Bạn đang ở: Trang chủ / Sáng tác / Vỹ Dạ - trường học và tuổi thơ

Vỹ Dạ - trường học và tuổi thơ

- Nguyễn thị Kim Thoa — published 09/04/2012 13:56, cập nhật lần cuối 12/04/2016 22:20


Vỹ Dạ -
trường học và tuổi thơ


Nguyễn thị Kim Thoa



Vỹ Dạ cũng như bao nhiêu làng quê khác, cũng dòng sông, cũng mái trường, cũng con đường làng, cũng cánh đồng vàng thơm mỗi mùa vụ. Trở về chốn xưa, có ai không tìm thấy lại quá khứ mình?


vyda

Thôn Vỹ Dạ, nguồn ảnh: son-trung.blogspot.com


Người thầy khai tâm


Một trong nhiều những kỷ niệm đẹp trong tuổi thơ của tôi là lễ khai tâm với người thầy Phùng Khánh.

Mồng hai tết tôi không nhớ năm nào thuộc âm lịch, nhưng dương lịch là năm 1957. Năm ấy tôi tròn 6 tuổi. Ba me tôi muốn tôi được khai tâm, khai trí để chuẩn bị đến trường tiểu học vào mùa thu tới.

Người thầy mà ba me chọn là cô Phùng Khánh, một sinh viên của trường Đại học sư Phạm, xinh đẹp, dịu dàng, hiền hậu và học rất giỏi, con cụ Ưng Thiều – bạn láng giềng của gia đình tôi.

Chọn người thầy khai tâm cho con gái với mẫu mực, tầm cỡ Phùng Khánh – Ba me tôi gởi gắm vào đó những ước mơ, hoài bão của mình về tương lai của tôi.

Xinh đẹp dù có cố gắng đến đâu tôi cũng không theo kịp thầy, nhưng dịu dàng, hiền thục và học giỏi thì tôi có thể. Ba me tôi nghĩ và nói như vậy với cả nhà.

Lễ khai tâm cho tôi ba me và cả nhà nói đến rất nhiều trong năm cũ. Me tôi sang nhà cụ Ưng Thiều thưa chuyện. Ông cụ khuyến khích và cô Phùng Khánh thì vui vẻ nhận lời. Mồng hai Tết, 8 giờ sáng. Me tôi coi ngày từ cuốn lịch Tam Tông Miếu.

Sáng mồng một, ba me tôi sang chúc tết nhà cụ Ưng Thiều và nhắc lại lời mời năm cũ.

Đúng 8 giờ sáng ngày mồng hai, cô Phùng Khánh qua nhà tôi. Cả nhà áo quần chỉnh tề, chuẩn bị trà nước để đón cô. Cô vẫn xinh đẹp, dịu hiền và thanh thoát.

Sau khi chúc tết chúng tôi, cô đến ngồi cạnh tôi bên cái bàn đã chuẩn bị sẵn giấy bút. Cô nói với ba me tôi và cả nhà:

– “Thông thường ngày đầu các em đến trường, thầy cô sẽ dạy các em nhận biết mặt chữ, tập viết các mẫu tự a, b, c. Với cháu không thế. Khi đứa trẻ bắt đầu đi học, thầy cô nên cho các em nhận biết và tập viết chữ Mẹ, lý do sâu xa thế nào hai bác nói cho em Thoa và các em khác rõ, còn theo chỗ cháu biết thì hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới chữ Mẹ đều bắt đầu từ âm M”.

Giọng cô Phùng Khánh nhẹ, trong và đầy cảm xúc. Cô mở tập vở, trang trọng kẻ vào đầu trang giấy chữ Mẹ, cô bảo chị tôi kiếm một tờ giấy pelure, cô đặt tờ pelure lên trang giấy cô vừa mới kẻ chữ. Cô vuốt tờ pelure với cử chỉ dịu dàng, trìu mến. Cô ngồi dịch về phía sau ghế, thân ái kéo tôi về phía trước mặt rồi đặt vào tay tôi cây bút chì. Cô chỉ cho tôi cách cầm cây bút thế nào cho thích hợp. Cô cầm tay tôi với cây bút chì và chúng tôi bắt đầu đồ lên chữ Mẹ. Bàn tay cô Phùng Khánh mịn màng êm dịu. Từ người cô chuyền vào lưng vào vai tôi hơi ấm. Trên tờ giấy pelure chữ Mẹ từ lờ mờ dần trở nên đậm nét.

Trong sâu thẳm tâm hồn tôi sau cái lần được khai tâm đầu đời ấy vang vọng mãi tiếng Mẹ cao quí và đẹp tuyệt vời, không có nốt nhạc nào sánh được.


Trường làng tôi


Sau lễ khai tâm trang trọng và rất nhiều cảm xúc với người thầy Phùng Khánh, tôi đi học lớp vỡ lòng.

Mười sáu tháng giêng (sau tiết hàn thực), ông cậu Mới – người làm vườn của nhà tôi – cõng tôi đến lớp học vỡ lòng của cô giáo Lan. Lớp học của cô giáo Lan là một mái lá nhỏ dựng tạm trên một mô đất nằm giữa khu dân cư và cánh đồng lúa thôn Vỹ Dạ. Mái lá đơn sơ đó chỉ có một gian chứ không được hai gian như “trường làng tôi” của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu:

“Trường làng tôi hai gian lá đơn sơ, che trên miếng sân vuông mơ màng
Trường làng tôi không giây phút tôi quên dù cách xa muôn trùng trường ơi!...”.

Dù là hai gian lá hay một gian lá cũng là “trường làng tôi”. Cũng “không giây phút tôi quên dù cách xa muôn trùng”.

Cô giáo và những bạn học đầu tiên, những bàn ghế lỏng chỏng, cái thấp cái cao, cái to cái nhỏ, cái cũ, cái mới... tất cả để lại trong ký ức tôi những kỷ niệm sâu đậm và thân thiết.

