Tháng Ba con ong đi lấy mật
Tây Nguyên (4)
Tháng Ba con ong đi lấy mật
Nguyên Ngọc
Tôi vừa có dịp trò chuyện với một chị bạn ở châu Âu về. Chị ấy là người Việt sống ở Đức và đang học về nghệ thuật đương đại. Chị về nước thực tập và muốn đi Tây Nguyên, có ý rủ tôi đi cùng. Lần này chưa tiện, tôi hẹn chị lần sau. Trong khi chờ đợi, chúng tôi nói chuyện với nhau về Tây Nguyên và về nghệ thuật đương đại. Tôi nói về Tây Nguyên mà chị chưa biết, còn chị nói về nghệ thuật đương đại mà tôi mù tịt. Suốt buổi. Kết quả bất ngờ: hóa ra câu chuyện của chúng tôi, về hai điều ngỡ rất xa, cuối cùng lại nhập thành một. Nói thế này thì hơi sớm – sớm cho câu chuyện tôi đang định kể với các bạn, chứ không phải cho đề tài cuộc nói chuyện của chúng tôi – thật lạ: nghệ thuật Tây Nguyên đương đại một cách kinh ngạc. Thậm chí chị ấy còn bảo có vẻ nó đi xa hơn cả đương đại, cái mà phương Tây vừa khám phá ra cũng chưa lâu và rất tự hào, và chị đang được người ta dạy cho ở bên ấy như là một trong những điều mới mẻ nhất, hay nhất của thế giới và con người. Nghĩa là – lại nói quá sớm nữa rồi – theo chị, những người được coi là ở xa nhất về hướng cội nguồn của cuộc sống và của nghệ thuật, lại gặp, và còn vượt lên trước, lên trên những người nghĩ rằng mình đang đi xa nhất về phía trước, trong cuộc đi tới lâu dài của thế giới, ít ra là thế giới nghệ thuật.
Sự thể là thế này. Tôi nói với chị về tượng nhà mồ Tây Nguyên mà tôi bị
ám ảnh khôn nguôi từ khi chạm phải lần đầu hơn nửa thế kỷ trước. Ám ảnh
mãi vì những bí mật của nó mà theo chỗ tôi biết từ rất lâu hàng nghìn
chuyên gia uyên bác và say mê đã miệt mài giải thích không xong. Về tất
cả các mặt của nền nghệ thuật kỳ lạ này. Chẳng hạn, tượng mồ mà chẳng
hề giống bất cứ tượng mồ nào từng thấy khắp nơi xưa nay. Không phải
tượng chân dung người đã khuất, để tưởng nhớ hay tôn vinh. Không là
tượng nói về nổi đau hay niềm thương tiếc của người còn sống. Cũng
không có ưu tư cái chết, hầu như chẳng chút dính dáng đến nó, không
vướng víu tí nào trằn trọc tử sinh, như tất cả những gì liên quan đến
các nghĩa trang tất phải gợi cho con người… Có dịp lên Tây Nguyên, ngày
trước ở đâu cũng gặp, bây giờ thì phải chịu khó lặn lội tận những làng
thật xa, nơi chưa bị cái gọi là hiện đại hỗn hào tàn phá, hãy tìm đến
các nghĩa trang, làng nào cũng có, thường nằm về hướng tây của làng, và
ngắm tượng mồ. Thật lạ lùng: cả một thế giới rộn rã, sống động, chen
chúc, vui tươi. Cả một xã hội. Cái gì cũng có, cái gì có trong cuộc đời
xao động hằng ngày thì đều có ở đấy, càng rộn rịp hơn vì tâp trung hơn,
lại đặc biệt cách điệu nên đậm hơn... Và nhiều nhất, đẹp nhất, say sưa
nhất là cảnh phồn thực công nhiên và ồn ào, niềm vui tươi rực rỡ của
con người tạo nên sự sống, cuộc hoài thai rạng rỡ của người đàn bà đẻ
ra thế giới, niềm khoái lạc của hai giống sáng tạo nên cuộc đời... Sao
vậy? Sao lại công phu và tài hoa làm ra cả một thế giới chói lòa ánh
sáng của sự sống đến thế để rồi lại đem đặt vào nơi lẽ ra phải tang tóc
như thế này? Những con người này nghĩ gì và muốn nói gì về sự sống và
cái chết? Về cõi bên này và cõi bên kia, về ý nghĩa của người trong
dòng chảy không cùng của tự nhiên?… Chỉ xin nói thêm điều này: lễ bỏ
mả, lần tiễn đưa cuối cùng người đã chết đi khỏi thế giới chúng ta,
tang lễ thật sự ở trên này, thường vào tháng Ba – “tháng Ba con ong đi
lấy mật” – là lễ hội lớn nhất, đông đảo nhất, vui nhất ở Tây Nguyên. Lạ
không?...
