Tưởng nhớ Hoàng Phủ Ngọc Tường và Lâm Thị Mỹ Dạ
Ai đi ngược dốc Phủ Cam một mình
Nguyễn Duy
Ông Tường đi rồi.
Thế là thoát.
Thoát nghèo.
Thoát khổ.
Thoát đau
Thoát buồn…
Tôi gặp ông Tường lần đầu vào tháng Tư 1973 tại Đông Hà, Quảng Trị –
bãi chiến trường vừa im tiếng súng, “cối xay thịt” khổng lồ vừa ngưng
vòng quay cuối cùng sau Hiệp định Paris 27.1.1973. Ông nhỏ thó như một
con tắc kè ngâm rượu rồi nhưng mang một chức trách to đùng, Trưởng ty
Văn hoá tỉnh Quảng Trị thuộc Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền
Nam Việt Nam. Một đơn vị hành chính cấp tỉnh (sau này Ty đổi thành Sở)
duy nhất ở miền Nam lúc bấy giờ. Trong ngôi biệt thự hai tầng cũ kỹ chi
chít vết đạn, ông đãi nhóm nhà văn chúng tôi đi thăm lại mặt trận (gồm
Minh Giang, Hồng Duệ, Bùi Bình Thi, Nguyễn Duy) bữa cơm dã chiến nhớ
đời, có cơm trắng, cá nục kho, rau muống luộc với nước mắm dầm ớt xanh
cay mà thơm. Ông chững chạc, hoạt bát, ngôn từ giao đãi lịch lãm, sang
trọng, thêm giọng Huế diễn cảm, ngược hẳn với hình hài không “tốt mã”
của ông. Hiếm có, nếu không nói là không có, một trưởng Ty Văn hoá như
thế ở nước ta hồi đó. Sau này, khi đã gần gũi nhau tôi mới biết thêm,
ông từng được học hành chu đáo, bài bản cả Việt văn, Hán văn, Pháp văn,
tốt nghiệp khoá 1 ban Việt-Hán trường Đại học Sư phạm Sài Gòn (1960),
nhận bằng cử nhân triết tại Đại học Văn khoa Huế (1964) và từng dạy tại
trường trung học phổ thông chuyên Quốc học Huế (1960-1966). Từ 1966 ông
“nhảy núi”, lên chiến khu hoạt động trong lĩnh vực văn hoá - văn nghệ
cách mạng, trở về Huế sau 30.4.75. “Ông hoàng bút ký” này quả là có vốn
tri thức đáng nể, thuộc loại hàng đầu trong đội ngũ các nhà văn Việt
Nam.
Trở lại câu chuyện 1973, sau khi gặp Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Đông Hà,
nhóm chúng tôi về Cộn, thăm anh em hội Văn Nghệ Quảng Bình sơ tán,
những Xuân Hoàng, Trần Công Tấn, Hải Bằng, Lê Thị Mây, Lâm Thị Mỹ Dạ.
Dạ hỏi nhỏ, bí mật nghe, anh Tường ngỏ lời cầu hôn em, anh thấy sao ?
Hơi bị đột ngột, tôi bảo tốt, chúc mừng, nhưng phải xem ông ấy có vợ
đàn con đống gì chưa, sức em không đỡ nổi đòn đánh ghen đâu đấy…
Mùa thu năm ấy, tôi với Dạ đồng giải nhất cuộc thi Thơ của tuần báo Văn
Nghệ (cùng Hoàng Nhuận Cầm và Nguyễn Đức Mậu). Dạ ra Hà Nội lĩnh giải
thưởng, gặp tôi mời luôn dự tiệc cưới. Đám cưới Tường-Dạ là đám cưới to
nhất làng văn nghệ mà tôi được biết, làm tại trụ sở Hội Liên hiệp Văn
học Nghệ thuật Việt Nam, 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Hầu như hội đủ những
“cây đa cây đề” văn chương Việt : Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Xuân Diệu,
Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, Anh Thơ, Hoàng Trung Thông, v.v.
cùng nhiều tác giả trẻ nổi tiếng lúc bấy giờ. Mối tình Bình Trị Thiên
khói lửa này còn mang ý nghĩa biểu tượng Bắc-Nam sum họp, nên đã đông
lại càng vui, xin kể thêm vào một dịp khác.
