Nồi Bánh Tét
Nồi Bánh Tét
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Ngày
ba mươi tết đẹp nhất trong năm.
Thời gian trôi chậm lại, bỗng đến
một lúc trời trở lạnh, bóng tối
đổ xuống mau. Chúng tôi không đứa
nào muốn rời khỏi bếp lửa ngoài
sân, nơi nồi bánh tét sôi sùng
sục, lửa nóng rát mặt vì đun
bằng gốc tre to, cháy đượm.
Con
chó mực sủa nhiều lần, từ sau
gốc cây khế. Ba hôm nay, con mực không
dám đi ra khỏi nhà quá vài
bước. Ánh sáng của cây đèn
bão lắc
lư chiếu từ hiên nhà che sáng
một vùng, nhưng bóng tối mỗi lúc
một dày, đẩy ánh sáng lùi
lại. Chú Kiên giúp việc cho nhà
tôi ngồi canh bếp lửa, mẹ tôi đã
vào nhà thắp hương trên bàn
thờ, dì tôi lục đục dưới
bếp, tiếng động im dần, những
người giúp việc khác đã đi
ngủ, chỉ còn đám trẻ con ham
chơi và chú Kiên vẫn còn thức
cho đến giao thừa. Chú có nhiệm
vụ vớt bánh ra, lựa những đòn
đẹp nhất lát nữa cúng bàn
thờ. Ba tôi vào Sài Gòn không
về kịp. Hòa bình vừa lập lại,
đường sá còn trắc trở,
những người đàn ông trong gia
đình, người bị Pháp giết,
kẻ bị Việt Minh bắt đi mất tích,
dân tản cư lần lượt trở về
xóm cũ nhưng phần nhiều là đàn
bà trẻ con và thương binh. Chú
Kiên là thương binh, chú hay hát:
sơn
nữ ơi, đời ta như cánh chim rừng.
Những
dịp giỗ chạp, các mợ tôi, nhà
vắng đàn ông, đều đem con
cháu về quây quần bên bà ngoại
cho ấm áp, riêng dì tôi đến
ở chung ăn tết mấy hôm với em gái
là mẹ tôi. Mẹ tôi có một
khu vườn lớn, trồng nhiều ổi, cam,
vả, khế, thanh trà, vài mảnh ruộng,
cái quán tạp hóa nhỏ gần quốc
lộ số Một, cần nhiều người
giúp việc đồng áng vườn
tược, nên nhà lúc nào cũng
đông đúc, dù bà không giàu
có gì. Lá chuối xanh từ từ đổi
màu trong nồi nước sôi, mùi nếp
bay thơm ngào ngạt, những sợi lạt
cuốn chặt quanh khúc bánh ngâm mình
trong nước mỗi lúc một siết chặt
lại làm những đoạn ở giữa
phồng ra, căng bóng dưới lớp nước
sôi, sủi tăm mới đầu li ti rồi
lớn bằng mắt cá, hơi lên nghi
ngút. Trong không khí lẩn khuất chút
âu lo thời cuộc của người lớn,
chú gà trống từ cuối sân vẫn
vô tư xòe cánh vươn cổ gáy
vang, những đứa trẻ mải cười
đùa đuổi nhau la hét ầm ĩ,
và trong giấc mơ của tôi, vẫn
leng keng những đồng tiền mừng tuổi
thơm mùi kim loại hạnh phúc.
Từ
hôm hai mươi ba tháng chạp, cúng
đưa ông Táo về trời, mẹ tôi
đã bắt đầu đi chợ tết,
trong nhà không khí trở nên nhộn
nhịp. Đi học về, thấy trước
hiên bày những lọ thủy tinh, những
hũ sành đựng dưa món, dưa
chua, cà pháo ngâm, ớt xanh ớt đỏ
ngâm dấm chua. Không khí buổi chiều
ở nông thôn phảng phất mùi nhang
đèn, mùi trầm thơm từ nhà
ai bay ra. Hai đứa con trai, anh tôi và tôi,
có bổn phận quét sân quét nhà,
lau lư hương trên bàn thờ, chùi
các chậu sứ ngoài hiên, là
những công việc mà tôi thích
thú. Đất trời thay đổi mỗi
ngày, càng gần hết năm, càng
trở nên mờ ảo, dịu dàng, bí
mật. Bến đò mưa bụi lay phay tấp
nập người qua lại. Trên những con
đường mới đây còn lầy
lội mưa dầm, nhão quánh bùn và
phân trâu, nay đã bắt đầu
khô ráo, thoáng thấy vài cánh
áo mới, đôi phong pháo đỏ
tươi trong quang gánh lùng nhùng.