Cô giáo Lan người phụ nữ lớn tuổi, chưa lập gia đình, đảm trách một lớp học với mươi lăm, mươi bảy học trò, lớn nhỏ và trình độ cũng lỏng chỏng như áo quần, bàn ghế. Có đứa tập viết, có đứa đánh vần, có đứa làm toán, có đứa tập đọc. Cô hết bày cho đứa này, chỉ cho đứa kia, dạy cho đứa nọ. Cứ thế cô đi quanh, bàn trên, bàn dưới, bàn bên phải, bàn bên trái. Lớp học không có bảng đen, không có phấn trắng. Cô giáo bày, chỉ dạy trên những tập vở mỏng cùng những cây bút chì, bút mực của mỗi đứa mang theo. Dụng cụ nghề nghiệp của cô ngoài cây thước gỗ ra không có gì. Cô không dùng thước với mục đích răn đe mà để gõ nhịp. Tập hát rồi hát. Cái thước với những cái gõ là dấu hiệu để cả cô giáo và học trò cùng hát. Chính những bài hát đã nối kết những chi tiết rời rạc lỏng chỏng của lớp học thành một cơ thể hợp nhất và thân thiết. Bắt đầu giờ học chúng tôi hát, giữa giờ học chúng tôi hát, cuối giờ học chúng tôi hát. Ngày hai buổi, tuần sáu ngày chúng tôi hát. Tiếng hát của chúng tôi đã làm cho cái mô đất hoang giữa khu dân cư và cánh đồng trở nên sinh động.

“ Tung lên trên trời xanh tiếng hát
Êm như ru chiều hôm gió mát
Chim líu lo trên không trung nô đùa
Đây thú tiên vui vui không ngừng...”

“ Trên trời xanh, én nô đùa reo mừng
Ta đi mau, gió la đà vướn chân
Trong nắng tươi hát cười lòng ta bay theo mây hồng
Ngắm ngắm xem xem đường đầy hoa
Dưới bóng cây kia trường học ta
Đang chào đón, lòng thiết tha…”

“Bạch Đằng giang sông hùng dũng, của nòi giống Tiên rồng, giống Lạc Hồng, giống Lạc Hồng, Nam Bắc Trung. Trên trời xanh, muôn chim đua chen ánh sao, dưới đây dòng nước ánh sáng vẫn luôn nhấp nhô...”

“Reo vang reo, ca vang ca
Cất tiếng hát vang đồng xanh
Vang lừng la bao la, tươi xinh tươi
Ánh sáng tưng bừng hoa lá…”

Nhiều, nhiều lắm, những bài hát mà tôi và các bạn tôi không biết tác giả là ai. Cô không nói. Cô không giải thích nội dung. Chúng tôi cứ rướn cổ mà hát, hát ran cả lồng ngực. Có điều chắc chắn là chúng tôi thích hát hơn là học. Chính nhờ những bài hát tại lớp vỡ lòng của cô giáo Lan mà sau này tôi trở nên thích âm nhạc. Tôi không có giọng để theo nghề ca sĩ, nhưng tôi lại thích nghe và sưu tầm các bản nhạc. Nhạc tuổi xanh, nhạc cộng đồng, nhạc đồng quê, nhạc tình cảm, nhạc tiền chiến, nhạc chiến đấu và cả nhạc phản chiến. Theo tôi âm nhạc là thức ăn tinh thần dễ tiêu hóa và dễ thẩm thấu.

Ngoài giờ học và ca hát, ở lớp vỡ lòng của cô giáo Lan tôi còn giao du với các bạn cùng trang lứa trong thôn và cùng các bạn ấy tôi biết chơi các trò chơi dân gian như: ô làng, u mọi, giật cờ, rồng rắn, đi chợ về chợ, thả địa ma rà, mèo vờn chuột, nhảy dây, nhảy lò cò, đánh thẻ, đánh hòn... Những trò chơi kèm theo những bài hát làm cho kẻ chơi người xem cùng hào hứng.

---Trò chơi đánh thẻ chúng tôi hát:

Qua cầu
Ngồi hầu
Quạt mát
Quạt không mát
Xô đi bồ lại
Ai muốn cao ngồi ghế
Ai muốn thấp ngồi đòn
Ai muốn đỏ bôi son
Ai muốn vàng bôi nghệ
Qua bên nhà o Huệ
Về bên nhà o Lan
Sang cái tay
Trở cái chân
Nhắm con mắt
Bắt con một mà ăn
Chuyền chuyền một
Chuyền chuyền hai.

Cứ thế chuyền 6 hay chuyền 12 tùy qui định.

--- Trò thả địa ma rà:

Thả địa ma rà
Chớ bắt đàn bà
Tha tội đàn ông
Cơm trắng như bông
Gạo thuyền như nước
Sa chân một bước
Thành con ma rà

Ngoài ca hát và tham gia các trò chơi, từ lớp học cô giáo Lan, sau này tôi còn nhớ khá nhiều bài ca dao, bài vè, nói lối. Tôi xin ghi lại một số đoạn:

---“ Dưa chuột chú ruột dưa gan
Dưa gan cùng làng dưa hấu
Dưa hấu là cậu bí ngô
Bí ngô là cô đậu nành
Đậu nành là anh dưa chuột...”

--- “Ve vẻ vè ve
Nghe vè nói ngược
Con chim mần tổ dưới nước
Con cá lội ngược trên cây
Thằng chết ve trâu đi cày
Thằng sống thì vày xuống lỗ
Thuyền đi trên bộ
Ngựa lội dưới sông
Cá nhám ăn đồng
Chuột nhắt xuống sông, xuống nước
Cái thằng nói ngược thôi đã dễ nghe:
Con voi ấp trứng sau hè,
Con gà cao bành để đua
Con tôm cắn trả con cua,
Một bày cá mại hùa hùa ăn theo
Bao giờ cho cám ăn heo
Cho chuột ăn mèo, cho cỏ ăn trâu
Chim én cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ bay đâu mịt mù...”

