Ừ thôi người đi
Ừ thôi người đi
Lê Minh Hà
Không bất ngờ. Nhưng vẫn giật mình: Nguyễn Huy Thiệp đã lên đường. Một mình.
Thế là mình sẽ không còn có lúc băn khoăn gần cà phê Nhân cùng ý nghĩ vào hay không vào mỗi lần về Hà Nội.
Nhớ một tối trong một căn phòng ở Bảo Khánh, nhà thầy Hoành Khung. Thầy kể có lần ngồi trên tàu đi từ Bắc vào Nam cùng Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải với mấy người nữa không nhớ tên. Khi đó bạn đọc mới biết đến tên Nguyễn Huy Thiệp chưa lâu trên Văn Nghệ dưới quyền Nguyên Ngọc. Nguyễn Khải đã say mê đọc thuộc lòng từng trang viết mới công bố của Nguyễn Huy Thiệp. Nghe, mình ngộ thêm về hai chữ liên tài.
Thế là Nguyễn Huy Thiệp đã tự giải phóng được mình khỏi đất KHÔNG CÓ VUA.
Thế là đất ấy thiếu đi vĩnh viễn một chứng nhân không có truyền nhân. Anh chàng chị chàng nào mà học mót cái giọng Nguyễn Huy Thiệp thì đảm bảo là đã tìm ra được con đường ngắn nhất để biến mình thành lố bịch. Tài năng nghệ thuật lớn có thể khơi dòng cho một trào lưu sáng tạo. Nguyễn Huy Thiệp lớn, nhưng ông triệt tiêu khả năng hình thành trào lưu vì cái giọng của mình. Khốc liệt. Nhẫn nại. Nghiệt ngã. Lãng mạn. Tàn bạo. Mệt mỏi. Hoang mang... Giọng điệu nào ở chữ của Nguyễn Huy Thiệp cũng dường như đã tận cùng. Và, với nó, chặn đứng trào lưu viết giống mình, Nguyễn Huy Thiệp đồng thời tạo ra hẳn một trào lưu cảm thụ mới trong người đọc. Thế với mình là chân tài. Dở hơi à mà lại đi tu luyện thành bản sao của chân tài.
Từng người tài bỏ chúng ta đi!
Này
hoa ban, có nhớ người đã hỏi
câu "một
ngàn năm sau mày có trắng thế
không?"
*
Nhớ. Hai mươi hai năm trước ông ngồi trong nhà mình, ôm thằng con mình, cõng nó đi lên giáo đường Limburg, rù rì kể về những ngày Hua Tát, những ngày Hoa Ban, những ngày nước Mỹ, những ngày làng Cò, và.
Những dòng chân dung về ông mình viết là ngay sau ngày này.
"Gương mặt ông nhàu..."
Nhà văn có thể không sống, nhưng vẫn tồn tại. Tin rằng ấy là trường hợp của ông.
Bài dựng chân dung Nguyễn Huy Thiệp là bài mở đầu loạt bài dựng chân dung nhà văn mà không nhắc tới tên tác giả hay tác phẩm của mình này mình viết đúng 22 năm rồi, in trên Diễn Đàn Paris [xem Phụ lục dưới đây] và từng bị một bạn đọc là người viết Việt kiều ở Đức trong cơn say chê bai Nguyễn Huy Thiệp đã hung hăng phê phán. Khổ, chả mấy khi mình viết về ai.
*
Khi viết chân dung các nhà văn, nếu có thể, mình luôn muốn gửi cho họ đọc trước, chỉ để nói rằng xin lỗi, nếu anh hay chị không bằng lòng, nhưng Lê Minh Hà xin được giữ quyền của bạn đọc. Một nhà văn thật sự, theo nghĩa là tài năng độc bản của trời đất sẽ chấp nhận điều ấy. Không biết Nguyễn Huy Thiệp đã đọc chưa, có đồng ý với mình trong các nhận xét về ông không. Đồ rằng chưa và không. Không phải vì các nhận xét đó chưa đúng hoặc sai. Nó đúng, trong cảm quan của riêng mình về tác giả – cảm quan của một người đọc ít nhiều chuyên nghiệp để tự cho mình có thẩm quyền xét nhận. Mình đoán Nguyễn Huy Thiệp sẽ chỉ cười, ngay cả khi ông nghĩ người viết chả hiểu quái gì mình cả. Ông cười được, thản nhiên, trước cả những nhục mạ nhân danh nọ kia cơ mà. Có lẽ trước lời khen ông cũng thản nhiên y như thế. Những người nổi tiếng ấy mà, họ biết hơn chúng ta rất nhiều về cái giá của sự nổi, nặng lắm, lằng nhằng lắm, im mà không tuột dốc trước con mắt soi mói, có khi còn hả hê của người đời được là bình an lắm rồi, nhất là ở Việt Nam ta.
*
Thế
nên mấy ai biết được mọi
khuôn mặt của Nguyễn Huy Thiệp, ngoài
chính ông. Mọi ngôn từ màu sắc
người đời dùng họa hình
ông, chẳng qua chỉ như động tác
dùng tay vớt nước. Được bao
nhiêu?
Gặp Nguyễn Huy Thiệp không
phải một lần, nghĩ lại, mình thấy
chỉ duy nhất một lần ông thật sự
cởi mở, không có kiểu cười
cười giả điếc như nhiều lần
sau này khi bên cạnh còn nhiều người
khác, cũng thân quen cả thôi. Những
lúc ấy ông gần như không nói
gì, ở nhà thì chăm chăm phục
vụ vợ để tận tình phục vụ
khách: bê đĩa đậu phụ rán
vừa vớt từ chảo ra, xếp mấy củ
khoai vào đĩa, chế nước vào
ấm trà, và lặng lẽ, miệng hờm
sẵn một nụ cười. Ở quán thì
kín đáo gọi người phục vụ.