*
Bẵng mấy năm xa cách, lần tôi gặp lại cặp chồng Văn - vợ Thơ ấy là gặp
tại Huế, tháng Mười năm 1975. Dịp đó, tôi được bám theo đoàn chuyên
viên kỹ thuật quân sự của Bộ Tư lệnh Thông Tin từ Hà Nội vào tiếp quản
mấy trạm viễn thông lớn của quân đội Việt Nam Cộng Hòa ở khu vực Sài
Gòn – Vũng Tàu, có nhà thơ Phạm Tiến Duật đi nhờ xe. Đến Huế lúc xẩm
tối, Duật rủ tôi tới 26 Lê Lợi thăm Tường - Dạ và Tô Nhuận Vỹ. Tình cờ
gặp cả một nhóm anh em văn nghệ Huế : Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ, Lê Khắc
Cầm… Vui quá trời ! Thế là bỗng nhiên tự phát một cuộc Thơ-Nhạc Bắc Nam sum họp, có thể
đây là một sinh hoạt thuần văn hoá đầu tiên mang ý nghĩa thống nhất,
ngay tại 26 Lê Lợi, trụ sở Hội Văn nghệ Bình-Trị-Thiên vừa được thành
lập. Trịnh Công Sơn và Bửu Chỉ búng ghi ta hát tình ca, rồi song ca Nối vòng tay lớn. Phạm Tiến
Duật đọc thơ Trường Sơn. Mỹ Dạ đọc Khoảng trời và hố bom. Tôi đọc Tre Việt Nam. Lê Khắc Cầm đọc Mưa Nguồn của Bùi Giáng: …Xin yêu mãi yêu và yêu nhau mãi / Trần
gian ôi ! Cánh bướm cánh chuồn chuồn / Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ
dại / Con vi trùng cùng sâu bọ cũng yêu luôn… (Phụng
hiến)
Và, bất ngờ Hoàng Phủ Ngọc Tường đọc thơ. Ám ảnh mãi trong tôi cái thần
thái liêu trai của thơ ông.
*
Tháng Tư 1976, tôi trút bộ quân phục, chuyển ngành ra làm dân. Trên
đường vào Sài Gòn nhậm chức biên tập viên ban Thơ báo Văn nghệ Giải phóng, tôi dừng lại
Huế ít ngày.
Tối 24 tháng Tư, tôi nhập nhóm các ông Trịnh Công Sơn, Hoàng Phủ Ngọc
Tường, Tô Nhuận Vỹ, Bửu Chỉ, ghé chơi nhà Nguyễn Khoa Điềm ở Vỹ Dạ,
uống trà và ca hát dưới trăng. Khuya lạnh, chúng tôi rút về nhà Trịnh
Công Sơn, 11 Nguyễn Trường Tộ, mua nem Bến Ngự nhắm rượu. Gần nửa đêm,
giờ giới nghiêm, ai về nhà nấy. Tôi ngủ lại với ông Sơn. Quá nửa đêm,
công an đi kiếm tra hành chính nhà dân. Hình như hôm ấy, 25 tháng Tư,
khai mạc phiên họp Quốc hội thống nhất đầu tiên tại Sài Gòn, an ninh
siết chặt đặc biệt. Tôi không có giấy tờ tùy thân, vì để trong ba lô
gửi nhà Tô Nhuận Vỹ, bị áp giải ra đồn công an Phủ Cam. Ông Sơn lẽo đẽo
đi cùng. Hai chúng tôi ngồi chung băng ghế suốt đêm lạnh với mấy chị
bán hoa dưới đò sông Hương bị hốt lên và mấy anh chôm chĩa được gom từ
ga Huế. Trong cái rét nàng Bân càng rạng sáng càng cẳt da cắt thịt, tôi
lẩm bẩm một ý thơ nhức nhói, ở Huế
có lệ xét nhà / ai không có giái (giấy) thì ra bốt ngồi. Mờ sáng, hết giờ giới
nghiêm, ông Sơn được phép đi lấy giấy tờ giải cứu cho tôi. Ông chở tôi
bằng chiếc xe đạp cao kều chạy vòng qua bờ sông An Cựu. Chợt thấy câu
khẩu hiệu nhớ đời, chữ đỏ choé trên tường vôi trắng toát :
khách lạ đến nhà phải báo công an.
