Tết xưa
Tết Xưa
Thái Kim Lan
Trong những hình ảnh về ngày Tết mà tôi còn giữ được thời thơ ấu, thì Tết đối với tôi là Tết Bà, mà tôi gọi là Tết Mệ Nội chứ không phải Tết Mạ. Bởi vì mỗi khi Tết đến, cả đại gia đình chúng tôi đều kéo nhau lên nhà Từ đường “ăn Tết”, có nghĩa quây quần chung quanh vị phu nhân trưởng tộc của dòng họ là bà nội tôi.
Mỗi năm cứ vào cữ 20 Tết – gọi là hai mươi làm tốt –, trước ngày đưa
ông Táo về trời, là lúc lũ trẻ con chúng tôi dưới phố được gửi lên vườn
nhà Từ Đường họ, tọa lạc gần chùa Linh Mụ, ở với bà nội và giúp Bà thay
ba mạ bận công việc chưa lên sớm được, chuẩn bị ngày Tết. Các anh con
bác từ dưới Ô Hồ lên, chúng tôi từ Hàng Đường, các anh bên An
Cựu, các chị bên Nguyệt Biều, chợ Thông, Kim Long đều lũ lượt kéo nhau
đến với Bà ở dốc đồi Hà Khê.
Còn nhớ hình ảnh bà đứng đó, dưới hiên từ đường, trước cửa bàng khoa,
đón từng đứa cháu. Bà mặc bộ áo ngắn, quần rộng vải bông, màu trắng ngà
vào mùa đông, bộ áo lụa vào mùa hè, dáng gầy, tóc bạc, gương mặc thanh
thoát. Bà đứng mà đếm từng đứa, mãi cho đủ số các cháu được ba mạ gửi
lên, mới trở vào nhà. Khu vườn bỗng rộn tiếng cười nói giòn giã của lũ
trẻ làm cho gương mặt của bà tươi hẳn lên. Anh em chúng tôi khoảng hơn
mười mấy đứa, đều là con bác con chú con cô ruột, người lớn nhất hơn
người trẻ nhất khoảng mươi tuổi, nhiều đứa xấp xỉ tuổi nhau, nên gặp
nhau là vui nhộn. Có người bị ba mạ biểu lên, có đứa thích lên vườn mệ,
đứa thích trong số đó có tôi, người không thích là các anh con trai, ở
dưới phố vui hơn, lên vườn thì hơi chán, ngoại trừ trèo cây hái trái
hay ra vườn lùng thơm mít chín trong những ngày hè, nhưng tháng chạp
thì chán nhất, chẳng có quả nào ngoài những trái hồng khô hắt hiu trong
gió, cây lão mai đang mơ hoa ngày mồng một Tết. Rực rỡ duy nhất chỉ có
cây hải đường đang khoe sắc thắm với những cánh hoa hồng tươi, mà hải
đường với lũ con trai thì chỉ lượm hoa rơi dùng để đá kiện, cho đến khi
hoa tơi tả, rồi cũng chán. Tay chân các anh dài ngoằng, thừa thãi nếu
không có trò chơi hay việc làm. Cả bọn chỉ trông đến Tết nên mới hào
hứng kéo nhau lên Bà. Cho nên đối với Bà tôi, bắt đầu từ ngày 20 Tết là
thời gian bận rộn nhất của bà. Phải “thống lĩnh ba quân”, nói theo
tuồng hát Phàn Lê Huê mà bà hay dẫn tôi đi coi hát bội ở phủ bà chúa ở
Ngự Viên,… từ ngoài vườn vào trong bếp. Ba quân đây trước ngày ông Táo
là anh chị em chúng tôi, còn những ngày từ 22 Tết là phần mứt bánh nấu
nướng nhộn nhịp của các bà dâu nội trợ. Từ trong ra ngoài đâu đâu cũng
có tiếng khuyên tiếng bảo của bà, để chuẩn bị một cái Tết cổ truyền của
dòng họ.