Người hân hoan nhất trong những cuộc
đó có lẽ là bạn ông, Bảo
Sinh. Nhưng Bảo Sinh không phải là
người phát ngôn của Nguyễn Huy
Thiệp. Chàng Bát Phố già rậm
lời hình như chỉ đóng vai xoá
đi những khoảng lặng im người ta
không mong đợi khi gặp Nguyễn Huy Thiệp,
ông cũng không muốn thế, nhưng
không có ý định tự mình
náo động, cũng có thể chả
biết làm thế nào trước những
chất ngất không lời. Có một buổi
chiều Hà Nội tôi được Nguyễn
Huy Thiệp cho ăn cơm cá kho rau muống ở
cà phê Nhân, và không làm sao
nối kết được ông chủ bữa
ăn có vẻ lành lành ngồi bên
với ông nhà văn đã làm cho
vợ chồng tôi cười lăn lộn ở
nhà mình hai mấy năm về trước
tại Đức. Về nhận xét „man
dại“
ông dành cho một nhà văn nữ và
nụ cười khó tả ông dành
cho một nhà văn nam đồng hành –
người dường như tìm mọi cách
để chặn Nguyễn Huy Thiệp lên tiếng
khi ông được tây ta tra vấn. Về
chuyện vợ chồng ông lấy nhau vất
vả, nhưng rồi cũng „chôn
xong“
được sáu cụ thân sinh hai bên.
Về sự phải biết „đầu
cơ“
các quan hệ cá nhân và phải
làm sao để giành để giữ cho
được diễn đàn khi còn muốn
nói, muốn viết. Điều này - ông
kể - đặc biệt quan trọng và khó
khăn với Nguyễn Huy Thiệp sau khi nhà
ông bị khám, bản thảo bị thu
giữ. Bao nhiêu lần mình tự hỏi
những bản thảo ấy, mang dấu bàn
tay ông, thủ bút của ông, chứa
chở những sức nặng chữ nghĩa
nghiệt ngã, đau đớn, thơ thới
và tan hòa chỉ riêng ông về
cuộc đời đã ở đâu, giờ
ở đâu, hay tất cả bị biến
thành bụi giấy?
*
Câu
chuyện với Nguyễn Huy Thiệp, và sau đó
với người tổ chức chuyến đi
về phía Đức sẽ cho người ta
biết rằng con đường ra với thế
giới, theo nghĩa „đi“
của ông hồi ấy mới chông gai làm
sao. Được mời đích danh, và
để mời được ông người
ta chấp nhận mời thêm ba người
nữa, nhưng chút xíu nữa Nguyễn
Huy Thiệp không đi được như mấy
năm về trước vì không biết
thông tin được mời để mà
làm visa. Nhớ câu Trịnh Công Sơn
nói khi lần đầu tiên gặp lại
Khánh Ly. Tự do – Trịnh Công Sơn
định nghĩa - là ĐI.
Với
Nguyễn Huy Thiệp, tự do là gì? Im
lặng? Hay là viết? Viết gì? Truyện
ngắn hay là tiểu thuyết? Nhà văn
Thuận có lí giải sự tiếng tăm
đến thế mà Nguyễn Huy Thiệp vẫn
không được biết tới nhiểu ở
phương tây, vì phương tây
chuộng tiểu thuyết, còn nhà văn
của chúng ta thì, dù rất mê
chữ của ông, tôi phải thành thật
với mình: tiểu thuyết với ông là
sở đoản. Đấy là chưa nói
tới những nhọc nhằn trong việc chuyển
dịch tác phẩm mà điều kiện
tiếng giỏi tiếng dày chỉ là một
trong những. Trong status mới viết sau khi Nguyễn
Huy Thiệp mất, nhà thơ Hoàng Hưng
trên FB của mình kể đã công
khai chào ông là thiên tài, và
nói về một đặc điểm trong
văn của Nguyễn Huy Thiệp: Trong nhân vật
của ông có sự chuyển đổi
không cách gì cưỡng được
của con người ở một thời hết
sức đặc biệt tại miền Bắc,
từ ““người
nhà quê” đổi đời, trí
thức hoá, nhà binh hoá, cán bộ
hoá, thành thị hoá, sau mấy mươi
năm là chủ lực trong cuộc chiến
tranh kéo dài, đã trở nên lực
lượng áp đảo xã hội”,
mà “tổng
hợp “hầm bà làng” đủ
thứ (có 1 câu thơ Nguyễn Duy nói
được ý này), cái chất phác
thiện căn xưa vẫn nao nao, nhưng cái
lưu manh, tục tằn, thực dụng, cái
ác, cái ti tiện, tủn mủn, lắt
léo, đểu giả…” là
cái chất đặc dị của nó.
Rất trúng!