Thuở ấy nhà tôi chưa rơi vào tình cảnh sa sút, có gia sư để dạy các anh chị tôi, có các anh con cậu ở Hội An ra học đại học, kể cả ba me tôi đều có thể chuẩn bị cho tôi vào lớp năm (lớp một bay giờ) trường Thế Dạ. Nhưng ba me tôi vẫn cho tôi theo học lớp vỡ lòng của cô giáo Lan ở trường làng. Lớn lên tôi mới hiểu rằng ba me muốn tôi tuổi nào bạn - trường lớp nấy. Té ra việc học của ấu thơ không phải chỉ là tập đọc, tập viết, tập tính. Không theo lớp vỡ lòng của cô giáo Lan, sau này tôi không thể nhận biết và thưởng thức trọn vẹn cái đẹp, cái hay của bản nhạc “Trường làng tôi” của Phạm Trọng Cầu, chắc cũng không say mê ca hát và sưu tầm nhiều nhạc phẩm như tôi làm, cũng không biết nhiều trò chơi, cũng không thuộc ca dao, hò, vè và nhất là không có bạn cùng trang lứa.

Cũng chính tại lớp vỡ lòng cô giáo Lan tôi đã có một người bạn thân đã chơi với tôi từ lớp vỡ lòng qua trường Thế Dạ, đến hết nửa năm đệ nhị mặc dù chúng tôi không chung lớp, chung trường. Bạn ấy có cái tên rất lạ: Lương thị Vu Vơ. Tôi kết thân với Vu Vơ bởi cái tên lạ và cũng vì tính nết hồn nhiên trong sáng của Vu Vơ.

Nơi Vu Vơ ở cũng là một mái lá nhỏ nằm trên một mô đất đứng chơ vơ giữa đồng lúa cách lớp học cô giáo Lan vài trăm mét. Vu Vơ mồ côi mẹ, sống với cha, một nông dân vì chiến tranh phải bỏ quê làng đâu dưới Sam - Chuồn dắt díu đứa con gái duy nhất lên tạm cư ở bìa thôn Vỹ Dạ. Ông nuôi sống bản thân và con gái bằng nghề cày cuốc gặt hái thuê cho các chủ ruộng ở quanh nhà.

Tôi rất thích ngôi nhà cô quạnh giữa cánh đồng của Vu Vơ. Tan học, thỉnh thoảng tôi băng đồng ghé chơi nhà Vu Vơ, tại đây ba Vu Vơ hay để dành cho tôi những củ khoai nướng, ông cũng bày cho tôi nhiều bài hò vè mà đối với tôi là mới lạ.

Sau tết Mậu Thân tôi không còn gặp Vu Vơ nữa, nhưng hình ảnh Vu Vơ và mái lá giữa cánh đồng đọng mãi trong ký ức của tôi.

Những lúc nhớ nghĩ về Vu Vơ tôi nghĩ là cô đã bị nạn trong chiến tranh, cũng có khả năng Vu Vơ đã trở thành người của Mặt Trận. Áng chừng của tôi chỉ đúng một nửa.

Mới đây qua người bạn cũ tôi biết Vu Vơ đang ở Sài Gòn. Gặp lại nhau chúng tôi ôn chuyện cũ, cuộc hàn huyên sau hơn bốn mươi năm xa cách cung cấp cho tôi mấy thông tin về người bạn thân thiết thời thơ ấu. Người nông dân cha của Vu Vơ không phải vì chiến tranh mà chạy khỏi quê làng lên sống tạm bợ trên cánh đồng lúa ở bìa thôn Vỹ Dạ. Gia đình Vu Vơ là người của Mặt Trận. Mẹ cô đã hy sinh trong một trận càn của đối phương. Cha cô được lệnh lên Huế làm một trạm giao liên. Cái mái lá nhỏ bé ở bìa thôn Vỹ Dạ trước 1968 với hai cha con người nông dân hiền lành, chất phác kia chính là địa chỉ thông tin liên lạc ra vào thành phố Huế của kháng chiến.

Ve ve là vè nói ngược
Con chim làm tổ dưới nước
Con cá lội ngược trên cây...

Bài vè nói ngược, ba của Vu Vơ đã bày cho tôi.


Trường tiểu học Thế Dạ


Trường tiểu học Thế dạ là trường dành cho học trò ở hai thôn Vỹ Dạ và Lại Thế. Tuy vậy có vài bạn ở xa tận Nam Phổ, Ngọc Anh, cũng theo học.

Vào những năm 1957 - 1961 trường được xây trên một khu đất cạnh bờ sông Hương, cách chợ Vỹ Dạ chừng 500m về hướng bắc, diện tích án chừng 500m2 (100m x 50m), gồm năm phòng học nối nhau thành một dãy. Hai lớp nhất và nhì có nền cao, xây tường đôi (tường 20 cm) lợp ngói. Đây là cơ sở đầu tiên lưu dấu từ thời thuộc địa. Ba lớp còn lại: lớp năm, lớp tư, lớp ba nền thấp hơn, tường mỏng hơn (10cm) và lợp tôn. Giữa hai dãy nhà cao thấp là phòng hiệu trưởng cũng là văn phòng nhà trường. Chiếc trống to màu đỏ treo giữa hai dãy nhà cao thấp này. Trường có sân chơi phía trước rộng với cột cờ nằm chính giữa. Cổng trường xây xi măng có tấm biển ngang kẻ chữ trường tiểu học Thế Dạ. Hàng rào quanh trường là những bụi hóp xanh thẫm (loại trúc lá nhỏ, thân thẳng không cao quá 2m ) được cắt tỉa thẳng thớm. Trong bờ rào hóp là những cây phượng và dương liễu tạo bóng mát cho sân trường. Sân sau nằm dọc theo bờ sông, có một lối nhỏ xuống bến nước. Cạnh bờ sông trồng những cây thầu đâu (sầu đông) thành một dãy dài. Mùa đông lá rụng hết hoa tím nở rộ. Góc cuối phía sau trường, cạnh lớp năm là nhà của ông cai Trì. Đây là một cái chòi nhỏ, mái lợp tranh, vách phên tre nứa. Vào giờ ra chơi, chúng tôi thường xuống đây uống nước miễn phí, loại nước trong đun sôi để nguội chứa trong hai chiếc ấm nhôm lớn. Và cũng tại đây chúng tôi còn có thể ăn chè bột lọc bọc đậu phụng hoặc bọc dừa với vài hào mẹ cho (năm hào một chén nhỏ), hay ăn những miếng kẹo đậu phụng kẹp giữa hai miếng bánh tráng cắt hình tam giác.