Một bí mật khác, về việc chế tác tượng. Người Tây Nguyên chân chính –
xin lỗi, nay còn được bao nhiêu? – khi làm tượng chỉ sử dụng duy nhất
chiếc rìu. Tuyệt đối không còn bất cứ gì khác. Chiếc rìu, công cụ đầu
tiên của con người, tước ra từ mảnh đá – trong khảo cổ học người ta gọi
đó là “mảnh tước” – để bắt đầu cuộc chinh phục tự nhiên, giành lấy một
chỗ làm người giữa và cùng tự nhiên. Có phải người Tây Nguyên khi sáng
tạo ra thế giới tượng lạ lùng và tuyệt vời của họ, muốn mỗi năm một
lần, vào mùa xuân, diễn lại cuộc sáng tạo thế giới đầu tiên của con
người triệu năm trước? Và tinh xảo biết bao, tài hoa biết bao những
người nghệ sĩ của núi rừng ấy. Tôi đã có hạnh phúc chứng kiến họ làm
tượng. Nắm chắc chiếc rìu, nhìn sâu, thăm thẳm sâu vào khúc gỗ, bất
động, trầm ngâm rất lâu, rồi đột ngột và quả quyết, họ vung rìu, hạ
từng nhát mạnh mẽ, dứt khoát, quyết đoán, không phải chạm khắc mà là
tước đoạt, giành lấy, phá tung một lớp vỏ tù túng nào đấy, lột ra, giải
phóng từ thân gỗ ra hình hài của sự sống mà rõ ràng họ đã nhìn thấy, đã
tin, đã biết chắc vốn giấu sẵn, bị giam hãm từ bao giờ trong ấy. Rất
gọn, rất nhanh. Không do dự, không tính toán. Như nín thở. Không kịp
thở. Như một cuộc tấn công, cấp bách, hối hả... Rồi buông rìu. Và quay
đi. Đột nhiên đầm đìa mồ hôi trên vừng trán đang khó nhọc dịu lại, trên
khuôn ngực trần còn hổn hển... Và ta hiểu, thế nào là sáng tạo nghệ
thuật thật sự. Mỗi lần nó hút cạn tới tận cùng toàn bộ sức lực của con
người... Rồi tôi sẽ nói với các bạn điều bí mật này nữa của Tây Nguyên.
Con người ấy, người nghệ sĩ lạ lùng tạo nên pho tượng lạ lùng trong
những pho tượng nhà mồ lạ lùng ấy trước đó chưa bao giờ tạc tượng, mãi
mãi về sau này cũng sẽ không bao giờ tạc tượng nữa. Một lần, đầu tiên,
và cuối cùng, duy nhất. Vì sao vậy? Chính ở đây ẩn chứa triết học sâu
xa của nghệ thuật Tây Nguyên. Tôi sắp nói đến đây, xin chờ cho một
chút...
…Jacques Dournes, ông linh mục già đã đến để truyền đạo cho người
“nguyên thủy” Tây Nguyên, ăn dầm nằm dề với họ trên ấy 23 năm dài, cuối
cùng quy y theo văn hóa của người “nguyên thủy” Tây Nguyên mà ông muốn
cải đạo, có lần kể rằng đi trong rừng Tây Nguyên những buổi chiều tà,
khi nắng sắp tắt ngoài chân trời xa và đêm đang rập rình bò lan ra chậm
chạp mà chắc chắn từ các bụi rậm, ông thường bắt gặp một người đàn bà
gầy và cao, mình trần trụi và đen nhẻm như than, đột ngột hiện lên giữa
những hàng cây thưa của một khóm rừng hẳn đã từng được con người khai
phá rồi nay lại được trả cho hoang dã. Đột ngột và im lặng giữa im lặng
thinh không của rừng bất tận. Nhưng ông không sợ. Vì 23 năm trường đã
Gia Rai hóa con người ấy, ông đã là người Gia Rai chính cống, đã biết,
đã quen cả với cái hình hài đen đủi đột ngột hiện lên giữa rừng tà kia
nữa. Đấy chính là một pho tượng gỗ của Bà Vú Dài, nhân vật huyền thoại
phổ biến trong hệ thống tượng mồ Tây Nguyên, còn sót lại của một nghĩa
trang đã bị bỏ… Sang năm ông trở lại, Bà Vú Dài thân thiết nọ sẽ không
còn, ông biết. Sẽ mục nát trong nắng mưa, tàn rụi và tan biến vào không
cùng của rừng. Bà Vú Dài ruột thịt của ông, và vô số pho tượng tuyệt
vời khác nữa, không trừ một pho nào, một tác phẩm nào, đẹp đến mê hồn,
có thể là những viên ngọc quý vô giá của bất cứ bảo tàng hay phòng
khách nghệ thuật sang trọng nhất nào, được tạo tác trong các lễ bỏ mả,
từng chen chúc với con người, từng sống động lạ lùng cạnh con người,
cùng con người, trong những ngày lễ hội tưng bừng nhất ấy của Tây
Nguyên... Vậy đó, lễ hội tan, tượng, toàn bộ hệ thống tượng sẽ bị bỏ,
cho rừng, cho hoang dã, cho nắng mưa, cho sâu bọ, cho thời gian, cho
tàn rụi, cho vô định... Vì sao? Xin nói điều này nhé: Chúng mình là
người Kinh, là người “văn minh” như từng tự hào, chỉ chúng mình mới có
câu hỏi đó. Còn người Tây Nguyên chính cống thì không. Họ không có câu
hỏi ấy. Họ bỏ. Tôi từng ở trên ấy, tôi biết, không vì một tục lệ, một
kiêng kỵ, một tín ngưỡng nào cả... Chỉ đơn giản vì người ta không quan
tâm đến chúng nữa, thế thôi. Cái họ làm với chúng, cái chúng đem lại
cho họ, cái vì nó mà họ làm, cái do đó mà chúng được sinh ra, cái ấy đã
xong rồi. Thế thôi.