Công
nhận! Chỉ thế thôi, mình nghĩ
Nguyễn Huy Thiệp đã ngang sức với
hai nhà văn Việt mình mê lắm, là
Nam Cao và Vũ Trọng Phụng. Họ - những
bậc chân tài mà cái nhìn về
cuộc đời là không thể bắt
chước - đã làm được cái
việc không thường là mô hình
hóa tâm lí con người ở thời
mình sống, nhưng…
*
Mình nhớ
lần đầu biết Nguyễn Huy Thiệp. Là
qua „Huyền
thoại phố phường“,
hình như in trên Người Hà Nội
chứ không phải Văn Nghệ. Không bị
chấn động ngay, may quá, vì ở đó
còn dấu vết của một ảnh hưởng
vô thức làm gợi nghĩ tới „Con
đầm Pich“ của
cụ „Tôi
yêu em“
ở nước Nga. Nhưng mình để ý
ngay: vì cung cách nhìn cuộc sống
của người viết: huyền thoại đấy,
song lột bỏ mọi ma mị sương mù
của lối người tốt việc tốt
người xấu việc xấu vẫn thường
thấy trong chữ nghĩa Việt nhiều năm
ròng khi đó.
Nhưng tới „Tướng
về hưu“!
Buổi chiều mình đọc
truyện ngắn này là một buổi
chiều Hà Nội dường như rất
bình yên, chí ít là vô cùng
yên tĩnh. Cảm giác đầu tiên
là những bức tường chữ nghĩa
chắc chắn và đẹp nữa mà
mình đã chui vào để trú
ẩn cho qua tuổi trẻ từ từ rạn,
còn nguyên hình trạng nhưng đầy
nguy cơ, báo trước một sụp đổ
không thể đừng. Choáng quá, vì
vợ
hoan hỉ hỏi chồng chuyện tính mâm
làm cỗ đám hiếu án táng
bố chồng có sát
không, và anh chồng, trụi thùi lụi
đúng một từ: „Sát.“
Giết?
Chính xác? Dám đoan quyết với
mọi người: không ai có thể dịch
được từ này với toàn bộ
cộng hưởng từ phía người
đọc, kiểu như mình.
*
Từ
đó, theo sát Nguyễn Huy Thiệp. Từ
đó, phát hiện lại một điều
hiển nhiên: Con đường một tài
năng nghệ thuật nhất định sẽ
đi qua là trước phải khác người,
sau phải khác mình, hoặc ngược
lại.
Rậm lời về sự Nguyễn Huy
Thiệp đi con đường này cũng
chẳng để làm gì. Khác người:
đã hẳn rồi. Những tài năng
cùng thời với ông đồng thanh ca
ngợi rồi. Khác mình: thì cứ
nhìn các tập hợp tác phẩm của
ông trong mỗi mạch cảm hứng, từ
truyện ngắn, qua tùy bút phê bình
phiếm luận như bổ như chém, qua
kịch, qua tiểu thuyết! Nguyễn Huy Thiệp
khác người khác mình là ở
cái đằng sau tấm lưng hiện thực
mà người đọc ông chú mục
khen chê: Ấy là sự đào sâu
chữ ĐẠO một cách bền bỉ, có
hệ thống, là cảm giác về một
trật tự tinh thần không hẳn là
mới, căn cứ vào một thước đo
chính trị xã hội riêng, tự cắt
tự khắc, với hi vọng có thể
chỉnh lại những xuyệch xoạc của
cuộc đời hằng thường. Có
phải vì thế mà ông lập ngôn
và bắt nhân vật lập ngôn, chẳng
cứ xuất thân thế nào, từ ông
vua của đoàn quân chân đất
thời xưa tới tay ba trợn dẫn dắt
đám cùng khổ trong rừng thời
nay, từ anh giáo làng tới bà lão
trong mắt con cái đã lẩn thẩn.
Chữ nghĩa của Nguyễn Huy Thiệp chất
chở nhiều quan niệm, quan điểm, nhưng
lại không rơi tọt vào văn chương
tải đạo nói thực là rất
chán, đọc xong, biết đạo rồi,
biết cách giải quyết cuộc đời
của tác giả rồi là không có
nhu cầu đọc lại, vì đời thực
đã rời xa lâu rồi. Đạo của
Nguyễn Huy Thiệp là những triền miên
suy tưởng không ở bên trên, bên
ngoài đời thường, mà thổ ra
từ đời thường nhiều chiều,
hay bậc nhất có khi lại là từ
dưới đáy. Cái dân giã
trong hành ngôn của nhiều nhân vật
lấp lánh tri thức dân gian thuyết
phục, thống trị không phải chỉ
một đôi người như anh giáo
Triệu. Thực lòng, mình khoái kinh
khủng cái cách bà cụ già
trong bài học nông thôn lẩm bẩm
về thượng tầng „các
cụ toàn chim to“,
bàn về hạnh phúc „có
hai hòn dái thì mất rồi còn
đâu“,
hay về nam quyền „ăn
thì họ ngồi mâm trên ngủ thì
họ đè lên mình“. Cũng
thế, cái lối bàn về văn chương
rất hiểu rất hợp nhau của một trí
thức nho học trải đời với ông
đồ tể vừa ngộ ra „chữ
mới cần“
sau khi bố già chết và toàn tâm
toàn ý vì tương lai con cháu
với thứ văn chương ba rọi để
làm quan. Hay bài học dạy đời
chua chát của thằng cha Bường tinh đời,
ba trợn, lưu manh, đểu giả, thẳng
tuột đến mức trung thực và có
lúc cũng dịu dàng. Thật là
những cái tát tận tình, những
cú điểm huyệt lịm người với
những kẻ như mình, coi chơi với
chữ là một hobby chuyên nghiệp, đấm,
tát như thế mà lại đả thông
được kinh mạch thì sướng vô
chừng.
*
Sẽ thật bất công cho
nhà văn theo toàn bộ nghĩa đẹp
đẽ nhất của từ này khi bình
rằng ông ta bà ta hết thời, chững
lại, chậm đi, nhạt hẳn căn cứ
vào một hai ba tác phẩm nào đó.