Tôi vốn là một đứa con gái còi cọc, ốm yếu, do vậy mà ba me tôi quyết định cho tôi đi học trễ một năm. Khi nộp đơn vào trường tiểu học Thế Dạ, thầy hiệu trưởng xem hồ sơ của tôi và nói với me tôi rằng: “Bà cho cháu đi học trễ một năm, để tôi xem lại sức học của cháu nếu có thể được, tôi cho cháu vào thẳng lớp tư thay vì mất một năm ở lớp năm”. Thế là tôi được thầy hiệu trưởng khảo sát và cho vào học lớp tư. Tôi không thể nào quên được cái cảm giác sung sướng và hãnh diện khi được thầy hiệu trưởng Hoàng Chương cầm tay bảo: “Gắng học để theo kịp các bạn”.

Được vào thẳng lớp tư tôi vừa vui, vừa buồn. Vui vì được học vượt lớp. Buồn vì phải xa các bạn ở lớp vỡ lòng. Đặc biệt là không được ngồi cùng lớp với Lương thị Vu Vơ.

Như thế là tôi chỉ học ở trường tiểu học Thế Dạ có 4 năm. Năm nào cũng là học sinh giỏi nhất nhì lớp. Hằng năm đến ngày bế giảng tôi vui sướng ôm gói phần thưởng bọc giấy gương đỏ bóng tự hào đi từ trường về nhà trên con đường làng rợp bóng cây xanh. Gió lá xôn xao như cùng chia sẻ niềm vui với tôi.

Nhớ ơn thầy hiệu trưởng Hoàng Chương, hằng năm gần đến ngày tết, me và tôi đến thăm thầy. Quà của chúng tôi biếu thầy là hai gói trà Tam Hỷ và một nải chuối lấy từ một buồng chuối to và đẹp nhất của vườn nhà. Thầy Hoàng Chương ở gần chùa Ba La Mật, vườn trồng nhiều hoa huệ trắng. Thầy nói với me tôi: “ Ở gần chùa, chúng tôi trồng huệ trắng để dâng cúng Phật”. Năm tôi lên lớp nhì, được tin thầy Hoàng Chương ngã bệnh do cánh tay bị nhiễm trùng nặng trong lúc làm vườn. Me và tôi đến thăm. Chẳng bao lâu sau thầy qua đời, chúng tôi đi đưa tang thầy trong một buổi sáng trời mưa lạnh. Thầy Hoàng Chương mất đi để lại trong tâm trí non dại của tôi hình ảnh của một vị thầy đáng kính. Me tôi bảo thầy Hoàng Chương là người làng Mỹ Lợi, là cháu kêu bà Từ Cung (mẹ vua Bảo Đại) bằng cô ruột. Làng Mỹ Lợi ở phía đông - nam cách thành phố Huế 40km nổi tiếng cau trầu và cam quít.

Bốn năm học trường tiểu học Thế Dạ là khoảng thời gian vui sướng nhất của đời tôi. Quanh tôi từ gia đình đến học đường đầy ắp tình yêu thương của ba me, thầy cô giáo và bạn học.

Tôi học lớp tư với cô Bổn, lớp ba với cô Hoa, lớp nhì với cô Liên, lớp nhất với cô Tuyết Ba.

Cô Bổn dạy lớp tư (lớp hai bây giờ) của tôi đã lớn tuổi, hiền lành và hơi kiểu cách. Cô có thói quen chen một vài từ tiếng Tây trong giờ dạy hay lúc giao tiếp với học trò. Ngoài ra ký ức tôi không có một ấn tượng nào sâu sắc về cô. Có thể cô dạy không hay, có thể vì cô mệt mỏi do tuổi già sức yếu, có thể vì tôi chưa có đủ khả năng để quan sát, khám phá những tinh hoa đang chìm dần trong bản thể một phụ nữ bước vào tuổi xế chiều.

Tôi học giỏi đều các môn ngay từ tháng đầu tiên của năm lớp tư. Nhưng đến năm lớp ba, rồi lớp nhì, lớp nhất tôi mới thấy mình ngày một thích các môn Việt văn, Việt sử, Địa lý và Đức dục. Các cô Hoa, Liên, Tuyết Ba đều là những giáo viên rất giỏi. Các cô giảng bài hay, dễ hiểu, dễ nhớ. Các cô biết cách làm cho lớp học vui tươi và sinh động. Đặc biệt những giờ tập đọc, học thuộc lòng, chính tả, làm văn, Việt sử, địa lý.

Giờ tập làm văn các cô tập cho chúng tôi viết một đoạn văn nhỏ (lớp ba), làm những bài luận mô tả con người, cảnh vật (lớp nhì). Đến năm lớp nhất chúng tôi đươc dạy làm văn tự thuật, nhân cách hóa các đồ vật, con vật, cách viết thư và làm văn nghị luận, bình giải các câu ca dao, tục ngữ. Trong tất cả các buổi tập làm văn, các cô thường đọc các đoạn, các bài văn mẫu đã được chọn trước ở nhà.

