SONG LANG – Cõi nhân sinh ngắn ngủi & Gặp nhau dù chỉ một ngày cũng là sinh mệnh
SONG LANG
CÕI NHÂN SINH NGẮN NGỦI &
GẶP NHAU DÙ CHỈ MỘT NGÀY CŨNG LÀ SINH MỆNH
Lê Hồng Lâm
(thư Xuân Quỳnh viết cho Lưu Quang Vũ)

Tôi chỉ vừa mới xem Song Lang khi
người ta đã bàn tán khá nhiều về nó và đã đọc kịch bản hơn một lần từ
hai năm trước, vậy mà nó vẫn để lại một cú hẫng khi đoạn kết khép lại
bộ phim. Bước vào rạp với một nỗi đau gia đình chưa thể nguôi ngoai và
bước ra khỏi rạp khi xem đến dòng credit
cuối cùng với một tâm trạng nặng trĩu. Sáng nay đọc được câu này trong
bức thư của Xuân Quỳnh viết cho Lưu Quang Vũ rút từ tập Xuân Quỳnh – nghịch lý
của tình yêu và số phận vừa mới được gia đình công bố nhân kỷ
niệm ngày mất của họ : “Cuộc sống
ngắn ngủi, con người chỉ đi qua cuộc đời như một vệt sáng rồi biến mất,
vĩnh viễn”.
Song Lang,
vì vậy với tôi lúc này là bộ phim nói về cõi nhân sinh ngắn ngủi. Và
gặp nhau dù chỉ một ngày cũng là sinh mệnh.
Đoạn kết của Song
Lang, với nhát kiếm kết liễu cuộc đời nàng Mỵ Châu lụy tình trên
sân khấu và nhát dao định mệnh kết thúc cuộc đời một kẻ vừa mới thức
tỉnh ở bên ngoài sân khấu, chỉ cách nhau vài chục bước chân, (và rồi
tất cả bị xóa nhòa nhanh chóng sau một cơn mưa), tôi phần nào đồng cảm
được với câu tagline của bộ
phim : “Khi sân khấu và cuộc đời hòa
quyện”.
Nếu có chút gì đó giống nhau giữa Song Lang và Bá Vương Biệt Cơ,
tôi nghĩ nó nằm ở điểm đó. Cả hai đều mượn câu chuyện sân khấu để nói
về câu chuyện cuộc đời, và thân phận con người. Cốt truyện của bộ phim
được lồng song song với cốt truyện của vở kịch trên sân khấu. Và cả hai
bộ phim đều mượn cái chết ở đoạn kết và để lại cho khán giả sự hẫng
hụt, day dứt. Có điều, một bên là kẻ chủ động chọn cái chết “kép” trên
sân khấu để hóa giải bi kịch cuộc đời; một bên là hai cái chết bị động
ở trên sân khấu và ngoài cuộc đời vì những ân oán, vay trả của kiếp
người mà họ phải gánh chịu.
Tất nhiên, sự tương đồng đó hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến diễn tiến
cũng như ngôn ngữ điện ảnh của hai bộ phim. Nếu Bá Vương Biệt Cơ
là một bộ phim về “đại tự sự” thì Song Lang là một
bộ phim về “tiểu tự sự”. Nếu Bá Vương Biệt Cơ
là câu chuyện của cả một giai đoạn lịch sử thăng trầm mà nhân vật trải
qua, thì Song Lang
chỉ là câu chuyện nhỏ của hai kẻ vô tình gặp nhau chỉ trong một vài
ngày. Chẳng có gì mới dưới ánh mặt trời này, hơn ai hết, giới sáng tạo
hiểu rõ điều ấy. Nhưng một kẻ chỉ thực sự được gọi là kẻ sáng tạo, khi
anh ta tạo ra được một câu chuyện của riêng mình, thấm đẫm “mùi vị”
cuộc đời của chính anh ta.
Cũng giống như nhiều người nói đạo diễn Song Lang chịu
nhiều ảnh hưởng của Vương Gia Vệ trong cách chọn màu sắc có phần rực
rỡ, bố cục của khung hình và dư vị hoài cổ về một thời họ từng trải qua
thì tôi cũng thấy rõ “mùi vị” riêng của gã đạo diễn Việt kiều lâu lâu
thích khoe hình body trên mạng để bộ phim này thực sự là tác phẩm của
anh ta, kể cả điểm hay và chưa hay, chứ hoàn toàn không phải là “vay
mượn” của ai khác.
