặn bởi một nền giáo dục dành ưu tiên cho những sản phẩm đến từ nơi khác, kẻ tị nạn không chịu vào ghetto và người phụ nữ phương Đông mất phương hướng, nửa thèm khát được giải phóng khỏi mọi chằng trói, nửa muốn gìn giữ những mối liên hệ tình cảm với nơi chôn nhau cắt rốn. Tôi chỉ có thể tìm thấy tính thống nhất của mình khi viết, khi lục tìm trong kỉ niệm để khôi phục lại những nỗi đau và những niềm ngây ngất tôi cảm thấy khi di trú từ không gian tưởng tượng này đến cõi mơ tưởng khác, luôn luôn tiến xa hơn trong việc tìm kiếm những phương thức biểu đạt riêng của mình.

Tôi khát khao hoàn thiện những tác phẩm hư cấu trong đó được nêu bật nỗi bối rối của những người lo sợ và những người chưa thỏa nguyện, mất trục trung tâm, không có khả năng chinh phục, cố che giấu những khiếm khuyết của mình được đến đâu hay đến đấy, nhưng theo cách của mình, họ đều là những tác nhân của lật đổ. Điên khùng, hoài nghi, sầu não, tang tóc, lưỡng diện, thậm chí đa diện, bị ma ám, chấp nhận vị thế thua thiệt ví quá tinh tường đến độ làm thiên hạ sửng sốt, không mấy nhất quán với bản thân, kém đồng điệu với thời đại, họ rất giỏi né tránh, trốn lủi, phao dấu vết giả, lấp đầy vực ngăn cách giữa cái thực với cái huyền hoặc. Được phú bẩm một thiên hướng hướng nội không phải bất khả dung hoà với lòng trắc ẩn, một xu hướng phân tích mổ xé, thuận lợi cho việc đặt ngược lại ván đề, họ thiên về tranh cãi, họ làm nổ tung những xác tín của chúng ta, họ khuấy đảo trạng thái thanh thản trí tuệ của chúng ta. Nếu họ tự nghe mạch, đó là để mổ tử thi những thoả hiệp của chúng ta. Nếu họ ngoái nhìn lại, đó là để trở thành chính mình trọn vẹn hơn trong khi vẫn là xa lạ đến trọn đời. Nếu họ cắm rễ ở đâu đó, thì cũng chỉ gắn bó vì tự do của mình thôi. Nếu họ là sự minh hoạ cho một ý tưởng, thì đó chỉ có thể là cho ý tưởng về một sự kì lạ căn bản mà Baudelaire bảo là thứ gia vị thiết yếu của mọi cái đẹp.

Lưu vong, rầy rà, không chính thống, họ xới lên những vấn đề không đúng lúc, như sự sống còn – với tư cách là tiêu mẫu – của người tù phát vãng trốn về, việc khước từ một đạo lí cứng nhắc, việc chống đối sự chuyên chế của tính bình thường, sự vi phạm những huý kị xã hội, sự li khai trong lòng một thế giới thu nhỏ đã pháp điển hoá, sự chống lại mọi hình thức áp bức. Họ sống một cảnh huống lưu đầy vĩnh cửu, ngay cả khi họ không trốn bỏ đất nước. Họ chỉ tìm thấy nơi trú ngụ trong tính hai mặt và tính không khoan nhượng của mình. Họ có thể phòng ngừa mọi kiểu tập hợp thành đội ngũ bằng cách mượn lại lời cảnh báo của Armand Robin làm châm ngôn cho mình: “Tôi sẽ là một kẻ xa lạ lạ kì với mọi thời đại: / Tôi sẽ dùng những ngày mình sống để xoá bỏ đời tôi.”

Song song với công việc viết tiểu thuyết, tôi ca ngợi trong nhiều tiểu luận những tác giả từng là những người trinh sát mở đường, những người nổi dậy, những người duy trì một cuộc di cư nội tâm, Tôi hoàn toàn nhất trí với những nghi vấn của họ: liệu những khái niệm của chúng ta có thể đứng vững được không, khi mà chúng ta níu bám vào chủ nghĩa sô-vanh? liệu những phân tích của chúng ta có thích đáng không khi mà chúng ta thổi bùng thêm những cuộc tranh chấp cục bộ? những tiền đề của chúng ta có cơ sở đúng đắn không, khi mà chúng ta tuyên bố địa ngục là những kẻ khác? phải chăng khả năng nhận thức của chúng ta đã teo lại khi mà chúng ta giới hạn chân trời của mình bằng cách chỉ cọ xát với những gì quen thuộc? liệu tín điều của chúng ta có phải là hão huyền khi mà chúng ta luôn luôn ưu đãi chị em gái ruột của chúng hơn anh chị em họ, ưu đãi anh chị em họ của chúng ta hơn hàng xóm, ưu đãi hàng xóm hơn người xa lạ?