Là mình nói bạn đọc ấy,
mà mình cũng thuộc về. Xét định
một nghệ sĩ, phải căn cứ vào
biên độ của sự khác ở họ.
Và chớ tưởng rằng…
Là
có thể nhận định về sự phát
triển tiến lùi ở họ dựa vào
thời gian tác phẩm được trình
làng. Chẳng có ý nghĩa gì
nhiều. Ngấm, qua mình và qua đôi
ba bề trên bè bạn trong nghề, mình
biết rằng có rất nhiều tác phẩm
được sáng tác sau lại được
trình hiện trước, có những tác
phẩm dằn vặt, kiểm soát tác giả
một thời gian rất dài, không chịu
hoàn thành, và trong khoảng thời
gian đó, một hai ba tác phẩm khác
lần lượt ra đời, thành công
vang dội trong sự nhìn nhận của bạn
đọc và truyền thông. Ở Nguyễn
Huy Thiệp, những tác phẩm vả một
phát vào sự vô lương của
người đời, làm nên tên tuổi
ông buổi đầu, tạo sóng thần
trong làng chữ lại không phải là
thứ ông ấy viết đầu tiên. Ai
cũng biết rồi đấy: Những ngọn
gió Hua Tát, năm ông mới ngoài
hai mươi tuổi, khéo cũng là năm
cái anh con bà nông dân trở thành
thầy giáo ở cái xứ chim kêu
vượn hót và biết sợ rượu.
(Ờ thế, Nguyễn Huy Thiệp từng kể
sợ rượu chỉ vì dạy học ở
rừng.)
*
Tác phẩm nào sẽ được coi là hay hơn tác phẩm nào, trước hơn sau hay ngược lại, không bàn, nhưng mình biết rằng tài năng nào cũng đa diện. Mỗi mạch nguồn tâm cảm ở họ buộc họ phải đi đến cùng, phải làm cạn kiệt đi thì mới yên thân, và kết quả thường là những tác phẩm nhiều khi cực khác nhau, chỉ giống nhau ở chỗ xem, nghe, hay đọc, là biết kẻ nào làm ra nó. Vàng lửa, Phẩm tiết, Kiếm sắc, Giọt máu có khác Chút thoáng Xuân Hương, Trương Chi không; Tướng về hưu, Không có vua, Những người thợ xẻ; Chuyện ông Móng có khác Những bài học nông thôn, Sang sông, Muối của rừng không? Gạ tình lấy điểm hay Tiểu Long Nữ có khác Tuổi hai mươi yêu dấu không? Suối nhỏ êm dịu kịch có khác Trò chuyện với hoa thủy tiên tiểu luận không? Quá khác. Chỉ có điều không ai có thể nhầm được đấy là chữ của người nào. Tôi muốn lấy một ví dụ: Đọc nhiều nhiều rồi, rồi giới hạn lại ở các tác phẩm của mấy tác giả nổi danh cùng thời, gặp trầm tư „Lấy tủ hay không lấy tủ“, đảm bảo chúng ta sẽ nghĩ ngay ra tên người đẻ ra nhân vật là Phạm Thị Hoài, và tới “Ai đồng ý bố chết giơ tay“ thì khó có thể tòi ra tên một ai khác là người viết, ngoài Nguyễn Huy Thiệp. Với câu này, nhân vật Đoài của Nguyễn Huy Thiệp trong „Không có vua“ vượt mặt ông Văn Minh của Vũ Trọng Phụng khi đối diện cùng một hiện thực. Văn Minh mới chỉ cáu tiết vì cụ cố Hồng sống dai là „vô đạo đức“, bất hiếu và vô lương, nhưng chưa đạt tới độ tàn nhẫn tỉnh rụi như Đoài, một sự tàn nhẫn thực ra đầy lí trí và thực tế. Đấy là sự khác biệt trong tính cách của nhân vật hay trong phong cách nghệ thuật của nhà văn, câu hỏi này không xuất hiện trong đầu mình khi đọc. Mà là một câu hỏi khác: Người Việt đang sống qua những thời thế lạ lùng đến nỗi bất thường là bình thường, và đó là đi xuống hay đi lên? Đôi khi mình ghét các tài danh: họ đẩy chúng ta vào một bầu không khí chữ nghĩa riêng đầy bứt rứt, dằn vặt chúng ta, họ không để chúng ta sống cho yên. Lại cũng thương họ: một người dịch có thể tạo cho mình liên tưởng dài ngoẵng từ anh trí thức còi của Việt Nam tới tận hoàng tử Hamlet tận Đan Mạch xa xôi để mà hiểu cái chua chát tồn sinh trong câu „lấy tủ hay không lấy tủ“, nhưng tầm đâu ra một dịch giả có thể dịch được hồn vía đời sống xã hội Việt Nam đằng sau cái câu nhẹ như không của một trí thức xã hội chủ nghĩa:"ai đồng ý bố chết giơ tay".