Một đạo diễn điện ảnh giỏi với tôi là một người tạo ra được một thứ “atmosphere” (khí quyển) của riêng
mình và chinh phục được kẻ khác, trước hết phải là những người trong ê
kíp làm phim của anh ta cái đã. Khi nói chuyện với Hoàng Phúc, nam diễn
viên chỉ đóng một vai nhỏ và ít thoại trong bộ phim Xích Lô của Trần
Anh Hùng, anh kể lại với sự tri ân cảm giác không thể quên được về mặt
trải nghiệm nghề nghiệp khi làm việc chung với Trần Anh Hùng. Cả dàn
diễn viên, chính và phụ, chuyên nghiệp và nghiệp dư đều được Trần Anh
Hùng mời đến một không gian riêng biệt và tập làm quen với “atmosphere”, với tầng khí quyển của
đạo diễn trong vòng vài tháng và tách biệt hoàn toàn với thế giới bên
ngoài cho đến khi họ thực sự “ngấm” được tầng khí quyển của đạo diễn
tạo ra và thâm nhập vào đó.
Xem Song Lang,
phần nào tôi cũng cảm nhận được “tầng khí quyển” của gã đạo diễn Việt
kiều Leon Quang Le tạo ra. Hai
năm vừa qua, dù gần dù xa, dù tiếp cận kịch bản từ đầu và thấy được
tiềm năng của nó, dù là người giới thiệu kịch bản đến một nhà sản xuất
(nhưng không thành, đơn giản là chưa gặp duyên), tôi biết anh ta đau
đáu và nuôi giấc mộng với một bộ phim truyện dài đầu tay về sân khấu và
cuộc đời hơn là một anh diễn viên trên sân khấu Broadway hay tham gia
vài vai phụ mờ nhạt trong các bộ phim giải trí ở Việt Nam.
Tôi không biết trước đó bao nhiêu năm nữa, nhưng trong gần hai năm qua,
tôi thấy anh ta thực sự vật lộn với bộ phim này. Vứt bỏ cuộc sống phù
hoa ở ngay giữa trung tâm Manhattan để trở về sống trong một căn phòng
trọ của một khu chung cư Sài Gòn cũ. Hi vọng, thất vọng, và có thể cả
tuyệt vọng, rồi thì cả than phiền, lo lắng, trầm cảm, nghĩ đủ thứ
“thuyết âm mưu”... tất cả những thứ cảm xúc lên bổng xuống trầm của một
kẻ làm đạo diễn điện ảnh tâm huyết và không muốn bán rẻ nghề nghiệp của
mình, tôi đều thấy anh ta đã trải qua. Nên xem Song Lang, tôi
không ngạc nhiên bộ phim có thể làm tốt được đến vậy, trong những điều
kiện khó khăn, thậm chí khắc nghiệt mà bộ phim trải qua.
Cải lương, thứ nguyên liệu dù không nhiều nhưng đậm đặc (bởi không có
nó thì không có bộ phim) được tái hiện lên phim thật trọn vẹn. Trọn
vẹn, bởi anh ta yêu cải lương như máu thịt của mình (và cả những bộ môn
nghệ thuật truyền thống khác của Việt Nam như chèo, tuồng với dự định
làm một trilogy – tam bộ về
chúng). Trong những tháng ngày bộ phim bị bế tắc chưa tìm thấy đường
ra, thi thoảng tôi và thị Thắm nhắn tin rủ đi xem phim hay ăn uống gì
đó, anh ta thường nhắn lại bảo đang ở trong một lớp cải lương nào đó.
Anh ta chia thời gian của những buổi chiều ở phòng gym để luyện body
(dù có lúc trầm cảm đến độ mấy tháng không thủ dâm – là tự khai thế),
và các lớp cải lương ở nhà hát Trần Hữu Trang hay các soạn giả kỳ cựu
để thứ nghệ thuật truyền thống ấy thấm đẫm vào mình. Tôi thường nói đùa
anh ta là thứ dễ dãi vì chơi với một nửa Sài Gòn (trong đó có 2/3 là
dân cải lương) và thường rủ mọi người đến nhà để nấu nướng hầu hạ (với
món canh luôn nêm bằng đường ngọt lừ, bảo sao phim có những chỗ sến
thế). Vì thế mà với Song Lang, anh
ta không chỉ là đạo diễn, đồng biên kịch, dựng phim, (và chắc là còn
nhúng tay vào sản xuất, phục dựng bối cảnh, chỉnh màu, âm thanh, âm
nhạc...) mà còn là một soạn giả cải lương thứ thiệt với rất nhiều câu
vọng cổ, những bản cải lương được soạn riêng cho phim.
