Bạn đang ở: Trang chủ / Sáng tác / Tôi đọc anh là để mến yêu anh

Tôi đọc anh là để mến yêu anh

- TS Hoàng Thị Thu Thủy — published 13/08/2025 18:00, cập nhật lần cuối 13/08/2025 18:00

TÔI ĐỌC ANH LÀ ĐỂ MẾN YÊU ANH


TS Hoàng Thị Thu Thủy



Khi đọc tiểu thuyết “Thuyền” của nhà văn Nguyễn Đức Tùng, tôi thực sự xúc động. Xúc động vì thể loại tiểu thuyết về nhiều phương diện đã và đang báo trước sự phát triển tương lai của một nền văn học (tiểu thuyết là nơi người đọc được trau dồi ngôn ngữ). Và còn bởi vì, vào năm 2020, tôi tình cờ đọc bài thơ “Chúng ta không cần phải đẹp lắm” của anh đăng trong mục “Thơ tình thứ bảy”, tôi hăm hở viết lời bình vì thấy quá hay. Lúc đó tôi biết về anh rất ít, nên lần này được gặp anh quả là một ân huệ.

Khi nhận sách từ anh tặng, tôi đọc “Thuyền” mà như đang thực hiện một nghi lễ nào đó rất thiêng liêng, đọc chậm, đọc kĩ.

“Tuổi già đọc sách như thưởng trăng trên đài”(1)

Tiểu thuyết “Thuyền” gần như một biên niên sử về một giai đoạn lịch sử của một dân tộc lắm tai nhiều họa, nơi mà thân phận con người chịu nhiều đau thương trong những biến động dữ dội. Cuộc ra đi của đoàn người qua các địa danh: Bến Ninh Kiều, Cầu Khỉ, Chợ Cầu Muối, Sông Hậu… không hề suôn sẻ, lúc bị đuổi, lúc bị bắn, lúc trốn chui trốn lủi… trong chặng đường mờ mịt đó có những chi tiết khiến lòng người se thắt: cô gái bảo anh mua đôi dép, chỉ đường cho anh đến bến xe, không bắt anh (Cái giếng, tr.38–tr.47). chi tiết người phụ nữ bước đến cho đứa trẻ khát sữa bú (Sữa, tr.66-tr.71), hay chi tiết “đôi dép” trong chương Thủy táng (tr.124-128) thấm đẫm nhân văn. Chi tiết nghệ thuật là nơi nhà văn gửi gắm quan niệm nghệ thuật về con người, là nơi kí thác những dằn vặt, trăn trở của nhà văn trước cuộc đời.

Với “Thuyền”, Nguyễn Đức Tùng rất giỏi xử lý chi tiết, ở đó bộc lộ sự sáng tạo, tài năng và tầm vóc tư tưởng của nhà văn.

Giữa lằn ranh ta - địch, cô gái vẫn nhận ra con người trốn chạy là vô tội; giữa lằn ranh sinh - tử, tình người vượt lên tất cả mọi biến cố đau thương và bản năng người phụ nữ đã đánh thức những tâm hồn đang lo lắng, chới với, khi chị bước đến vạch áo cho đứa bé khát sữa bú nhờ.

Con người nếm trải của nhân vật “Tôi” trong tác phẩm “Thuyền” chịu đựng tất cả các khổ nạn về vật chất và tinh thần và cái dằn vặt đến suốt đời là đi tìm Liên Hương – nàng ở đâu?

Tiểu thuyết là thể loại hấp thụ trong nó mọi ngổn ngang bề bộn của cuộc đời. Từ cái nhìn cuộc sống ở góc độ đời tư, tác giả gia tăng chất tiểu thuyết cho tác phẩm để câu chuyện “Thuyền” không còn là câu chuyện kể lại như những bài báo, hay những phóng sự về thuyền nhân, về vượt biên. Người đọc có thể không dám đọc lại lần thứ hai những chi tiết như “cái thùng phân và nước tiểu” sát ngay chỗ nằm, bọn cướp biển hãm hiếp, người bố nhảy xuống biển nhặt chiếc dép cho con, mấy ngày không có nước uống phải liếm sương trên mạn thuyền đến phồng rộp lưỡi… tất cả đều vượt sức chịu đựng của một con người bình thường mà nhân vật “tôi” và những người trên thuyền trải qua, chịu đựng.

Nhưng, câu chuyện tình của “Tôi” và Liên Hương thì quá đẹp. Cái đẹp được định danh, định tính trong cái nhìn của chàng trai và cách cảm nhận của cô gái. Họ cùng chịu đựng, cùng trải qua những bước phiêu lưu, những lúc gian khó, chỉ có một thứ mang tên “tội ác” đã chia lìa họ. Cái hay của tác phẩm ở lối kết cấu chứa đựng cái nhìn trân trọng, thương yêu với người yêu thương của nhân vật “tôi”. Nếu như 14 chương đầu truyện với hành trình vượt biển có đói, khát, đau đớn, chịu đựng sự bẩn thỉu, hôi hám thì “Tôi” vẫn có “Nàng”, nhưng từ chương 15 (tr.112), khi Liên Hương biến mất thì cái tôi kiếm tìm, đau khổ, hụt hẩng, tiếc nuối, nhớ nhung đau đáu một tấm tình, đã gia tăng chất tiểu thuyết và nhờ thế mà “Thuyền” là một tác phẩm có đóng góp về thi pháp thể loại.