Sự hấp dẫn của cái chưa-biết là một trong những đòi hỏi cấp bách của sáng tạo. Cần phải lạc vào một mê cung những bối rối và khiếp sợ gây nên bởi sự đối mặt giữa bản thân với Kẻ Khác kia, một câu đố phải giải đáp, miễn sao ta sẵn sàng đập vỡ vỏ giáp của nó. Cần phải quên mình đi để sinh ra những kẻ cô độc vị tha, những thương binh của tình yêu, những người bị xé lẻ đi tìm nửa kia của mình, những người đau khổ mà nhu cầu được an ủi là không thể thoả mãn nổi, những con người bị giày vò bởi sự phân thân, những người bị ruồng bỏ, xua đuổi khỏi thiên đường xanh, những quái vật ích kỉ không hề cởi mở với đồng loại, những con phượng hoàng tái sinh từ tro của mình, những người độc đáo không cách chi xác định nổi, những kẻ hành hương, khách vãng lai.

Phải tự làm cho mình thành xa lạ với bản thân mới đạt được tới một thứ văn học không bị thuần hoá. Nếu không nhằm làm một thú tiêu khiển đơn thuần chẳng có tầm cỡ gì, mọi tác phẩm chân chính đều thôi thúc chúng ta dò dõi vào đáy sâu của con người chúng ta, không phải để tự thoả mãn thói duy ngã trung tâm, mà để gỡ rối cái mớ bòng bong những ác cảm vô lí của chúng ta, những ác cảm kéo theo tình trạng không thể giao lưu. Rũ bỏ được những định kiến về người đối lập hoan toàn với mình, chúng ta ra khỏi bản thân, chúng ta làm cuộc hành trình rời xa những diễn ngôn thô sơ và những khái quát sơ lược, chúng ta chủ động đến với người khác khi anh ta không còn là một sự trừu tượng phiền phức với những oán hận, những tẩy chay kết tinh xung quanh, mà trở thành chất xúc tác cho một tầm nhìn Prométhée, cho một sự tôn sùng tất cả những gì thuộc về con người, không phân biệt quốc tịch, tôn giáo hoặc thứ bậc. Liệu đó có phải là một điều không tưởng bất khả thực hiện? Một công trình xây dựng về tinh thần không có nền móng? Tôi muốn tin rằng tương lai của nhân loại dựa vào những nhà nhân văn, một giống loài chưa phải đã sắp tuyệt chủng, bất chấp sự trỗi dậy trở lại của những lí thuyết độc hại về sự bất bình đẳng giữa các chủng tộc. Di sản chúng ta nhận được từ họ yêu cầu chúng ta đừng khăng chối bỏ những gì chúng ta không hiểu, đòi hỏi chúng ta tiến lên bằng cách nhổ tận rễ những định kiến của mình. Điều cốt yếu là làm sao không phủ nhận sự khác dị, không thiết lập những quan hệ trong đó có một kẻ thống trị và một kẻ bị thống trị, một dân tộc thượng đẳng và một dân tộc nguyên thuỷ được người ta mang đến cho những thứ gọi là ân huệ của văn minh.

Sáng tạo bao hàm việc vun trồng tính kì lạ tuyệt đối của mình, tính hoang dã bên trong của mình. Nó ủng hộ việc giải huyền hoặc cái duy lí, ưu thế của cái được phát hiện, sự lên ngôi của pháp thuật, sự hiển lộ của những hiện tượng huyền bí, sự đột khởi của cái kì dị, sự xuất hiện của những quĩ đạo chệch hướng, việc lợi dụng sự rối loạn của mọi giác quan, sự biểu tỏ cái đắm đuối - cuống cuồng, sự liên minh của những thái cực, mộng thức và sự trở về với lí trí lạnh lùng, sự khai thác khả năng vượt giới hạn, làm điều ngông cuông, sự lui tới những miền siêu cảm giác, tổ quốc thực sự của những người thấu thị, sự thức tỉnh của khả năng chài yểm, việc tăng cương những thiên hương đóng vai kẻ phá đám, làm người sao chép cái hiện thực khác, truyền một nguyên lí mang sinh khi mới vào cái cơ quan ẽo ợt là thứ văn học này khi mà nó chỉ tự nuôi dưỡng bằng những chân lí trấn an.

Là những kẻ lưu vong không thể dung hoà với những đầu óc thiển cận, xa lạ trong chính đất nước mình, quen thói trốn khỏi vỏ kén bảo vệ. là những du kích không đứng dưới ngọn cờ nào, những ngoại lệ gần như dị dạng, những kẻ phá huỷ những hệ tư tưởng ngự trị, những kẻ nhổ rễ sự khắc nghiệt không khoan dung đã thành một thứ bệnh dịch, những kẻ thù của những hoá thạch cổ hủ luôn nghĩ rằng những vách ngăn giữa các dân tộc là kín bưng không thể rò rỉ, những người khởi xướng được phụ trợ bởi trí tò mò không biết mệt đối với những tác phẩm ủ men nổi loạn, những người mộ ngoại ưa thích những phát hiện của các nhà thực nghiệm phương xa, những người chiết trung lạc lõng trong những bè đảng đóng kín cửa với mọi cách tân, những người quốc tế chủ nghĩa có tham vọng xây dựng một hỗn hợp, hoà trộn nhiều nền văn hoá, họ đứng ở tiền đồn của tính hiện đại, họ có thể nói như Armand Robin: “Trái tim con người, tôi muốn gọi nó bằng tiếng Nga, tiếng Ả-rập, tiếng Trung Quốc / Cho chuyến đi từ bạn tới tôi / tôi muốn có thị thực / Bằng ba mươi thứ tiếng, ba mươi khoa học.”