Để gây hứng thú cho môn Việt văn, việc đầu tiên các cô làm một cách chăm chú và trang trọng là đọc. Từ bài tập đọc, bài chính tả, bài học thuộc lòng đến các đoạn văn, bài văn mẫu các cô đều chú ý đọc diễn cảm. Chính giọng đọc diễn cảm của các cô là yếu tố đầu tiên khiến chúng tôi thích thú say mê môn học.

Năm lớp nhì với chất giọng Bắc nhẹ nhàng cô Liên đọc rất diễn cảm kể cả những lúc viết chính tả: “Bà cụ Bèo khệ nệ bưng nồi cám lên, kê trên mảnh ván săng quây chuồng lợn, bà vừa đi vừa lẩm bẩm...”

Hoặc năm lớp nhất cô Tuyết Ba đọc bài đọc thêm “Chợ Tết” của Đoàn Văn Cừ:

Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ tết
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng cu bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau…

Viết đến đây tôi lại nhớ đến cô bạn có khuôn mặt bầu bĩnh trắng hồng, bạn Nguyễn Khoa Diệu Huyền, cái ngày tôi cùng các bạn lớp nhì được cô giáo Liên dẫn đi tham quan triển lãm tại ty giáo dục, Diệu Huyền hỉnh mũi rất to khi thấy bài tập làm văn của mình được trưng bày trong khung kính. (Sau này Diệu Huyền trở thành giáo viên văn của trường Đồng Khánh). Huyền cũng có giọng đọc rất truyền cảm và hát rất hay.

Ngoài những bài chính thức in sẵn trong sách giáo khoa, các cô còn sưu tầm, chọn lựa những bài văn, những mẩu chuyện thích hợp, gần gũi với chương trình và cũng đọc diễn cảm, cũng kể hấp dẫn lôi cuốn. Tất cả đối với chúng tôi đều mới lạ. Chúng tôi đã lắng nghe một cách chăm chú và thích thú. Cô Tuyết Ba còn đọc và kể cho chúng tôi nghe những mẩu chuyện về các nhà khoa học như Marie Curie, Edison, Galilée, Archimède khi cô dạy môn khoa học thường thức.

Từ những câu chuyện trong Quốc văn giáo khoa thư, Tâm hồn cao thượng, đến những câu chuyện lấy từ chính sử, cận sử, bên lề lịch sử không khiên cưỡng thúc ép, các cô đã giúp chúng tôi tiếp cận môn Đức dục và Lịch sử một cách tự nhiên và dễ dàng. Chúng tôi đã say mê môn lịch sử qua những mẩu chuyện kể sự tích các anh hùng, liệt nữ, các chiến công, các sự nghiệp to lớn, các con người có tư cách đáng trân trọng.

Câu chuyện cậu bé thành Lombardie do cô Hoa kể năm lớp ba, sau khi đọc, cô hỏi chúng tôi: “Các em thấy gì qua câu chuyện này? ” Đương nhiên lúc bấy giờ chúng tôi chưa đủ từ để diễn tả cảm nhận của mình. Đứa thì nói thế này, đứa thì nói thế nọ. Cuối cùng cô Hoa đã làm sáng tỏ giúp chúng tôi: “Như các em đã nhận biết là cậu bé thành Lombardie đã cho các ông khách giàu sang kiêu ngạo kia biết thế nào là lòng tự hào dân tộc (ở đây là dân thành Lombardie), lòng tự trọng của một cá nhân (ở đây là cậu bé) khi vứt vào mặt những tên nhà giàu khinh người kia mấy đồng xu bố thí. ”

Qua những bài giảng, những chuyện kể, các cô giáo từng bước một giúp chúng tôi phân biệt được cái đúng cái sai, cái tốt cái xấu, cái nên làm, cái nên tránh không phải do áp lực từ bên ngoài mà do sự tự nhận biết lần hồi từ chính cá nhân mình. Biết xấu hổ khi làm điều gì sai trái, biết giữ lời hứa, biết thương yêu chia sẻ với những ai khó khăn hoạn nạn, biết hiếu đễ với cha mẹ, thương yêu nhìn nhượng anh em, biết tôn trọng kẻ khác, tôn trọng của công, tôn trọng bảo vệ khung cảnh sống (cụ thể trường lớp, đường phố, công viên, rạp hát...), biết tự hào dân tộc và biết thể hiện lòng yêu nước trong thái bình cũng như trong công việc bảo vệ nền độc lập.

Sau này lớn lên, bản thân tôi ngày một sáng tỏ phương pháp và mục đích giảng dạy của các cô là muốn học sinh biết để thực hành nhiều hơn là thuộc bài. Sau những giờ học lịch sử, chúng tôi tôn vinh ngưỡng mộ những anh hùng liệt nữ, những vua quan làm nên những sự nghiệp to lớn như Hai bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Huyền Trân công chúa, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Quang Trung đồng thời chúng tôi cũng căm ghét Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, những kẻ bán nước hại dân.

Lúc nghe những bài đọc thêm, những câu chuyện kể ngoài chương trình, chúng tôi cảm thấy mình đứng đâu đó bên cửa sổ Hội Nghị Diên Hồng, mình là đôi viên trong đội quân thiếu niên đứng dưới lá cờ có thêu sáu chữ: “Phá Cường Địch – Báo Hoàng Ân” của Trần Quốc Toản, sau khi nghe đâu đó câu chuyện “bóp nát quả cam” của người thiếu niên anh hùng, mình là cung nữ theo hầu công chúa Huyền Trân lên đường vào Chiêm Thành để đổi lấy hai châu Ô và Rí.