Nếu trong diễn xuất, có một thứ kỹ thuật gọi là “method acting” (tôi tạm dịch đó là
kiểu diễn nhập hồn nhập xác) thì trong đạo diễn, nếu có một thứ gọi là “method directing”; tôi nghĩ anh đạo
diễn Việt kiều này đã vận dụng nó vào bộ phim của mình. Không chỉ là
cải lương; căn phòng trọ của Dũng trong căn chung cư cũ kỹ đích thực là
căn hộ mà anh ta đang ở, cũng đậm chất retro và điệu đà nhiều hoa lá (dù
hoa lá cá cảnh ở nhà anh ta thường chết queo sau mỗi lần về New York
thăm bồ). Cái cầu thang ẩm mốc cũ kỹ, ánh sáng buổi sớm chiếu qua những
khe hở hoa văn trên bức tường chung cư, con phố đêm hiu quạnh dưới ánh
đèn đường, trò chơi điện tử 4 nút và rất nhiều thứ khác của hai nhân
vật chính, đều là cái không gian sống quen thuộc của một Sài Gòn xưa cũ
còn sót lại mà anh ta sống qua trong hơn một năm qua. Thậm chí lựa chọn
khung hình aspect ratio 3:2
cho bộ phim cũng có thể là một ảnh hưởng từ bộ môn nhiếp ảnh mà anh ta
làm việc trong vài năm ở New York.
*
Nhưng Song Lang
không chỉ đáng khen vì tái hiện một thời vàng son và cay đắng của cải
lương hay Sài Gòn những năm 80 thật đẹp mà còn là câu chuyện cuộc đời
của hai gã đàn ông cô độc tình cờ chạm vào nhau trong một vài ngày ngắn
ngủi. Bỏ qua yếu tố du hành thời gian với con người, đồ vật, nơi chốn
qua câu thoại nghe khá sến và phần nào khiên cưỡng so với nhịp thoại
ngắn gọn, sắc lạnh của bộ phim; bỏ qua những đoạn flashback (hồi ức) của Dũng thiên
lôi về tuổi thơ khiến phim bị trễ nhịp, sến và cũ – tôi thực sự đồng
cảm với câu chuyện của hai nhân vật chính, qua ánh mắt họ dành cho nhau
và tìm thấy nhau. Đôi mắt của hai kẻ cô độc ấy chỉ thực sự tìm thấy
được sinh khí khi họ va vào nhau và thấy được nhau, cho dù từ cái nhìn
tò mò lần đầu tiên chạm nhau, cái nhìn giận dữ và mỉa mai lần thứ 2
đụng nhau và những cái nhìn bắt đầu thấu hiểu tâm can của nhau sau một
đêm ở cùng nhau trên căn gác cũ (mà không cần phải làm gì). Vì thế mà
yếu tố đồng tính không được thể hiện rõ và khá mờ nhạt trong phim
(khiến những khán giả mê phim đam mỹ thất vọng), tôi vẫn thấy đây là
một phim lãng mạn và đầy tinh tế về đồng tính qua lối diễn xuất đầy chemistry, qua khả năng diễn xuất
bằng mắt giữa hai diễn viên Isaac và Liên Bỉnh Phát.
Tôi nhớ có một bài bình luận về phim Carol trên
youtube, trong đó tác giả đặt nhan đề là “Đặc quyền trong đáy mắt” và chọn
những trích đoạn mô tả ánh nhìn đau đáu giữa hai nhân vật Carol (Cate
Blanchett) và Therese (Rooney Mara) dành cho nhau. Tôi cũng nhìn thấy
cái “đặc quyền trong đáy mắt”, cái “gaydar”
đó giữa hai nhân vật Dũng và Linh Phụng trong Song Lang dù họ
chưa hề chạm vào nhau về mặt xác thịt. Hầu hết các bộ phim về đề tài
đồng tính đều có yếu tố nhục dục (như một tất yếu chứ chẳng phải “xôi
thịt” gì cả như anh đạo diễn thường nói với báo giới), trong Song Lang, nhục
dục hoàn toàn bị triệt tiêu, đơn giản là nó chưa kịp đến (thì hết cơ
hội rồi), đơn giản bởi đạo diễn muốn thoát được một cái bẫy có thể bán
thêm được vài trăm vài ngàn tấm vé, nhưng có thể khiến anh ta phải thỏa
hiệp về mặt nghề nghiệp.