Sau khi cho chúng tôi ăn chè đậu ván bà đã làm sẵn để dành, ấy là lúc phân công. Trước hết là chùi đồ đồng, các bộ tam sự, ngũ sự ở các bàn thờ, việc đó dành cho các anh con trai. Buổi sáng bà đã nhắc mụ Nậy nhớ hái khế chua, múc tro và trấu để sẵn chờ các anh lên. Thế là các anh mỗi người một thứ, chu môi, thè lưỡi hì hục đánh bóng các lư, chân đèn, mâm đồng, bình hoa, quả bồng. Mà các anh vừa làm vừa sai mấy đứa nhỏ như tôi, đứa thì múc nước, đứa thì đưa khế, đứa thì múc trấu… Náo nhiệt cả một góc vườn. Bà tôi vừa nhai trầu vừa thủng thỉnh đi quanh xem các cháu làm, vừa nói : “Tết nhứt, điều quan trọng trước hết là bàn thờ tổ tiên, rồi mới đến nhà cửa. Bàn thờ thì phải trong bóng, tươm tất, sạch sẽ, ông bà mới phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, gia đình ăn nên làm ra, việc chùi rửa các đồ thờ cúng phải nhờ con trai, nối dòng nối dõi, ấy là báo hiếu cho tổ tiên, các con nên làm cho giỏi. Còn mấy đứa con gái thì làm việc khác”.
Bà tôi hay hóm hỉnh làm thơ, đổi luôn những câu thơ gia huấn “trai thì
đọc sách ngâm thơ” ra “trai thì đánh bóng lư đồng” để tặng các
đứa cháu trai, quay qua các chị, bà cũng ngâm “gái thì soạn chén dĩa
bồng đơm cơm” rồi dẫn các chị vào trong đông phòng, nơi bà cất giữ
rương chén bát kiểu xưa thường dùng trong những ngày cúng kỵ, lễ lượt,
tết nhứt trong gia đình. Bà bảo các chị nhẹ tay bê các tô, chén dĩa đem
ra bàn để rửa sạch và lau chùi. Sau em trai tôi, tôi là đứa cháu gái bé
nhất nên bà không cho đụng đến các đồ kiểu quý của gia đình. Nhưng tôi
lại học được nhiều khi lắng nghe bà đưa từng chén từng dĩa lên bình
phẩm và định chức vụ của chúng cho các món ăn. Chén bát tiên nội phủ
nhỏ dành để múc chè, chén kiểu mai hạc dùng cho xúp hay cơm, các dĩa
ngoạn ngọc quý phái hay tô kiểu vẽ các sự tích Lã vọng ngồi câu cá hoặc
ngư tiều canh mục… dùng để đựng các món bát bửu nước, dĩa rồng phượng
và mai hạc cỡ nhỏ để đơm xôi hay sắp các món xào nấu. Vừa bày vẽ cho
chúng tôi, bà vừa kể các sự tích được minh họa trên đó. Giọng kể của bà
có sức thu hút đưa tôi vào ngay dòng sông hay rặng núi của thời xa xưa
mà lại gần gũi, như kề bên, như thử chúng chính là sông Hương và rặng
núi Kim Phụng, khung trời mà tâm hồn tôi đang thân thiết tẩm gội và hít
thở từng giây phút của tuổi thơ. Chúng thân thiết đến nỗi ngay cả khi
bình vỡ chén tan, người đã thành cát bụi, không gian ấy chỉ cần một gợi
nhớ là đã gây cảm giác thân thuộc như hơi thở của bà.
Trong các anh chị em, tôi thích nghe bà kể chuyện nên hay níu áo bà và
được gần bà nhất trong ba ngày Tết. Sau khi giao việc cho các anh các
chị, bà thường nắm tay tôi đi quanh. Xuống bếp dặn các bác các cô chuẩn
bị lá dong, lá chuối, lá dứa, thái thịt, vút đậu, lột hành, tiêu muối
nước mắm. “Con heo ụt ịt đòi hành đòi tiêu” bà dặn dò nêm, nếm mắm muối
đều phải thấu biết tính chất từng loại thực phẩm, theo kinh nghiệm ngày
xưa, “xưa làm nay bắt chước”. Bà ấn định khổ bánh và dặn dò cân lượng.