Tôi đã nói, người “nghệ sĩ” Tây Nguyên chỉ làm tượng một lần trong đời.
Ấy là vào một năm bất kỳ nào đó, khi mùa bỏ mả đến, “tháng Ba con ong
đi lấy mật”, một gia đình nào đó rộn rã chuẩn bị lễ tiễn đưa lần cuối
người thân đã mất vĩnh viễn sang thế giới bên kia, một ai đó trong
làng, một cậu con trai bất kỳ nào đó, một buổi sáng bỗng nghe bừng thức
dậy đâu đó trong ngực, trong bụng, trong khắp cơ thể đột nhiên bồn
chồn, trong đôi chân đột nhiên ray rứt, trong hai cánh tay, trong hai
bàn tay đột nhiên rân rân... Và anh ta vùng đứng dậy, chộp lấy chiếc
rìu, không nói không rằng, phăng phăng bước xuống cầu thang, lao vào
rừng... Đến trưa làng thấy anh mang về một khúc gỗ, và hấp tấp, hối hả,
đến như cuống quýt, như có ma đuổi, như bị ám, bằng từng nhát quả
quyết, không cần tính toán, không chút do dự, anh bổ vào thân gỗ... Cho
đến khi Bà Vú Dài của anh hiện ra, lồ lộ, bà mẹ sinh thành sự sống...
Nhưng đối với anh, người thanh niên Tây Nguyên của chúng ta, cả điều ấy
cũng chẳng quan trọng gì nữa. Đối với anh, pho tượng đã được làm xong
chỉ còn là cái xác. Quan trọng, quan trọng nhất, duy nhất quan trọng và
có ý nghĩa, là sự thần khải kia, cái phút thần khải kia, chỉ trong phút
ấy anh mới thật sự gặp bà, tìm ra bà. Quan trọng nhất là giây phút sáng
tạo. Chứ không phải kết quả sáng tạo.
Thế đấy, nghệ thuật Tây Nguyên. Nó chỉ biết đến hạnh phúc của sáng tạo,
chứ không quan tâm đến bất cứ kết quả thực dụng nào, dù nhỏ nhất, của
sáng tạo.
Những năm trước đây, chiêm nghiệm trăn trở về nó, tôi thường nghĩ như
vậy, nghệ thuật ấy quả là ở cội nguồn của nghệ thuật, khi nghệ thuật
còn nguyên vẹn là hạnh phúc thuần túy vì chính nó, chưa là công cụ của
gì hết, chỉ tuyệt đối vì hạnh phúc thuần túy của thần khải sáng tạo.
Người Tây Nguyên thật sang. Không phải giàu, mà là sang. Kẻ giàu coi
trọng kết quả, người sang hạnh phúc vì sự làm ra.
Chị bạn Đức của tôi bảo hình như bên Tây, ở trường dạy về nghệ thuật
đương đại chị đang học, người ta cũng nói về chính điều đó, và người ta
gọi đấy là sự coi trọng con đường (le chemin), hơn là cái đích đến (le
but). Nghệ thuật đang chuyển theo hướng là con đường nhiều hơn là cái
đích. Chị cười: Còn người Tây Nguyên của anh thì cao siêu hơn nhiều, họ
không thèm đếm xỉa tới cả cái đích ấy. Làm xong, sáng tạo xong, là họ
vứt. Nghĩa là sang hơn? – tôi hỏi. Hình như thế, lần này chị không cười
nữa. Tôi mong một lần lên trên ấy quá, anh có cho phép không nếu tôi sẽ
mời cả thầy tôi sang? – chị hỏi.
Tôi hẹn chị sang năm nhé, tháng Ba Tây Nguyên, “con ong đi lấy mật”.
Bạn có muốn đi cùng?
Ngày cuối cùng của năm 2012
Nguyên Ngọc
NGUỒN : Văn
Việt 22.12.2013
Tháng Ba con ong đi lấy mật
Các thao tác trên Tài liệu