*
Bạn
đọc hôm nay bị bỏ bùa vì
hai chữ ĐỔI MỚI, trói luôn mấy
chục năm nay mấy ông bà người
tài Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm
Thị Hoài, Nguyễn Quang Lập… vào
trong vòng ĐỒI MỚI CỞI TRÓI. Ấy
chết! Đừng có tin là đổi
mới tạo cảm hứng, tạo sinh lực;
tháo thừng tháo chạc gì cho ngòi
bút của họ. Đổi mới, qua vai trò
của báo Văn nghệ, đặc biệt
là lúc dưới quyền Nguyên Ngọc
chỉ đóng vai trò mở hé cửa
cho xuất bản, và nhờ thế bạn đọc
có cơ biết tới những tài danh
này thôi. Mình ngờ Thiên
sứ
Phạm Thị Hoài, Những
mảnh đời đen trắng
Nguyễn Quang Lập, Tướng
về hưu hay
những Lân
những Ánh
những Huệ
những
Vinh
Hoa
cùng Nguyễn Huy Thiệp, những Kiên
những Phương
và
những xác chết của Bảo Ninh khéo
nằm trong ngăn kéo bàn hay cái hòm
dưới gậm giường chờ đổi
mới
chẳng phải một ngày. Phải xác
quyết lại một điều: ĐỔI MỚI
có thể tiếp sức cho họ trong sáng
tạo, nhưng các tác giả này,
bằng sự xuất hiện của mình, đã
trở thành một phần của nó, tạo
nên nó ở trong văn chương, không
phải ĐỔI MỚI làm nên họ.
Một tài danh thật sự không đi tìm
tự do sáng tạo ở bên ngoài, mà
là, và chỉ là trong chính mình,
một mình bầm dập, lầmlũi, đau
khổ, ê chề nhất, vì tự biết.
Nhớ
mà xem „Thu
có vẻ như cời than thắp lửa –
Ta lại buồn như sắp sửa vào yêu“,
câu thơ ma ám ấy ông họa sĩ
Chu Hoạch viết có khi là trong lúc
móc cống đấy. Giời ơi!
*
Mình
không có cái duyên gặp Nguyễn
Huy Thiệp nhiều. Mấy lần về Hà
Nội vừa rồi cũng không tìm thăm
ông. Và cũng không ân hận. Nhà
văn cần gì ở bạn đọc? Đọc.
Đọc. Và đọc. Và đánh
vật với chính bản thân về các
giá trị, sau khi bị chữ của nhà
văn nung, đập, làm mất ngủ. Thế
thì mình là một người đọc
chung thủy của ông rồi. Thế là
có duyên với nhau rồi.
Nhưng em muốn
kể ở đây cho anh nghe về cái
duyên buổi đầu với anh cơ anh Thiệp
ạ.
Ấy là năm 1989.
Các nhà
xuất bản in ào ào, dịch ào ào,
bán ào ào, sách cũ sách mới,
của ta của tây của tàu. Rồi nhu
cầu đọc bão hòa, túi tiền
bạn đọc cạn, vốn nhà xuất
bản đọng. Và thế là sách
được tung ra bán với chiết khấu
giảm giá có khi tới một nửa căn
cứ vào giá bìa. Mà giá bìa
thì mỗi lần in lại chênh lệch
đáng kể. Mình mới ti toe đi lấy
chồng, dạy chuyên văn ở Hà Nội
– Amsterdam, số giờ dạy chỉ bằng 1/3 đồng nghiệp mà lương được
thêm hẳn 3%, nhưng thời bù giá
vào lương bù da vào xương,
hai vợ chồng bốn bàn tay trắng, thế
là xui nhau đi bán sách để ăn
chênh lệch. Bọn mình đã khuân
không biết bao nhiêu tác giả tác
phẩm tây tàu ta nằm trong kho của phát
hành sách Hà Nội lên đổ
đống ở bờ ruộng chỗ Nghĩa Đô,
bán chạy như người ta bán dưa
lê. Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Quang Lập, Dương Thu Hương
cũng nằm chung ở đó. Sau này, một
người làm ở phát hành sách
bảo bọn mình bán Nguyễn Huy Thiệp
Phạm Thị Hoài Nguyễn Quang Lập còn
nhiều hơn mấy cửa hàng của họ
nằm ở Tràng Tiền Nguyễn Xí, vợi
cả kho.
Sau này thì mình mới
nghĩ ra là bán ở bờ ruộng giữa
cánh đồng nhưng Nghĩa Đô khi
đó là nơi đi về, làm việc,
ăn ở của rất nhiều nhân viên
cán bộ các viện, các trường
đại học – những người mến
chữ. Chứ lúc đó, bán cực
chạy, vì khách cứ động tay vào
cuốn nào là có thể nói cho họ
ngay nội dung, bonus thêm vài ba bình luận
mọn, nhưng hai vợ chồng lại không
biết gì về marketting, và thế là
bỏ qua nhiều cơ hội để thành
đại gia đầu nậu sách.
Cơ
hội đáng nhớ nhất là một
buổi trưa đường vắng thì có
khách. Khách tự giới thiệu là
Nguyễn Văn Lưu, đại diện của
nhà xuất bản Văn học, nói rằng
ông và đồng nghiệp ở nhà
xuất bản Thanh niên và Quân đội
có nghe tin về một quán sách giữa
đồng, có theo dõi ít lâu nay và
ba nhà xuất bản muốn cùng xây
một nhà sách to ở Nghĩa Đô,
với điều kiện vợ chồng mình
là người quản lí. Sẽ. Sẽ.
Sẽ. Ngon ăn thế, thế mà lúc đó
mình chỉ chăm chăm với một ý
nghĩ thú vị bác này là người
đang đánh ông mặt nhàu nằm
ở bờ ruộng của mình đây,
rồi rụt rè trình bày rằng vẫn
đang đi dạy, chỉ định bán
sách một thời gian để thoát
nghèo.
Ối chao ôi, chữ nghĩa hại
người đến vậy. Nó không làm
mình thông minh mà là u mê, vào
đúng lúc ấy. Và chữ của
Nguyễn Huy Thiệp hiển nhiên có góp
phần vào sự làm mình không
thông minh.