Chuẩn bị Tết, nhà bếp là nơi rộn ràng nhất. Nấu bánh chưng bánh tét,
làm mứt, làm bánh, nấu cỗ cúng. Bà biết tài khéo từng người mà giao
việc. Dưới sự chỉ bảo của bà các bác các chị đều cố gắng trổ tài làm
khéo. Cô tôi từng được khen ngợi có tài tỉa gọt các thứ củ thành những
bông hoa hay con thú để làm dưa món dùng cho bánh chưng và bánh tét.
Vào dịp Tết dĩa dưa món của cô bày trên bàn là một tác phẩm đẹp mắt đến
thèm và thương : một bản hòa ca sắc màu của đủ loại hoa và thú vật đáng
yêu, tôi thích nhất những búp hoa ngọc lan bằng đu đủ, những nụ hồng
xinh, những hoa cúc sang quý, những cánh bướm vàng, những chú ngọc thỏ
trắng muốt, ăn vào giòn tan và ăn luôn cả khoái cảm thẩm mỹ như âm vang
một cung đàn chuồi sâu vào bên trong. Cô khéo tay thế ấy mà bà vẫn bảo
còn thua các nàng cung nữ trong cung, các bà có nhiều ngày giờ làm khéo
từng ngón tỉa tuyệt hảo để được vua khen thưởng.
Bác tôi khéo nhất với các món bánh ít đen và ít trắng. Bà tôi bảo ngày
Tết là ngày linh diệu của trời đất giao hòa, cho nên hai thứ bánh ấy
không thể thiếu, chúng biểu hiệu âm dương hòa hợp, bà giao cho con dâu
cả làm thứ bánh ấy như ủy thác một nhiệm vụ lớn lao gánh vác gia nương.
Trong vườn đã có khóm lá gai trồng sẵn, lá chuối thì bốn bề phủ phê, lá
dừa bốn mùa chải gió. Vườn Huế là một kho lưu trữ sinh thái cho bếp
Huế, có thể cung cấp các loại rau sạch không những cho bữa ăn thường
ngày mà cho cả những tiệc tùng, từ ngọn rau răm cho đến trái vả, từ
ngọn tần ô cho đến lá dứa lá dừa. Tất cả đều nhờ bà tôi ngày ngày thầm
lặng chăm chút khu vườn, đem cây cỏ khắp nơi về vun bón như lẽ sống của
chính bà, để cho con cháu về sau thiếu chi cũng chạy ra vườn, được
hưởng lộc mà không hay.
Cứ theo truyền thống gia đình, ăn Tết là một trong những dịp bánh trái
được làm nhiều nhất. Bánh ít đen làm bằng bột nếp và lá gai quết
nhuyễn, bánh ít trắng cũng bằng bột nếp và nhân thập cẩm. Bánh nậm bằng
bột gạo, bánh phu thê bằng bột sắn, bánh phục linh bằng bột bình tinh,
bánh đậu xanh, bánh sen tán, bánh bó, bánh măng, bánh dừa mận, bánh vả.
Còn mứt thì có mứt hạt sen, mứt gừng mứt cam quất, mứt bí đao, mứt me,
mứt dừa, mứt khoai, mứt cam, mứt thơm, mứt khế, hồng ngâm. Bánh hấp thì
gói bằng lá chuối, lá dong hoặc lá dừa, bánh khô thì gói bằng giấy ngũ
sắc. Bà tôi bảo “học ăn học nói học gói học mở” cho nên mỗi cái bánh
đều phải được gói đẹp tận tình. Thế là lũ nhỏ chúng tôi được bà dạy cho
cách gói bánh, bẻ khuôn. Bánh ít trắng được gói bằng lá chuối đã hơ
mềm, hình nóc chùa, hay hình lục giác – à tôi nhớ bánh này vậy mà gói
không dễ, nơi hai đầu lá chuối phải xếp li, bánh ít đen cũng bằng lá
chuối hình cái bàn nhỏ vì bánh được vo tròn. Gói bánh quan trọng là
cách bẻ góc để tạo hình. Vui nhất là khi làm “hộc” (khuôn) cho bánh phu
thê (chúng tôi gọi là su sê) bằng lá dừa, một cái bánh có hai khuôn,
khuôn trên và khuôn dưới, khuôn dưới đựng bột bánh được hấp chín, khuôn
trên bằng lá dừa tươi là nắp bánh, lắp vào nhau thành một cặp nên gọi
là phu thê, đó là một trong những loại bánh vừa ngon vừa đẹp nhất, hồn
nhiên mà quý phái của bếp Việt Nam. Mà sao cái bánh nào được bà tôi chỉ
dẫn cũng lại vừa ngon – ồ vì chúng tôi vừa gói vừa được
thử bánh chăng – mà vừa đẹp – vì cái nào xấu là bị lủm ngay – nên bánh