Li khai, đi ngược dòng, nhưng chào đón với lòng hiếu khách những ai không giống mình, họ là những gương mặt tượng trưng cho một nghệ thuật sẽ là nơi hoà đồng nhân loại, theo chữ dùng của Victor Hugo. Họ cần thiết cho chúng ta để những ý tưởng của chúng ta khỏi bị ôi thiu vì cừu địch với đám dân ngoại lai muộn. Họ dắt dẫn chúng ta trong những trao đổi của chúng ta để chúng ta khỏi sống khép kín, để chúng ta khỏi là một cái gì mà lòng thiện cảm không chạm tới được, mà không mắc lừa việc bình đẳng hoá từ cơ sở.

Tôi xin kết luận những triển luận này về những người biệt xứ bằng việc trích dẫn Marina Tsvetaieva, nữ thi sĩ Nga có một số phận bi thảm, Tị nạn ở Pháp, ngày 6/7/1926, bà đã viết cho Rainer Maria Rilke: “Goethe đã nói ở đâu đó rằng người ta không thể thực hiện được cái gì lớn lao bằng tiếng nước ngoài – điều đó, bao giờ tôi cũng thấy có vẻ sai. […] Làm thơ đã là dịch rồi, từ tiếng mẹ đẻ sang một thứ tiếng khác, bất kể đó là tiếng Pháp hay tiếng Đức. Không một ngôn ngữ nào là tiếng mẹ đẻ. Viết thơ là viết dựa theo một cái gì đó. Vì thế tôi không hiểu tại sao người ta lại nói nhà thơ Pháp hay nhà thơ Nga, vân vân... Một nhà thơ có thể viết bằng tiêng Pháp, anh ta không thể là một nhà thơ Pháp. Thật lố bịch. […] Người ta trở thành thi sĩ (nếu như người ta có thể trở thành thi sĩ, nếu như người ta không phải ai nấy đã thi sĩ từ trước !) không phải để là Pháp, Nga, vân vân…, mà để là tất cả. Hoặc nữa: người ta là thi sĩ vì người ta không phải là Pháp. Quốc tịch là thải loại và kết nhập. Orphée làm nổ tung quốc tịch hay mở rộng nó đến độ tất cả (hiện tại và quá khứ) đều được bao gồm trong đó.”

Xin cảm ơn sự chú ý của quí vị.


Linda Lê


(*) Bài nói ngày 13.10.2010 tại L'Espace, Trung tâm Văn hoá Pháp tại Hà Nội. Nguyên tác: Étranges Étrangers, đã đăng trên Diễn Đàn tại đây. Bản tiếng Việt do Dương Tường chuyển ngữ và chú thích.


------------

1 Paul Valéry.

2 Từ exotisme (và tính từ exotique), mà các từ điển Pháp – Việt thường dịch là: tính ngoại lai hay tính chuộng ngoại lai, thực ra chưa có từ Việt tương đương diễn đạt trọn vẹn nội hàm của nó. Theo nghĩa cổ, như Rabelais dùng, nó chỉ những đặc tính của những dân tộc, vùng miền không thuộc về nên văn minh phương Tây. Theo định nghia của từ điển Petit Robert 2009, tính từ exotique chỉ những gì “đến từ những xứ sở xa và nóng” (do đó, đôi khi nó còn đồng nghĩa với tropical [thuộc về nhiệt đới]) và exotisme là “sở thích đối với (…) những phong tục, tập quán và những hình thức nghệ thuật của những dân tộc ở nơi xa”. Từ Việt “ngoại lai” hay “chuộng ngoại lai” thường hàm ý xấu, dễ gây ngộ nhận. Nhất là trong văn cảnh của bài này, khi tác giả dùng từ exotisme theo quan niệm của nhà văn Pháp Victor Segalen, như một khái niệm tinh thần có tầm triết học và mĩ học. Hiểu theo tinh thần đó, nó vừa là tính chất của những gì xa lạ với chúng ta vừa là sở thích đối với tất cả những gì mang tính chất đó, tương ứng với một nhu cầu vượt thoát. Do vậy, chúng tôi dịch thoát là: Nhu Cầu Ngoại Lai, nhằm diễn đạt tinh thần là chính. Mong các vị cao kiến chỉ bảo thêm.

3 Le Divers, trong hệ qui chiếu của V. Segalen, là một từ chìa khoá để khái niệm hoá phạm trù exotism được nâng lên tầm mĩ học và ở đây không nên hiểu là đa dạng, mà là sự khác dị trong sô đông (l’altérité dans la multitude). Chúng tôi tạm dịch là cái Hỗn Dị.

4 Victor Segalen – Essai sur l’exotisme (trang 43)

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Ủng hộ chúng tôi - Support Us