Thế nên, giờ mình phải
ngồi ở rất xa cái bờ ruộng chắc
là lên phố lâu rồi kia để
viết về ông mặt nhàu. Như bùn
khô. Như ruộng rạ.
*
Em sẽ
không nói thương tiếc anh đâu
anh Thiệp nhé, vì anh buông được
gánh khổ ở cõi nhân gian này,
vì anh gặp chị rồi.
Chữ nghĩa
độc lắm. Ở cõi ấy có khi
anh mở lại nhà hàng đi, đừng
dính vào chữ nữa. Ai biết thế
nào về thể chế của Diêm
Vương.
Lê Minh Hà
Berlin 27. 03. 2021
Phụ lục
CHÂN DUNG NHÀ VĂN, TRONG MỘT THẾ NHÌN (*)
Mặt ông nhàu. Tôi biết rằng có thể ông không nhất thiết trải qua toàn bộ những cảnh đời mà nhân vật của ông đã trải. Ông không sống trong một gia cảnh không quân thần phụ tử. Nhưng ông đã đói cái đói của kiếp người, đã phải nhào lộn giữa đời như một giọt máu, như một... Những vết rạn trên gương mặt bùn khô của ông không nói hết được với ta về những cơ cực vò xé tâm hồn ông trước khi cho ông thấu hiểu nỗi đời nhường ấy.
*
Trong văn học đương đại Việt Nam, chưa có một nhà văn nào lại làm thiên hạ tốn bút mực nhiều như ông, ngay trong khi tác giả còn chưa chết. Không có trước những bước dọn đường, tên nhà văn nổ bùng trên báo chí, bằng một loạt truyện ngắn dữ dội và hết sức thơ. Nếu đọc ông bằng một tâm hồn chỉ có phẫn nộ và phẫn nộ, người ta sẽ hả hê bởi cái giọng văn gằn lạnh ấy. Nếu đọc bằng đôi mắt của người yêu văn chương nhưng mới chỉ dừng lòng yêu ấy ở những gì hờm hợp với mình, người ta sẽ khó chịu nổi ông. Thực đơn chữ nghĩa ngày ấy không có món ấy. Và thói quen trong sáng tạo và thưởng thức sáng tạo bao giờ cũng lì lợm hơn bất kỳ thói quen nào.
Người ca ngợi ông thì hết lời ca ngợi. Nhưng liệu ông có hài lòng chăng vì những lời khen không hoàn toàn thỏa đáng, không bắt đầu từ trang viết của chính ông mà lạc tuốt ra ngoài qũy đạo văn chương. Người chê ông thì cũng hết lời. Và cái hèo người ta dùng để nện ông thì thật đáng sợ: Là quan niệm đạo đức của cả một thời. Tài có mà tâm thiếu. Tôi nhớ có nhà phê bình đã phán một câu như thế về ông, xanh rờn.
Cứ sống đi đã. Ông thường trở lại với bạn đọc nhiều lần trên từng trang sách với ý tưởng này. Và cũng nhiều lần nói thế với cử tọa bằng cái giọng 'cả tẩm', điềm đạm, trầm tĩnh. Tôi nghe như chứa cả một chút chán chường. Có cảm giác rằng ông hiểu rõ những người đang chất vấn ông đến với ông vì lý do gì. Biết ngưỡng mộ một tên tuổi luôn là mốt của nhiều thời. Biết trình bày lòng ngưỡng mộ ấy là một cách trang điểm không phải dở của nhiều người tự tin đến đáng ghen tỵ.
Ông ý thức rõ ràng về danh tiếng của mình. Danh tiếng, chứ không phải tăm tiếng. Điều ấy ở ông mạnh đến nỗi ông biết rằng bản thân cái tên ông là một lực cản sáng tạo, và thời của ông thực ra đã qua rồi. Tôi nhớ một nhà thơ đích thực từng khao khát được người ta chôn mình đi. Tài không lớn, tâm bé bé, không thể đạt tới tầm khao khát tự hủy đó. Đời nghệ sỹ sẽ dài hơn đời người trong nghĩa sinh học đơn giản nhất khi người nghệ sỹ được chọn là một cọc mốc, một tiêu chí trên hành trình sáng tạo của những người nghệ sỹ khác của dân tộc mình, và xa rộng hơn.
Từng để cho một nhân vật tiên đoán nền chính trị thế giới rồi ra sẽ là một món nộm suồng sã, ông hay nói về thời và thế. Và khái niệm bá đạo, vương đạo cũng hay trở đi trở lại trong tác phẩm của ông, trong câu chuyện của ông. Đọc ông, và nghe ông, tôi nhận ra điều này: Ông biết tìm thời thế để chính danh. Biết rõ mặt trái thường không trong ngọc trắng ngà của chính trị, ông bộc lộ rõ và can đảm sự nhạy cảm chính trị của mình. Nghe ông, trong tương quan với nhiều người viết cùng thời, cùng hoàn cảnh sáng tạo như ông, không sợ nhầm lẫn khi nói rằng đó là một nhân cách. Nhân cách không phải bao giờ cũng trùng khít lên cá tính sáng tạo. Nhưng khi điều đó xảy ra, ở một tầm mức cao, ở độ đậm đặc lớn, thì điều đó là một may mắn cho những người đam mê nghệ thuật và chọn khuất lụy nghệ thuật như một cách sống. Trong trường hợp ông, đó là may mắn cho bạn đọc, cho những người tin vào khả năng biến cải của nghệ thuật và của những người tạo ra thứ báu vật này.