Qua những câu chuyện kể của cô Hoa, cô Liên, cô Tuyết Ba suốt ba niên khóa, đến thời điểm này tôi còn nhớ câu chuyện lý thú những chiếc lá trôi từ nguồn với bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Chuyện Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt giữa đường. Chuyện Trần Bình Trọng đối đáp với quân xâm lược phương Bắc: – “ Thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”. Chuyện Nguyễn Trãi nghe lời cha là Nguyễn Phi Khanh trở về lo việc báo thù nhà trả nợ nước. Chuyện Mạc Đăng Dung mài gươm dưới trăng: “Thù nước chưa xong đầu đã bạc – Gươm mài vầng nguyệt đã bao ngày”. Chuyện công chúa Ngọc Hân kết hôn cùng người anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung. Chuyện Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử sau khi phải ký hòa ước bất lợi cho triều đình, di hại cho đất nước. Chuyện Nguyễn Tri Phương nhịn đói chịu đau đến chết. Chuyện Hoàng Diệu treo cổ tự tử vì không giữ được thành Hà Nội. Chuyện vua Hàm Nhi 13 tuổi theo Tôn Thất Thuyết bỏ kinh thành ra Tân Sở xây căn cứ kháng chiến – phát hịch Cần Vương. Chuyện vua Duy Tân 16 tuổi cùng với Thái Phiên, Trần Cao Vân mưu đồ khởi nghĩa...

Ngoài việc giảng dạy những bài học chính trong chương trình, đọc và giải thích các bài đọc thêm, kể những câu chuyện lịch sử bên lề, các cô giáo còn hướng dẫn chúng tôi tập diễn các vở hoạt cảnh lịch sử.

Năm lớp ba cô Hoa, năm lớp nhì cô Liên hướng dẫn chúng tôi tập luyện và trình diễn hai hoạt cảnh: Đinh Bộ Lĩnh cờ lau dẹp loạn mười hai sứ quân và Hội Nghị Diên Hồng. Hai hoạt cảnh này được trình diễn trước các thầy cô, phụ huynh và học sinh toàn trường trong lễ phát phần thưởng kết thúc năm học.

Các cô Hoa, Liên đã bỏ công sức rất nhiều và học trò chúng tôi rất hào hứng trong quá trình tập luyện, dàn dựng và trình diễn hai hoạt cảnh lịch sử ấy.

Về môn Việt sử các cô giáo đã dạy hay, dạy giỏi như vậy và chúng tôi đã chăm chú một cách thích thú trong tất cả các giờ học Việt sử chính và phụ, nhưng kết quả cũng chỉ đọng lại trong ký ức chúng tôi khi rời trường tiểu học Thế Dạ là những “sự tích” chứ chưa phải là “kiến thức” về những sự kiện trong một toàn cảnh hữu cơ của lịch sử Việt Nam. Kết thúc chương trình tiểu học về môn Việt sử chúng tôi được biết rằng: Nước Việt Nam chúng tôi đang sống đã trải qua một thời gian rất dài (hàng ngàn năm), tổ tiên chúng ta phải chiến đấu rất gian khổ và anh hùng để chống đuổi những kẻ từ bên ngoài (xâm lược) để giành lại cuộc sống yên ổn cho đồng bào trong đó có bản thân từng người, gia đình, bạn bè, xóm giềng, thôn làng, tỉnh thành, và cuối cùng là đất nước. Cuộc chiến đấu đó lâu dài, khốc liệt, gian khổ đòi hỏi sự hy sinh quên mình, tài thao lược và ý chí kiên cường của những anh hùng hào kiệt và sự đồng lòng nhất trí, đoàn kết của toàn dân. Trong những thời đoạn nước - dân lâm nguy khốn đốn ấy đã để lại những gương xấu của một số kẻ hèn nhát, ích kỷ cam tâm làm tay sai cho quân cướp nước. Chúng tôi dù là học trò lớp ba, lớp nhì cũng đã có những tình cảm sôi nổi, mãnh liệt, ngưỡng mộ, tôn kính những anh hùng liệt nữ và căm giận khinh bỉ những tên cõng rắn cắn gà nhà cho dù hắn là vua quan hay dân thường. Nhận thức và tình cảm quốc gia dân tộc của chúng tôi thể hiện rất rõ qua việc tranh nhau đóng các vai “chính”, giẫy nẩy từ chối đùn đẩy các vai “tà” trong hai hoạt cảnh tôi đã nói ở trên. Cho dù là học sinh lớp ba, lớp nhì chúng tôi cũng đã nhận diện và gọi đúng tên kẻ thù hàng ngàn năm trước là quân Hán, quân Nguyên, quân Mông cổ, quân Tống, quân Thanh... nói chung là quân Tàu ở phương Bắc, và quân Pháp đến từ phương Tây gần trăm năm trở lại.

Ba cô Hoa, Liên, Tuyết Ba đều để lại trong ký ức chúng tôi những kỷ niệm kính yêu và lòng biết ơn sâu sắc mãi cho đến thời điểm này.

Riêng cô Liên, ngoài công ơn dạy dỗ ở trường, chúng tôi còn học được một bài học vô giá tại nhà cô.

Cô Liên người cân đối, da trắng hồng, nét mặt thanh tú, rất đẹp. Cô người gốc Bắc, giọng nói ngọt ngào thánh thót không những làm say mê chúng tôi ở trường mà còn thu hút chúng tôi về thăm cô ở nhà trong những ngày nghỉ (lúc bây giờ cô ở đường Nguyễn thị Giang). Cô có chồng là giáo sư dạy trường Nguyễn Tri Phương. Lần đầu tiên đến nhà cô, gặp thầy, chúng tôi hết nhìn người này đến ngắm người kia. Mới nhìn bên ngoài thì đây là một cặp không cân xứng. Cô thì rất đẹp còn thầy thì trái lại. Chúng tôi thầm so sánh thầy cô với : “Trương Chi – Mỵ Nương”. Nhưng qua cách đối xử của thầy cô với nhau, đặc biệt qua giới thiệu của cô về thầy, chúng tôi nhận ra rằng họ rất tương kính và hạnh phúc trong một mái ấm gia đình. Họ rất quí trọng và thương yêu nhau. Cô rất hãnh diện về người chồng của mình. Thầy là Nguyễn Viết Tường soạn giả của bốn cuốn sách toán giáo khoa của chương trình trung học đệ nhất cấp. Cô đã đem cả bốn cuốn sách lần lượt ra khoe với chúng tôi. Khi thì cuốn này, khi thì cuốn kia. Đó là những cuốn sách thầy mới đem về từ nhà in.