nào cũng về nhất – để cả lũ trẻ con cùng cười hớn hở vì đứa mô cũng về
nhất cả ! Hãy nhìn xem cái bánh sen tua đẹp chừng nào, hay bánh phục
linh bằng bột bình tinh ướp hoa bưởi thơm lừng trong cổ khi được cắn
vào, những chiếc bánh mà bà tôi khổ công nắm tay từng đứa chỉ vẽ cho
cách xếp góc, bẻ góc sao cho tua giấy tung ra muôn màu, sao cho bánh
được vuông vức mai khôi. Vô hình trung, đây là những giờ học thủ công
mỹ thuật hồn nhiên, nhưng lại thẩm thấu sâu xa vào tâm hồn thơ dại của
chúng tôi hơn lúc nào. Về sau giữa những cơn trầm kha nắng mưa gay gắt
của cuộc đời, thoảng khi nhớ về những ngày ấy, mới nhận ra mình đã một
lần ở trong thế giới thần tiên.
Thần tiên ấy là nắng xuân đang vừa được mặt trời hé mở dịu dàng, là ánh đèn dầu vàng chiếu đủ những mái tóc xanh bên đầu bạc, là xanh đỏ tím vàng trắng hòa quyện thiên nhiên với bàn tay con người, những ngón tay nhỏ đan xen với lá, với bột, với giấy, với hương thơm tinh khiết của hoa và gió vừa đượm nồng. Giấc ngủ của chúng tôi thường đến bất ngờ giữa lòng bà, mẹ anh hay chị với giấc mơ cổ tích mà bà vừa làm vừa chỉ bảo vừa kể chuyện hay ngâm thơ. Giấc ngủ được ru bằng tiếng của bà xen lẫn tiếng chày khuya, tiếng lá, bằng hương thơm của những chiếc bánh và mứt gừng đang riu đường trên chảo. Tôi yêu những câu chuyện của bà nhất là chuyện Trạng Cóc hay Nàng Cóc. Nàng cóc trở nên một thiếu nữ yêu kiều, sau khi đi thi công ngôn hạnh được về nhất, công ngôn hạnh vẹn toàn thì dung mới được bộc lộ, dung ấy là sắc đẹp làm người vẹn toàn công ngôn hạnh, mà công là làm bánh đẹp cho những ngày Tết ấy như trong mơ.
Hết phần bánh trái, quay sang sửa soạn lễ lượt trong ba ngày Tết, thì
đứng đầu là y phục tươm tất. Hình như đối với những đứa bé — và đối với
bà tôi — ngày Tết chỉ là Tết khi được có áo mới. Cho nên bà căn dặn con
dâu và con gái nhớ đừng quên may áo mới cho tất cả những thành viên
trong gia đình. Ngày trước, dịp Tết là dịp cho mọi người thay áo mới,
xuân thu nhị kỳ, chứ không phải như bây giờ, thời trang thay đổi như
chong chóng, các bà các cô đổi áo mới liên tục. Về đêm giữa mơ và tỉnh,
còn nghe bà căn dặn mẹ qua tấm mùng, về màu sắc áo mùa xuân. Đó là thời
áo dài thường được mặc đôi, hai chiếc nhất là vào dịp Tết trời còn se
lạnh, gọi là áo cặp, trong một chiếc áo dài vải lụa nhẹ, ngoài áo dài
vải lụa the hay gấm, vào dịp cưới hỏi, sinh nhật và dịp Tết, quần thì
nên chọn thứ vải lụa đi với áo gấm, áo nhung, hoặc áo lụa, đừng ham lòe
loẹt, sặc sỡ. Áo cặp ngày Tết bà thường dạy phải tinh nhạy chọn màu,
trong màu hồng nhạt ngoài màu xanh biển, trong màu xanh rêu ngoài màu
san hô, trong đỏ ngoài the nâu, tím thì đi với xanh lục hoặc vàng mơ,
đừng có sặc sỡ như màu hát bội hay cải lương, đều là cách phối màu áo
tế nhị của người xưa. Bà còn căn dặn trẻ con thì may áo bằng vải
lụa dày hay vải phin, quần rộng để chạy nhảy cho dễ, đừng theo mốt thời
nay may áo bằng vải ni-lông mặc bịt bùng. Nghe bà căn dặn mẹ may áo cho
con, thì tôi đã mơ một chiếc áo mới ngày mồng một Tết sẽ được xúng xính
với các anh chị vào mừng tuổi bà. Lời bà biết bao cẩn trọng và tin yêu
cho mọi người, hình như càng về sau, mình mới hiểu được hết ý nghĩa của
nếp nhân sinh từ chiếc áo, cái bánh, miếng mứt ngày Tết.