Chẳng lẽ thơ về Huế chỉ gom lại có thế ?
Huế vang danh là đẹp và thơ kia mà.
Làm sao tóm được cái hồn Huế đây ?…
May thay, sáng hôm ấy, 25 tháng Tư, ông Trần Công Tấn mượn được con xe
La Dalat cà tàng, lại xin được cả một can xăng vài chục lít, tự cầm lái
đưa tôi cùng ông Sơn, ông Tường đi vãn cảnh.
Ông Tường làm hướng dẫn viên, giới thiệu và giảng giải cho tôi mọi điều
về Huế. Bái phục ông có cái đầu bách khoa toàn thư, trí nhớ kỳ nhân,
cách diễn đạt thuyết khách, khúc chiết và hấp dẫn lạ lùng. Chính ông
Tường đã thổi vào thơ tôi cái thần hồn của Huế. Chùm
thơ Gửi Huế tôi viết đợt ấy có bài Nhớ Bạn tặng riêng ông. Đọc
xong, ông đắc ý, ai đi ngược dốc Phủ Cam một mình… thì đúng là mình rồi
!
Hôm nay, con chữ rưng rưng, ngồi trên giường bệnh viết đôi dòng nhớ
thương Hoàng Phủ Ngọc Tường, xin chép lại bài thơ này thay cho nén
nhang tiễn biệt.
Với Hoàng Phủ Ngọc Tường
Tôi về xứ Huế mưa sa
em ơi Đồng Khánh (*) đã là ngày xưa
tôi về xứ Huế chiều mưa
em ơi áo trắng bây giờ ở đâu
Bến Tuần loáng thoáng hàng dâu
em xa vườn lựu từ lâu lắm rồi
lối mòn đá cuội rong chơi
lơ thơ trắng dưới chân đồi hoa mơ
Lan báo hỉ (**) nở tình cờ
bông ngô đồng rụng xuống bờ Hương Giang
chợ chiều Bến Ngự chưa tan
ai đi ngược dốc Phủ Cam một mình.
Huế, tháng Tư 1976.
ND
(*) Đồng Khánh: tên một trường nữ học nổi tiếng.
(**) Lan báo hỉ và ngô đồng là những loại cây hiếm, còn thấy ở cố đô Huế.
Bệnh viện Thống Nhất-Sài Gòn, 25.7.2023
Nguyễn Duy
NÉN NHANG CHO MỘT NỤ CƯỜI
Bái biệt Mỹ Dạ
Gặp em là gặp nụ cười… nhẹ không
Chấp bao nhiêu trĩu nặng lòng
chấp bao nhiêu búi bòng bong rối đường
Từ đây trút gánh đoạn trường
lấp trong huyền ảo khói sương… vẫn cười.
Đằng sau bóng nụ cười tươi
bao nhiêu giọt nước mắt rơi âm thầm.
Nguyễn Duy
NGUỒN : Văn Việt, 7.8.2023
đăng lại với sự đồng ý của tác giả
Các thao tác trên Tài liệu