Pariseine
Ngu YênPariseine1.
Tim
bay qua Đại Tây Dương Tim
có thể đi có thể bay có thể
bơi
Băng
qua đền đài Versailles, điện
Louvre, nhà thờ Notre Dame, vườn
Tuileries
Băng
qua Eiffel, vườn Luxembourge, bảo tàng Armée,
lâu đài Bourbon 2.
Chiếc
lá lượm ven sông Ngàn tượng thần
thánh dựng khắp phố phường mở
mắt đời đời nhìn thấy tang
thương
lá
rụng vào dòng sông
Viên
đá lượm ven sông viên đá vẫn còn
Để
có dòng sông Seine để
có dòng sông Seine chia đôi thành
phố
Đố ai biết Paris có bao
nhiêu tượng?
Để
có một Paris để có một
sông Seine
Để
có một Paris lầu cao hàng hàng lớp
lớp dãy ngang dãy dọc đồng hình
đồng dạng Để
có một Paris lộng lẫy tượng
thần Để có một Paris, phố xá hoa đèn rực rỡ, lòng sông Seine ghi lại biết bao đen tối Để có một Paris nổi
tiếng trăm năm Để
có một Paris sụp đổ
Để
có một Paris hôm nay, lòng sông Seine
ghi lại biết bao hơi thở
Đêm
Paris – Thưa ông, tôi đi lạc. – Westin khách sạn gần thôi. – Làm sao ông biết tôi? – Theo dõi chuyện trên đời, tôi là chiếc bóng. – Nhìn ông rất giống một người, Napoléon? – Chính tôi. Napoléon Bonaparte. – Chào ông. Lạ lùng quá! Vì sao ông lạc đến đây? – Mỗi đêm tôi vẫn đứng nơi này xem thử. Thiên hạ mấy ai nhận quen lịch sử. Họ ca tụng tôi vinh dự trong Louvre, nhưng thờ ơ ngoài thiên thu đời sống. – Ông có công với Pháp nhưng có tội sâu rộng. Người chết vì ông vì giấc mộng đế vương. Lịch sử chẳng qua là xấp giấy tầm thường, buồn vui mỗi ngày chẳng phải phi thường hay sao? – Cậu nghĩ tôi đáng tội thế nào? – Nếu tính bằng xác chết, làm sao ông có công lao thật? Nếu tính bằng xác chết, ông là một trong mười sát nhân bậc nhất trên đời. (Tiếng
hát văng vẳng từ sông Seine. Bài
Fugue de Mort của Paul Celan. ) – Tôi làm thơ nhưng không như thi sĩ tin thơ. Tôi làm thơ để thí nghiệm bất ngờ: Những suy nghĩ những kinh nghiệm về thơ thật sự. Tôi muốn viết những tình tự trí tuệ. Những bí mật giữa dòng lệ nụ cười. Những cảm xúc giữa đất và trời, giữa hư và thật, giữa men say rượu mạnh và trà Sen no Rikyu (2). – A, thí nghiệm. Đúng như vậy. Ai đi tìm thiên thu mà không thí nghiệm? Không thực hành, không biết đúng sai. Mỗi trận chiến là mỗi bài khảo hạch tài binh pháp. Thử thách khả năng cao thấp làm người. Xác nhận tự do ý chí hay ý mệnh do trời. Anh hùng can đảm hay tình cờ phản ứng. Mỗi chiến tranh là mỗi sử chứng tài năng. Lãnh tụ bất tử hay hoang mang chết yểu. Tôi thí nghiệm nhiều kiểu chiến tranh, để trí tuệ minh oan cho vô lý mong manh một đời. – Nói sao ông vẫn có tội giết người. Kết quả đúng hay sai có quá nhiều người chết và nhiều người tiếp tục khổ đau. Còn tôi, đúng hay sai, chỉ bài thơ vô cầu. Hay hoặc dở không mấy ai hơi đâu lưu ý. – Chứng minh hiện hữu cậu làm thơ đi tìm thẩm mỹ. Chứng minh hiện hữu tôi đánh trận đi tìm chân lý tài năng. Cậu là nghệ sĩ, tôi là quân nhân. Trong ngắn ngủi dấn thân vào đêm tối. Không phải thành bại là niềm tự hối chung thân. Chính là không-dám-làm sẽ muôn thuở ăn năn. – Nói sao đi nữa, ông vẫn là kẻ sát nhân. Dù thành hay bại vẫn ăn năn tự hối. Giết một sự sống là phạm tội thẩm mỹ. Mỗi con người là thẩm mỹ vẹn toàn một cách riêng. (
Tiếng hát lại vọng lên từ sông
Seine.) – Này cậu thi sĩ, chẳng phải có duyên mới gặp nhau. Hãy tự đốt đời mình như ngọn đuốc soi đen tối mai sau. Bây giờ tôi phải về cõi sầu bí tích. Trời sắp sáng. Cậu đi đến cuối con đường u tịch, rẽ hướng này sẽ thấy khách sạn u minh. – Còn ông đi về đâu? – Nơi tôi ở cậu không tới được. Nơi đó là cõi sầu nhân danh bất khả thi. – Rồi tôi cũng sẽ chết. – Không giống đâu. Tôi chết với lịch sử. Còn cậu, chỉ chết với thời gian. Thôi giã từ...
( Tiếng
hát từ sông Seine nhỏ dần rồi
tan vào vắng lặng.) 3.Sông
Seine mặt nước xanh rêu Il
était une fois la Seine
Il
était une fois la Seine bây
giờ sông Seine mai mốt sông Seine Pariseine! Pariseine! Pariseine!
Pariseine! Pariseine! GHI CHÚ:(1) Trích trong bài thơ Fugue de Mort của Paul Celan (1920-1970). Ông là một trong những thi sĩ được tuyển chọn vào hàng thi sĩ thế giới. (The Vintage Book of Contemporary World Poetry by J.D. Mc Clatchy. Và The Poetry of Our World by Jeffery Paine và một số tác giả khác.) Người Romania nhưng sang học ở pháp năm 1938. Trở về quê hương sau thế chiến thứ hai. Trở lại pháp năm 1948 và sống ở đây cho đến ngày ông trầm mình tự vận trong dòng sông Seine. Bài thơ Fugue de Mort được xem là một trong vài bài thơ nặng ký viết về sự thảm sát của Holocaust. (2) Sen no Rikyu: 1522-1591. Ông dẫn đầu một trường phái trà đạo ở Nhật bản. Cắt bỏ những phức tạp rườm rà, chuyên chú về đơn giản. Dùng những sáng tạo tầm thường biểu dương công phu và phẩm hạnh. Gọi là "Con Đường Trà Đạo". (3) Trích La Seine a rencontré Paris, bài thơ của Jacques Prévert được phổ nhạc. Hàng chữ nghiêng không phải là hàng dịch, chỉ là lời tiếp theo của bài thơ Pariseine. |
Các thao tác trên Tài liệu