Gần
cuối năm, mẹ tôi gạt nỗi lo riêng
vì ba tôi không kịp về cúng
giao thừa, lấy lại dáng vui vẻ nhanh
nhẹn thường ngày, sai người nhà
đi tìm những lá chuối lớn, chuẩn
bị gói bánh, làm tất bật luôn
tay cho đến khuya. Trên cái mâm đồng
lớn đựng trên phản gỗ, đậu
xanh đã được giã nhỏ để
làm nhụy bánh chưng bánh tét,
trên một cái mâm khác những xấp
lá chuối chồng cao ngất. Sáng ba
mươi, vừa đi chợ về, mẹ tôi
không kịp thay áo dài, đã hối
hả bắc chậu nước lên bếp.
Nồi thịt heo ướp sẵn, những thúng
gạo nếp hôm trước đã được
ngâm nước. Tôi đứng nhìn mọi
người ngồi trên một chiếc phản
gỗ lớn gói bánh, rồi theo anh tôi
đi sau chú Kiên ra vườn, chú dùng
một cái rựa lớn chọn những cây
tre dài để chẻ thêm lạt. Một
con chim chào mào lông đen mũ đỏ
về hót hớn hở trên ngọn tre lao
xao, những nốt nhạc của ngày thanh
bình trước chiến tranh, khi tiếng súng
chưa nổ lẻ tẻ, đường tàu
xe lửa xuyên Việt còn chưa bị đặt
mìn, những người lính gác cầu
chưa có thói quen chĩa súng xuống
nước bắn vào đám lục bình
vừa trôi lững lờ qua chân cầu vừa
trổ bông tím biếc; những cô dâu
từ Huế, Sài Gòn mùa hè nắng
ấm về thăm quê chồng tay cầm dù,
tay xách va li, đi guốc cao gót, sơn
móng chân, vẫn còn thản nhiên
ngủ lại qua đêm trong căn nhà
hương hỏa mà tổ tiên để
lại. Mẹ tôi cho gói những chiếc
bánh chưng vuông vức, nhưng gói
bánh tét nhiều hơn, những đòn
dài tròn trịa. Từ sáng sớm,
những người giúp việc đã
chuẩn bị bếp lửa ngoài sân. Chú
Kiên bắc ba chồng gạch lớn làm
bếp, những cái nồi đồng của
mẹ tôi dù lớn cũng không đủ
chứa, phải dùng thêm một cái
thùng bằng tôn cao ngang ngực vì mẹ
tôi cho gói bánh thật nhiều để
mang cho bà ngoại, và cho bầy con cháu
rất đông. Củi lách tách nổ,
lửa lên đều, nước thỉnh
thoảng sôi trào ra phải rút bớt
lửa. Đêm càng sâu, trời càng
lạnh, mọi người đã đi ngủ
hết. Trước sân, cành mai bên bể
cạn, nơi mặt nước phồng lên
sau mấy cơn mưa, vài con cá chép
bé teo đớp bóng, đang khoan thai nở
những nụ sáng trong đêm huyền bí.
Trong sáu, bảy đứa trẻ, con chú
bác cậu dì gần bằng tuổi nhau,
có lẽ tôi là đứa nhỏ tuổi
nhất, vì vậy được thưởng
món quà đặc biệt, đó là
chiếc bong bóng heo thổi căng. Bọn trẻ
ngồi sát vào nhau, im lặng lắng nghe
chuyện cổ tích, chuyện ma hấp dẫn,
để mặc con chó mực đang vẫy
đuôi chồm về phía trước. Nó
cố đánh hơi mùi thuốc độc.
Ba hôm nay, trộm về làng.