Bươn trải trong đời sống để vươn tới trong nghệ thuật, ông đã tự chọn cho mình một con đường khó khăn. Cũng có thể bảo là nhà văn của chúng ta khờ khạo. Hay ngông ngạo? Khi ông là nhà văn Việt Nam, khi ở Việt Nam, nghệ sỹ hoàn toàn sống được nếu biết biến mình thành một thứ công chức. Ông từ bỏ biên chế nhà nước, ông đi buôn, ông mở quán, ông vẽ... Ông tự sống. Và bây giờ, tự sống bằng ngòi bút.
Ông nói rằng nhất thiết phải vương đạo trong nghệ thuật. Ở một nơi nào đó, một lúc nào đó, ông đã nói và viết rằng phải vương đạo trong chính trị. Vương đạo thì chỉ có một. Vậy là hai khái niệm này không loại trừ nhau. Liệu có còn nghệ thuật không trong một bối cảnh chính trị vương đạo? Tôi không hỏi, nhưng lắng nghe giọng ông, đục và khàn đi, cảm giác như hơi âm u khi nói về điều ấy, tôi biết rằng ông tin vào khao khát của mình. Và tôi muốn bị thuyết phục. Phải, lịch sử văn minh nhân loại đã cho thấy rằng một nền nghệ thuật có thể thăng hoa từ đói nghèo, mông muội, nhưng để đi xa hơn nữa, ở cái thời con người không được quyền mông muội như mấy ngàn năm về trước, nghệ thuật đòi hỏi nhiều lắm, nơi chủ thể sáng tạo, nơi khách thể thụ hưởng sáng tạo ấy.
Ông nói với bạn đọc rằng cần phải để cho mình không được nghèo. Đó là điều kiện để không bị nhục. Ở đâu, bao giờ, cũng phải như thế. Tôi không biết va ly của ông có lèn chặt mì gói như va ly của nhiều nhà văn và cán bộ Việt Nam khi ra nước ngoài làm việc thời bao cấp còn đắc thắng không? Nhưng tôi tin rằng không, ngay cả khi tâm hồn bao tử của ông khao khát cái món lõm bõm ấy. Ông bày tỏ một cách thoải mái thái độ tôn trọng sự giàu có ở những xứ ông đặt chân tới ngoài Việt Nam. Tôn trọng, không phải là sùng mộ. Ông cũng kể tôi nghe về ý định sẽ mua một ngôi nhà sàn đặt chơi trong vườn nhà. Mang ngàn sâu về thành thị, một cách xuất xử hành tàng thú vị của thời nay. Đấy là thái độ của người từng làm ra và biết giá trị tốt đẹp của vật chất, là thái độ của người tự sống, không bám víu vào bất kỳ một thứ lộc nào ngoài lộc trời dành cho mình: Là tài năng. Chính cái đó tạo ở ông phong thái đường hoàng và giản dị hiếm thấy. Biết mình, và biết tự hào, người ta thường không màu mè. Tôi cười: Đấy là thái độ sống của người gần đất xa trời. Ông không cười: Đấy là đường gặp chân lý.
Đã phải là chân lý chưa, khi ông nói, với một chút ngậm ngùi, rằng trí thức Việt Nam hiện đang sống ở hải ngoại được đào tạo tốt hơn trí thức xã hội chủ nghĩa nhà mình. Hình như, chưa có ai, trong giới văn nghệ sỹ Việt Nam hiện nay ra nước ngoài nói thế. Muốn biết bản chất của bất kỳ hiện tượng nào, chấp nhận sự khác biệt, thừa nhận sự hơn của người, đấy là thái độ của kẻ sỹ theo đúng nghĩa. Không ăn gỏi đời sống, không lên giọng phán xét, không tự đồng nhất với dân tộc, tự tách biệt với cơ cấu mà hiến pháp Việt Nam hiện thời đã cho quyền lãnh đạo cả dân tộc, ông nói, kiêu hãnh, giản dị, 'tôi là một nhà văn danh tiếng của một dân tộc nhược tiểu'. một dân tộc nhược tiểu gồm tám mươi triệu. Đấy là một trải nghiệm cay đắng, bình tĩnh, thực tế của một người mà tôi tin rằng lịch sử văn học Việt Nam sẽ ghi nhận như là một trong những nhà văn lớn nhất (ít thôi) của văn học Việt Nam ít nhất trong năm mươi năm đổ lại đây. Trong một nghĩa nào đó, tôi nghĩ rằng ông đã đưa văn học Việt Nam đạt tới tầm nhân loại bằng sáng tạo của mình. Ông cần một Người Dịch. Liệu có ảo tưởng không? Vì thực tế cho thấy một nhà văn càng dân tộc bao nhiêu thì càng mang tới cho dịch giả nhiều gian nan bấy nhiêu trên con đường chuyển dịch ngôn ngữ và: đồng sáng tạo.