Cô Liên, cô giáo lớp nhì vô cùng kính mến của tôi, mãi cho đến lúc này tôi không biết cô họ gì, chỉ biết một cái tên đơn điệu nhưng đẹp như một bông sen đẹp nhất, thanh khiết nhất. Cái bông sen đẹp và thanh khiết ấy đã dạy cho tôi một bài học còn đẹp và cao cả hơn: Không nên đánh giá con người một cách hời hợt bởi sắc diện bên ngoài. Cái đẹp cao quý và bền vững vẫn là cái đẹp phát tiết từ trí tuệ và tâm hồn.

Một chuyện liên quan đến sách vở không thể không nhớ vì nó là niềm hãnh diện, tự hào của một đứa bé đã từng là học trò của trường tiểu học Thế Dạ, nơi có thầy hiệu trưởng Hoàng Chương và các thầy Tạ Thúc Thọ, Tôn Thất Lôi là đồng soạn giả các cuốn sách Địa Lý giáo khoa dành cho bậc tiểu học.


Gia đình trong thời gian học tiểu học.


Ở nhà, ba me thấy sức khỏe tôi kém nên chẳng thúc ép gì về việc học, chỉ nhắc qua quít về việc giữ gìn sách vở và sắm sửa đầy đủ các dụng cụ học trò. Ba me tôi đặc biệt lưu ý tôi về tóc tai, áo quần và vệ sinh cá nhân khi tôi đến trường.

Tình trạng còi cọp, ốm yếu của tôi giảm dần trong năm tôi học lớp tư. Đến năm lớp ba sức khỏe tôi trở nên bình thường mặc dù chiều cao không được cải thiện bao nhiêu. Tôi là đứa thuộc loại thấp so với bạn bè cùng tuổi. Tuy vậy tôi có thể chơi đùa chạy nhảy và tham dự hầu hết các trò chơi với bạn bè. Tôi trở nên hiếu động và tự tín bắt đầu từ lớp ba. Tôi có năng khiếu toán và khoa học thường thức nên không phải bỏ nhiều công sức cũng có điểm cao các môn học này. Các môn Việt văn, Việt sử, Địa lý và Đức dục nhờ các cô dạy hay, dạy giỏi giúp tôi trở nên thích thú, chăm chú nghe giảng bài và tự tín trả lời các câu hỏi của cô giáo cũng như nêu ý kiến riêng, nên kết quả cũng không đến nỗi nào. Do vậy việc học của tôi ở trường cũng như ở nhà đều giống như chơi.

Thời gian ở nhà (ngày chủ nhật, ngày lễ và ba tháng hè) ngoài những giờ chơi đùa với anh chị em, tôi thích đọc sách và ra vườn cùng với ông cậu Mới hoặc với ba tôi. Sách tôi đọc là loại sách Hồng dành cho thiếu nhi do ba me và các anh chị mua cho hoặc tôi tự động mua khi có tiền quà và có dịp ra phố.

Tôi đọc khá nhanh nên bao giờ cũng thiếu sách. Mỗi lần có sách là tôi đọc cái vèo, một cuốn, hai cuốn, ba cuốn...

Cuốn sách đầu tiên trong đời tôi được tặng là cuốn “Tập đọc vui”. Tôi không còn nhớ quyển này là của tác giả nào. Một ngày ba tôi từ Hội An về đã mua cho tôi khi tôi bắt đầu tập đánh vần xuôi, vần ngược. Tôi mân mê cuốn sách, đánh vần từng chữ cho đến khi đọc được thành thạo. Những câu chuyện ngắn như: “Bát canh hẹ của mẹ” kể chuyện một người ở trong tù ngồi nhớ đến vị thơm ngon của bát canh hẹ do mẹ nấu… “Chiếc áo lót mình của người sung sướng” kể chuyện một người nghèo nhưng lúc nào cũng cảm thấy sung sướng khi mặc chiếc áo lót do mẹ may… “Cô Ếch đi dự hội” kể chuyện một con ếch trong vườn đi dự hội, cô nàng lấy trái ớt làm đôi hài, lấy chiếc lá tía tô làm dù…

Những bài văn vần như:

“ Chiều qua thằng nhỏ xin ra
Sáng nay em phải ở nhà thổi cơm
Nồi đồng đổ gạo tám thơm
Tính em háu đói chất rơm bốn bề
Nào ngờ quá lửa thành khê
Mẹ em nhiếc mãi thật ê cả người
Em xin các bạn đừng cười
Xưa nay em vẫn vốn lười nấu ăn.”

Và:

Bà Trưng quê ở Châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
Ngàn tây nổi áng phong trần
Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên
Hồng quần nhẹ bước chinh yên
Đánh ngay Tô Định dẹp yên biên thùy
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh
Lĩnh nam riêng một triều đình nước ta
Ba thu gánh vác sơn hà
Một là bá phục hai là bá vương.

… Rất nhiều, rất nhiều chuyện tôi đánh vần từng chữ rồi đọc cả bài. Trên hiên nhà, nơi chiếc xích đu, tôi và quyển Tập Đọc Vui là bạn.

Những cuốn sách của thời tiểu học tiếp theo là những sách hồng của nhóm Tự Lực văn đoàn do me và chị tôi chọn mua cho: Bông cúc huyền, Con cóc Tia, Ông Đồ Bể, Cái ấm đất, Cây tre trăm đốt, Ai mua hành tôi…

Năm lớp nhất, lúc chuẩn bị thi vào đệ thất trường Đồng Khánh, anh Bửu Hàm, bạn học Y khoa của anh trai tôi, đem đến cho tôi cuốn “Khoa học thường thức” do ba anh là ông Ưng Luận biên soạn. Tôi bắt đầu tìm hiểu về “nguyên tắc bình thông nhau”, “phản xạ có điều kiện của Paplop”, “Lực đòn bẩy”… Từ đấy một khái niệm mới về khoa học được hình thành trong tôi.