Trong tiếng
lửa củi lách tách, chú Kiên kể
rằng ở bên kia sông, phía hạ
lưu, có một ngôi làng nhỏ, dân
làng ấy có tục đi ăn trộm,
nghe nói không những đàn ông mà
đàn bà con gái cũng làm nghề
khoét
vách trèo tường đục lỗ.
Nhà bà ngoại tôi cũng có ít
của ăn của để nên gần như
năm nào cũng là đối tượng
của các vị khách không mời, có
năm bà tôi mất cả một cái
nồi đồng lớn, từ thời Tự
Đức. Làng ấy thờ một vị
Thành hoàng nghe nói là một đạo
hiệp, có lệ đến cuối năm cả
làng phải đi nơi khác ăn trộm
những thứ quý báu để cúng
thần thì con cháu mới làm ăn
phát đạt, nếu không sẽ bị
phạt không ngóc đầu lên được.
Họ ăn trộm rất giỏi, chưa bao giờ
bị bắt. Đêm về khuya, những người
đi chơi bài tới, bài bầu cua, bài
tứ sắc, về ngang qua nhà sau những
hàng chè tàu phủ kín dây tơ
hồng nói cười thấp thoáng. Chiếc
radio Ấp chiến lược, hồi ấy miễn
phí cho nhiều gia đình, phát đi
những bài hát mừng xuân rộn
ràng từ đài phát thanh Huế.
Chiếc đồng hồ con gà treo tường
có quả lắc sáng choang treo trên cột
nhà trước bàn thờ, thong thả
điểm từng tiếng một, đĩnh đạc
ngân vang. Trong bếp chỉ còn mẹ tôi
vẫn lục đục sắp xếp nồi niêu
xoong chảo, dì tôi đứng ở cửa
cúi xuống trò chuyện. Một con tắc
kè bò qua thân cây khế ngoài
sân, đó là con tắc kè lâu
năm khi ẩn khi hiện, khi xanh khi vàng, chỉ
xuất hiện trong những dịp đặc
biệt. Con chó mực chụm đầu nằm
xuống giữa ranh giới của ánh sáng
và bóng tối, mỗi khi có tiếng
động khẽ nhỏm dậy dỏng tai
lên.
Những đứa trẻ buồn ngủ
nhíu mắt, chú Kiên đưa cả
bọn vào nhà rồi thong thả đứng
vớt bánh tét ra. Chỉ mình tôi
quay lại đứng sau lưng. Khi ba tôi đi
xa, tôi được thú ngủ chung với
chú, nằm trên một cái giường
kê sát mặt đất, bên cạnh
hai người giúp việc khác, ở nhà
dưới. Ru tôi ngủ, chú bắt chước
ba tôi ngâm Chinh
phụ ngâm,
học mẹ tôi hát Lục
Vân Tiên,
giọng khàn khàn, nhớ lõm bõm.
Dụi lửa tắt dần, nước vẫn
còn sôi, chú vớt hết những đòn
bánh tét, lá chuối xanh đã sẫm
lại, căng bóng, đổ lên rá.
Chú dùng gáo dừa, nhúng sâu
vào nồi, múc từng gáo, cẩn
thận đổ vào một cái xoong có
quai. Nước nóng bốc hơi. Chú dùng
hai tay cẩn thận bê cái xoong nặng đầy
nước sủi tăm, và trước khi
tôi kịp để ý, đứng thẳng
lên, bất ngờ quay người lại, hắt
nước thật mạnh vào bụi sả
cao ngất ở gần đó.
Đó
là một bụi sả lớn, thường
trồng quanh nhà vừa để làm gia
vị nấu nướng, vừa để chống
muỗi và chống rắn rít vì mùi
sả thơm hăng hắc làm chúng tránh
xa. Một tiếng thét hãi hùng vang
lên. Tôi rợn người. Một bóng
đen vọt ra khỏi bụi sả, vùng
chạy, nháy mắt đã biến mất
trong bóng tối, nhưng tiếng thét vẫn
còn vọng dài về phía cuối
vườn, lũy tre xào xạc. Nhiều năm
về sau, bom đạn khói lửa ngút
trời, tôi mất liên lạc với chú
Kiên, xa quê mãi không trở lại.