Tư duy tiểu thuyết không cho phép thể loại này bị đông cứng lại (như có ý kiến cho rằng chuyện “thuyền nhân” không mới). Người viết tiểu thuyết thiên về những cái gì còn chưa xong xuôi. Cuộc đời không bao giờ có câu nói cuối cùng, nên mỗi một chương truyện như gợi mở, suy tư, khiến độc giả phải trăn trở. “Tôi càng đem lòng yêu một người, tôi càng trẻ lại” (tr.339). Tình yêu đó là cái đẹp vĩnh cữu.

Cái nhìn của nhà văn về người phụ nữ vừa trân trọng, thương yêu, vừa nâng niu, che chở, giữ gìn. Cái đẹp của Liên Hương về ngoại hình được miêu tả vừa trực tiếp vừa qua hồi ức, thỉnh thoảng xuất hiện chỉ vài dòng mà mang nét sang trọng, quý phái của hình mẫu người con gái thùy mị, nết na. Hình tượng người mẹ ở chương “Mẹ tôi” (tr.86-tr.91) là kí ức về nhà, về quê hương, nơi đó có mùi cá kho, mùi khói và đôi vai mẹ rung lên vì khóc. Người mẹ chịu đựng những mất mát trong chiến tranh thật thương xót. Sự ngăn cách giữa tôi với mẹ và em là nước - nước mặn – đó chính là nỗi đau dằng dặc.

Qua cái nhìn của nhà tiểu thuyết Nguyễn Đức Tùng, dư chấn thời hậu chiến là một ám ảnh sâu sắc, ám ảnh về sự vật lộn giữa sống chết, về hành trình bi ai và khủng khiếp, về nỗi đau mất mát, ly tán.

Điểm sáng nhân văn soi chiếu hình tượng, tác phẩm vì thế mà đậm chất văn xuôi, bởi tái hiện cuộc sống không thi vị hóa, lãng mạn hóa, lí tưởng hóa. Tiểu thuyết hấp thụ trong nó mọi ngổn ngang bề bộn của cuộc đời, bao gồm cái cao cả và cái tầm thường, nghiêm túc và buồn cười, bi và hài, cả cái lớn và cái nhỏ. Cho dù đau buồn, cho dù bị hành hạ về thể xác lẫn tinh thẩn khi thuyền nổi trôi trên biển với biết bao hiểm nguy, con người vẫn tồn tại. Những chương truyện nhờ cắt ngắn mà giảm đi áp lực về cái bức bối, đau buổn, khốn đốn, và lúc những người sống sót được cứu trợ để tồn tại thì càng nhận ra chân lý: con người – hai tiếng ấy vang lên kiêu hãnh làm sao.

Tôi thật sự thích thú khi đọc tr. 72 – tr.76 ở chương “Hải phận quốc tế”, bởi nơi đó có cả vùng kí ức của nhiều người, ai rồi cũng nghĩ như nhà văn về ranh giới quốc gia, một chút mộng mơ cũng giúp con người vui hơn và rồi thảm kịch cũng khởi phát từ nơi đó. Nơi nguy cấp vẫn bừng sáng một chút mộng mơ. Chuyện được kể lại sau khi đã có độ lùi về thời gian, cùng với thi pháp tiểu thuyết hiện đại, mới mẻ, nhà văn đã khiến cho người đọc sững sờ, ám ảnh, thương xót. Sự miêu tả quá khứ trong tiểu thuyết tuyệt nhiên không đòi hỏi phải hiện đại hóa cái quá khứ ấy. Ngược lại chỉ trong tiểu thuyết mới có thể miêu tả một cách thực sự khách quan quá khứ như là quá khứ. Các chương truyện “Ngón tay”, “Chiếc dép”, “Trưởng trại”… như rút cạn tinh lực của người cầm bút và sự tồn tại của nhân vật “Tôi” là minh chứng hùng hồn nhất cho những câu chuyện tưởng chừng quá phi lý trong cái xã hội văn minh lại vô cùng có lý. Nhu cầu đi tìm vùng đất mới, đi tìm tự do là nhu cầu chính đáng của con người, nhưng con đường đi của họ quá khổ nhục. Viết về sự thật nghiệt ngã, để lại dư chấn, ám ảnh, nhà văn đã giúp độc giả hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và khơi dậy trong ta khát vọng vươn tới chân lý.

Ngôn ngữ tiểu thuyết là cả một hệ thống những ngôn ngữ soi sáng lẫn nhau, đối thoại với nhau. Những câu văn ngắn trong tác phẩm đã khiến nhiều người nghĩ “Thuyền” như một tác phẩm thơ, tôi thì nghĩ rằng đây là thi pháp hiện đại trong lối viết văn xuôi của nhà văn Nguyễn Đức Tùng và đó là những đóng góp mới cho thể loại cũng như ngôn ngữ trong dòng chảy của văn học Việt Nam đương đại. 55 chương của tiểu thuyết cũng mang nét mới trong kết cấu nghệ thuật, phù hợp với cách đọc hiện nay của độc giả. Tư duy tiểu thuyết của nhà văn mang nét hiện đại, mới, của văn chương thế giới, nên người đọc sẽ đi từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, chứ không như kiểu văn chương thuần túy với lối viết “minh họa”, đọc trang đầu sẽ đoán biết trang cuối.

Huế ngày 3/7/2025

TS. Hoàng Thị Thu Thủy

(1) Lâm Ngữ Đường, Sống đẹp, Nguyễn Hiến Lê dịch, NXB Tao đàn, Sài Gòn 1965

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
LE SOLEIL TOMBE SANS UN BRUIT - Thao Nguyen Phan 12/06/2025 - 07/09/2025 — 13, avenue du Président Wilson, 75116 Paris
Thư viện Diên Hồng - Kiều Chinh - Nghệ sĩ lưu vong 28/09/2025 14:00 - 17:00 — Le Totem | 11 place Nationale - 75013 Paris
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us