Cũng phải lâu lắm rồi, điện ảnh Việt mới có hai nhân vật chính, hai “protagonist” thực sự đáng giá trong
một bộ phim khiến người xem thấy được nội tâm và chiều sâu của nhân
vật. Isaac đã hoàn toàn thoát khỏi cái mác ca sĩ đóng phim (và rất có
thể lại bị cái mác này rơi vào đầu nếu chọn phim dễ dãi trở lại) để vào
vai Linh Phụng, một anh kép hát cải lương cô độc với ánh nhìn luôn lảng
tránh hay che giấu một điều gì đó. Càng về cuối, với sự thăng hoa trên
sân khấu và những biến động cảm xúc, sự bồn chồn nôn nao với món quà
trên tay trong cánh gà và ánh mắt tìm kiếm khi nhìn về khán giả, sự cô
độc lẻ loi khi rời khỏi nhà hát khi không còn một bóng người, ta thấy
được cái nỗi niềm của một anh nghệ sĩ, một người đàn ông khát khao được
thấu hiểu, khát khao được tìm thấy một tri kỷ trong cuộc đời. Isaac đã
diễn tả những cung bậc cảm xúc ấy thật trọn vẹn, không non nớt cũng
không già dặn, vừa vặn với chiếc áo nhân vật mà anh ta mang.
Phải nói sao đây về Liên Bỉnh Phát với vai Dũng thiên lôi ? Với tôi,
đây là một phát hiện đáng giá nhất của điện ảnh Việt Nam trong nhiều
năm qua với tình trạng âm thịnh dương suy trên màn ảnh. Liên Bỉnh Phát
khiến tôi nhớ đến những nam diễn viên nam tính và diễn hay của trước
đây như Đơn Dương, Lê Công Tuấn Anh, Thiệu Ánh Dương... Anh ta cũng
khiến tôi nhớ đến những phát hiện đáng giá của điện ảnh Việt qua những
bộ phim đầu tay, như Tạ Ngọc Bảo trong Thương Nhớ Đồng Quê
của đạo diễn Đặng Nhật Minh, Lê Văn Lộc trong Xích Lô của Trần
Anh Hùng, Lê Thế Lữ trong Mùa Len Trâu của
Nguyễn Võ Nghiêm Minh. Đó là những diễn viên được phát hiện và tỏa sáng
nhờ rơi vào tay đạo diễn giỏi và biến mất sau đó vì không tìm thấy cơ
hội nghề nghiệp thứ 2. Tôi mong điều đó không xảy ra với Liên Bỉnh Phát
vì anh có quá nhiều tố chất của một nam diễn viên hàng đầu (chứ không
phải một ngôi sao hàng đầu).
Dũng thiên lôi dù rất khác nhưng nghĩ kỹ lại là một phiên bản khác của
Linh Phụng. Anh ta là một gã giang hồ đòi nợ thuê cô độc, vô cảm nhưng
mang trong mình một tư chất nghệ sĩ chờ được đánh thức; anh ta là một
kẻ đa cảm cố ẩn giấu và cũng khao khát tìm thấy một tri kỷ trong cuộc
đời. Anh ta có một điều gì đấy như chết ở bên trong (như nhân vật Nhà
thơ do Lương Triều Vỹ đóng trong Xích Lô) nhưng
anh ta cũng chờ đợi được hồi sinh, chờ đợi một kẻ khác đánh thức để
phục thiện. Hình ảnh Dũng thiên lôi ngồi khóc câm lặng (theo nghĩa đen)
với góc máy cao dưới bầu trời đêm (với ¾ hình trời) là một trong vài
hình ảnh đầy chất điện ảnh và đẹp nhất của bộ phim này.
Lối diễn xuất trầm, sắc lạnh, cộc lốc ; cái triết lý làm nghề lạnh lùng
vô cảm, sự thay đổi có phần chóng vánh sau một đêm tao ngộ với Linh
Phụng đều được Liên Bỉnh Phát vào vai với sự chín tới, tiết chế cao độ
mà bung phá cũng mạnh mẽ. Có lẽ vì thế mà cái kết để lại mới gây sốc và
ám ảnh đến vậy.
Song Lang – hai gã đàn ông cô độc tình cờ tìm thấy nhau sau một đêm rồi
lạc mất nhau vĩnh viễn. Song Lang (loan) – cái dụng cụ dùng để giữ nhịp
trong bộ môn cải lương hay nhạc tài tử để lại một cái kết đanh gọn, có
cao độ lớn và âm vực rộng vang xa như âm thanh của thứ nhạc cụ này vậy.
Xuân Quỳnh nói : “Cuộc sống ngắn
ngủi, con người chỉ đi qua cuộc đời như một vệt sáng rồi biến mất, vĩnh
viễn”.
Và gặp nhau trong cõi đời này, dù chỉ một ngày cũng là sinh mệnh.
Lê Hồng Lâm
NGUỒN : Trang FB của Lê Hồng Lâm (24.8.2018)
Các thao tác trên Tài liệu