*
Một nhà văn hải ngoại từng nói về văn ông: 'Văn chương đến thế thì thôi'. Đấy là sự bùng vỡ của thi pháp, của quan niệm về con người, về không gian lịch sử, về thời gian lịch sử, của quan niệm về biểu hiện... Điều này rất hiếm thấy ở một tác giả, ngay trong những khoảng giao thời của nghệ thuật, khi mà vấn đề hiện đại hóa nghệ thuật trở thành vấn đề sinh tử của nó. Mỗi người, từ vị trí của mình, từ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm nghệ thuật của mình đã đọc ông một cách. Sự thụ cảm văn ông vì thế về lý thuyết là không thể giới hạn. Người thì đơn giản là không thể chấp nhận. Vì lối tưởng tượng đời sống, lối hiểu đời sống của ông. Vì giọng văn nén chặt, rất cộc, vẻ như triệt tiêu mọi cảm xúc, ngay cả khi sử dụng tính từ. Nhưng vẫn phải đọc. Người khoái cái giọng sát phạt ở một số truyện của ông, hả hê với lối mổ phanh đời sống một cách lạnh và tỉnh. Người thích cái chất thơ bùa ngải ở một số truyện khác. Kẻ lại để mình bị mê hoặc bởi cái lãng đãng khó định hình như sương khói, như lên đồng ở một số sáng tác gần đây hơn... Ông buông bắt người đọc bằng khả năng viết không thể thay một chữ nào, và bằng khả năng ấy, ông đưa tới cho chúng ta một cách nhìn mới về lịch sử, về các cá nhân làm nên lịch sử, về nhân dân. Đừng tưởng ông bê vác khối tâm hồn nông dân lên mặt giấy khi ông xưng 'tôi sinh ra ở nông thôn, mẹ tôi là nông dân'. Ông không giả tảng, không làm duyên bằng lý lịch. Nhân vật của ông là con người trong cái phận vừa lớn lao vừa bé mọn của mình, trong ý thức về sự biết và không biết của mình, trong nỗi buồn trước cái đẹp, cái chua chát của đời sống. Ý thức được tất cả những điều đó, quả thật 'làm người khó lắm'. Tôi mê một nhà văn đã từng làm cho những kiếp sống mòn thành sống mãi, và tôi nhiều năm nay không có ý định so sánh tác gia này với bất kể người viết Việt Nam nào. Nhưng bây giờ thì tôi nói rằng nhân vật của ông, trên một tầm ý nào đó, có thể gọi tên, là nông dân, là trí thức. Nhân vật của nhà văn chúng ta đang nhắc đây, trên chính tầm ý ấy chỉ có thể gọi: Con người.
*
Viết, trước hết là cho mình. Cái hành vi hết sức vị kỷ này, ở thiên tài, sẽ có kết quả là báu vật cho thiên hạ. Báu vật ông trao cho chúng ta, giống như là kiếm sắc, chặt, gọt, lạng đi tất cả những gì màu mè, không buộc người đọc phải đồng ý với ông mà buộc người đọc đối diện với chính mình, một mình náo động. Để cuối cùng, tin ở yêu thương. Tôi vẫn luôn luôn nghĩ thế về văn ông, ngay cả khi ông phanh phui cái ác, cái không như ý thì cũng không phải là để hể hả, mà là xót xa. Năng lực tưởng tượng kỳ diệu của ông đã buộc mỗi người đọc phải tự nhận diện cái ác một lúc nào đó có thể đã xuất hiện và chế ngự chính mình, và hủy diệt nó. Tận cùng văn ông là khả năng yêu thương và đau đớn.
Cái đấy là cái cần có ở mỗi người, và là chính yếu ở một nghệ sỹ. Đọc ông, nghe ông, tôi không nghĩ rằng tất cả đều chính xác, nhưng ẩn chứa trong đó là sự thật đó của tâm hồn ông. Vậy thì có nên băn khoăn nhiều không, vì những điều này khác ông nói hay viết có thể là chưa đúng, theo ý chúng ta. Có thể, được chăng, đọc trong những khẳng định quyết liệt của ông một ý hướng chống lại áp chế, hay là một biểu hiện cái quyền ít nhiều được thất thường trong tính khí của bậc kỳ tài. Nếu ngần ngại trước các khả năng ấy, có thể nói đơn giản: Là nhà văn, sống và sáng tạo ở Việt Nam trong những năm tháng này, ông không phải chịu trách nhiệm vì sự thiếu thông tin của mình.
Tôi thấy ông. Ông cô đơn làm sao với hành trang nội tâm của mình. Và, vĩnh viễn đơn độc trên hành trình sáng tạo. Về điều ấy, ông không có lý do gì để than phiền. Đấy là số kiếp của những bậc chân tài. Tôi lắng nghe, và hình dung, qua những khoảng ngừng ngắn giữa lời, khi ông lặp đi lặp lại 'tức là...', như tìm lời giải đáp trước hết cho mình, và, qua âm thanh im lặng của từng con chữ rất ông. Ông đã tạo hẳn một dòng chảy mới cho văn học Việt Nam đương đại, là bóng cả của nhiều người viết hiện nay. Ông không biết ông là một trong những người thầy lớn mà tôi đã chọn để quên đi, để bước ra khỏi bóng của họ. Dù sao thì tôi đã không nói điều đó. Ông và tôi không cần ở nhau sự màu mè.
Một bạn viết hơn tuổi có nói rằng nếu tôi không phỏng vấn ông nhân dịp gặp ông ở nơi này thì thật đáng chém bút. Để làm gì? Và tại sao ông? Vì danh tiếng của ông? Những huyền thoại bao giờ cũng đầy dẫy xung quanh những người danh tiếng. Tôi đã đánh rơi mà không tiếc ý thích để huyền thoại bỏ bùa từ rất lâu rồi.
Đặt người đối thoại trong một quan hệ hỏi đáp nghiêm cẩn thế, sẽ chắc chắn được nghe nhiều tuyên ngôn, nhiều lời hay ý đẹp. Và khó có gì hơn thế. Nhưng tôi thích tin hơn vào những đối thoại giản dị, giữa CON NGƯỜI.
4. 2000
Lê Minh Hà
(*) Bài đã đăng Diễn Đàn (báo giấy) số 96, tháng 5.2000.
Các thao tác trên Tài liệu