Khi tôi về, nhà không còn ai, tôi
lần hồi tìm dấu vết cũ, thấy
lại được cái gốc đã
tàn chỉ một nhánh nhỏ nhú lên
của cây khế nửa chua nửa ngọt,
nơi ngày trước con chó mực vẫn
nằm sủa dấm dẳng, bụi bông trang
hoa đỏ lơ thơ mỗi năm một đổi
màu, khoảng sân xưa đầy gạch
vụn đỏ hồng nấu bánh tét
chiều ba mươi tết, chỗ ngồi của
chú Kiên, của tôi và những đứa
trẻ anh chị em họ. Bụi sả không
còn, thay vào đó phất phơ bụi
lau trắng như một cung nữ tóc bạc
từ một triều đại khác, huy hoàng
nhưng đã suy tàn, tôi đứng
hồi lâu đến khi trời tối, đứng
ở giữa đường biên của tối
và sáng, như con chó nhỏ ngày
xưa khi kẻ trộm về làng, lạc
hướng, mất khả năng phản ứng
trước nghịch cảnh cuộc đời,
đánh hơi mùi thuốc độc của
thời gian, đi ngủ rồi thức dậy
nhiều lần trong đêm, ngửng đầu
nhìn sao trời để tìm phương
vị, nhưng những vì sao ấy dù mới
đầu sáng đến mấy cũng cứ
mờ dần trên nền trời xám của
trí nhớ.
Đêm nằm trên võng bắc giữa hai chiếc cột của giàn hoa thiên lý, không ngủ được, tôi bỗng nhớ lại dạo tết hồi ấy có lần gần nửa đêm, tôi đang ngủ thì thấy giường lạnh, trở mình, chú Kiên không nằm ở đó. Tôi ngái ngủ mở mắt, thấy chú đang đứng im trong cửa sổ hướng ra sân sáng mờ mờ vì trước hiên lúc nào cũng có một cây đèn nhỏ thắp sáng. Tôi tò mò đến sau lưng, chú xua tay ra hiệu cho tôi quay lại, nhưng lúc ấy tôi cũng đã kịp nhìn thấy mẹ tôi từ ngoài sân đi vào dáng trầm ngâm. Hôm sau tôi để ý, lại thấy chú Kiên dậy một mình lúc khuya, lần này chú đứng bên cửa hông nhìn xuống bếp. Tôi lặng lẽ đến đứng sau lưng, nhưng chú không ngăn nữa. Mẹ tôi bước ra từ trong bếp, nơi giàn bếp có treo lủng lẳng những đòn bánh tét, bà cất để dành ra giêng làm món bánh tét chiên là thứ bọn trẻ rất thích. Bà cầm một đòn bánh tét trên tay, đứng im một lát, rồi đi xuyên qua nhà ngang, gần buồng ngủ của chúng tôi, hai người giúp việc khác đang ngáy to, tới trước sân, ngay chỗ đặt nồi bánh tét hôm trước, đặt đòn bánh xuống gần bụi sả, trên một tảng đá ong Thanh Hóa lớn, rồi trở vào nhà. Hôm sau bà cũng làm như thế, thêm bao nhiêu lần nữa thì tôi không nhớ, vì một hôm tôi mãi chơi suốt ngày mệt quá, ngủ thiếp đi, rồi hôm sau, như mọi đứa trẻ khác, quên bẵng hết mọi chuyện, quên một mạch mấy mươi năm, cho đến khi mùi hương của giàn hoa thiên lý đột ngột xông vào giấc mơ của một đứa trẻ, chiếu vào tâm trí của chú hình ảnh người giúp việc trung thành lúc thời thế thay đổi, thỉnh thoảng hứng chí nhấc bổng chú lên trời làm chú cười như nắc nẻ. Hình ảnh những đứa trẻ ngồi quanh đống lửa chụm đầu vào nhau nghe kể chuyện ma, chú như còn ngửi được mùi thơm hăng hắc từ bụi sả, mùi tre tươi của lạt mới chẻ, mùi lá chuối non hơi đắng, mùi nếp thơm lừng lững từ nồi nước sôi bay lên, tỏa khắp, làm chú chạnh nhớ đến đêm giao thừa đã xa, lo âu và hạnh phúc, đen và trong suốt.
N.Đ.T.
Các thao tác trên Tài liệu