Chuyện Tết với bà tôi hầu như vô tận. Hết chỉ dẫn điều này đến điều
khác, lắm khi như chuyện thần tiên, lắm khi như một giấc mơ. Đối với
đứa trẻ lên 8 tuổi thì những ngày trước Tết quả là dài vô cùng, khi lẽo
đẽo theo bà. Cho đến khi một sáng ngày cuối năm, mụ Nậy đun nồi nước
trong vườn um khói, trước khi bếp được dùng để nấu bánh chưng bánh tét.
Lu nước mưa bên cạnh sóng sánh hoa mộc hoa bưởi trong vườn, mùi chanh
bốc thơm phức. Ấy là lúc sửa soạn cho bà tôi tắm tất niên.
Cuộc tắm Tất Niên của bà được xem là dấu mốc chấm dứt công việc tề gia
nội trợ của năm cũ, thảnh thơi bước vào năm mới với con người mới. Chị
tôi được bà cho phép kỳ lưng, còn tôi được phân công dội nước cho bà
tắm, tôi xin được làm việc dội nước cho bà. Mới biết bà tôi mặc 5 lớp
áo cụt suốt mùa đông, túi này chồng lên túi khác đều có chức vụ riêng
như ví cất tiền, ví cau trầu, ví khăn mặt !!! Lần đầu tiên tôi được
chiêm ngưỡng bà tôi, gầy khẳng khiu, chân ốm tong, tay dài như hai
những nhánh lão mai trước sân nhà, ngón tay muốt dài, ngực bà không còn
căng, khác với mẹ và chị, nhưng hơi ấm từ lồng ngực vẫn tuôn ngào ngạt
thơm mùi sữa. Bà tôi vốn người mảnh mai từ thuở còn thiếu nữ và vẫn giữ
cốt cách ấy trong suốt đời người.
Ôi bà tôi gầy và mỏng manh trong gió đông… Tưởng chừng giấc mơ thần
tiên đêm ba mươi đã bay đi với chiếc áo, và tôi nghe chừng như mình sắp
òa khóc, yêu bà, thương bà nhăn nheo gầy guộc đến quên cả chiếc áo mới
đang mơ.
Thế rồi, trong khói sương mồng một Tết, khi mẹ tôi mặc cho chiếc áo mới
và bồng tôi ra ngoài mừng tuổi bà, tôi còn ngái ngủ với giấc mơ chưa
trọn. Bàn thờ gia tiên bừng trong ánh sáp, chiếu sáng choang những lư
đồng đang nghi ngút trầm hương, những quả bồng bánh rực rỡ đủ màu,
những khay mứt thơm lừng mùi Tết. Mọi người trong gia đình đang chỉnh
tề khăn áo, lũ trẻ chúng tôi được sắp hàng thứ tự để quỳ lạy chúc Tết,
mừng tuổi bà.
Và tôi thấy, với đôi mắt mở to, bên cành mai rực rỡ vừa đơm bông, bà
tôi ngồi cạnh hập tộ, vẻ thanh thoát đẹp như tiên trong cặp áo lục
điều… một nhành mai cốt cách đẹp nhất thế gian !
Thái Kim Lan
Các thao tác trên Tài liệu