Thời thơ ấu của tôi còn gắn liền với quyển tự điển Larousse (tập I và tập II) dày cộm. Ba me tôi và ông cậu Mới là những người chỉ giảng cho tôi. Đặc biệt là me tôi. Những lúc tôi nũng nịu, giận lẫy, bà hay đem quyển tự điển ra dỗ dành. Bà lật những trang có hình ảnh và chỉ cho tôi đây là con cá thu, cá nước mặn ở biển, đây là con lương ở ao đầm. Đây là cây nấm ăn được, đây là cây nấm độc và đây là những con bướm, con chuồn miền nhiệt đới. Những hình ảnh bướm hoa chim cá đó theo tôi cho đến những ngày khôn lớn, tôi thu gom lại qua bộ sưu tập tem hoa bướm, cá chim của mình.

Ngoài hai tập tự điển Larousse, cuốn Thơ ngụ ngôn của La Fontaine do Nguyễn văn Vĩnh dịch với những tiết mục kịch do me tôi làm “đạo diễn” vẫn còn lưu dấu trong tôi. Bà chọn một trong các bài thơ ngụ ngôn, phân vai và chúng tôi đọc thơ làm lời thoại. Tôi còn nhớ có lần bà phân vai tôi làm con chuột nhắt, anh kế tôi làm con gà trống, chị kế tôi làm con mèo, khán giả là đứa em kề tôi: Vở con gà trống, con mèo và con chuột nhắt được thực hiện:

“ Chuột nhắt xưa nay quanh xó bếp
Ra khỏi nhà bỡ ngõ một phen
Về khoe với mẹ huyên thuyên
Con qua rặng núi đến miền biên cương
Con chạy nhặn khác nhường chuột lớn…”

Rồi vở: Con ve và cái kiến:

“Ve sầu kêu ve ve
Suốt cả mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối
Một miếng cũng chẳng còn
Ruồi bọ không một con
Vác miệng chịu khúm núm
Sang chị kiến hàng xóm
Xin cùng chị cho vay
Dăm ba hạt qua ngày
Từ nay sang tháng hạ
Em lại xin đem trả…”

Chị ba tôi làm con ve múa hát thật hay, tôi làm con kiến bò lui bò tới đọc lẫm bẫm mấy câu thơ. Bây giờ nhớ lại tôi thấy nhớ mẹ vô cùng.

Thời gian này chị em chúng tôi còn được ba me cho tập chép để luyện chữ viết. Me tôi mua ngòi bút lá tre, giấy thấm, hòa và lọc mực tím, mỗi sáng chủ nhật chúng tôi ngồi vào bàn chép một bài thơ, một đoạn Kiều hay Chinh phụ ngâm. Nếu là ba ra bài thì là thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát hay Kiều. Nếu mẹ ra bài thì là thơ Bà Huyện Thanh Quan, Chu Mạnh Trinh hay Chinh phụ ngâm. Chép xong là học thuộc lòng, cứ thế mà học dù chẳng hiểu gì. Ba me tôi bảo cứ học thuộc đi có lúc sẽ hiểu.

Và rồi những câu thơ:

“Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể ”

“Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên
Có gian sơn thì sĩ đã có tên…”

“Trống tràng thành lung lay bóng nguyệt
Khói cam tuyền mờ mịt thức mây
Chín tầng gươm báu trao tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh…”

...

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẽ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya…”

Chúng tôi học thuộc lòng, đọc vanh vách. Ngay cả những lúc chị em chơi với nhau như nhảy lò cò, nhảy dây, cũng đọc vang cả nhà, bạn bè ba tôi đến ai cũng khen, thế là chúng tôi càng hỉnh mũi và càng thi nhau học thuộc dù chẳng hiểu gì. Có một điều sau này khi lớn lên tôi mới nhận ra lời ba me tôi nói là đúng: “cứ học thuộc, có lúc sẽ hiểu và sẽ cần”. Quả là như vậy, những câu thơ nằm đâu đó trong đầu óc, và khi cần tự nó sẽ ló ra và cũng tự nó đặt ra cho tôi bao nhiêu điều suy gẫm.

Vỹ Dạ, người thầy khai tâm, ngôi trường làng đơn sơ, trường tiểu học, cha mẹ, anh em, thầy cô, bạn bè, những bài học, những cuốn sách, những buổi văn nghệ, những giờ ra chơi tất cả đã un đúc trong tôi để rồi: “không giây phút tôi quên, dù cách xa muôn trùng trường ơi!”


Vỹ Dạ – ngày 22 tháng 2 năm Nhâm Thìn.

Nguyễn thị Kim Thoa


Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
VIETNAM, DEUX DOCUMENTAIRES sur France 2 et France 5 05/03/2024 - 01/06/2024 — France 2 et France 5
Repas solidaire du Comité de soutien à Tran To Nga 22/03/2024 - 26/04/2024 — Foyer Vietnam, 80 rue Monge, 75005 Paris, Métro Place Monge
Nouvel Obs, soirée Indochine, la colonisation oubliée 25/04/2024 18:30 - 22:00 — 67 av. Pierre Mendès France, 75013 Paris
France-Vietnam : un portail entre les cultures 17/05/2024 10:00 - 11:30 — via Zoom
Ciné-club YDA: Bố già / Papa, pardon. 25/05/2024 16:00 - 18:15 — cinéma le Grand Action, 5 rue des Ecoles, 75005 Paris
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us
Kênh RSS
Giới thiệu Diễn Đàn Forum  

Để bạn đọc tiện theo dõi các tin mới, Diễn Đàn Forum cung cấp danh mục tin RSS :

www.diendan.org/DDF-cac-bai-moi/rss