Văn hóa Hà Nội
Văn hóa Hà Nội
THANH THẢO
“ Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến ”. Câu này nói nhiều hơn về sự sầm uất của hai đô thị từ ngày xa xưa ấy, nhưng không chỉ là sự sầm uất, mà còn là những nét đặc sắc hay sự giàu có về văn hóa.
Tôi còn nhớ một bài thơ của nhà thơ Trúc Thông viết
về Hà Nội từ hơn 40 năm trước, ngay trong những tháng
ngày Hà Nội đánh máy bay Mỹ trên bầu trời của mình,
bài thơ có đoạn :
Hà Nội
ơi
Tôi yêu dưới đáy hồ
lưỡi kiếm
Những thế hệ cầm soi không thẹn với
cha
ông
Yêu một sớm mưa người đi thưa thớt
Nhìn cây xanh
thành phố bỗng đông hơn…
Thành phố ta giặc trút mấy
lần bom
Mà chị ơi sách Kim Đồng chạy nhất
Người lớn
né cho em vào mua trước
Được cảm thấy mình che chở
những mầm non.
Đoạn thơ không chỉ nói về hùng khí
của Thủ đô hay lòng yêu nước của người Hà Nội. Nó
còn lấp lánh những gì khác nữa. Hà Nội ngày đó dân
sơ tán nhiều, nên hàng vạn hàng vạn cây xanh bỗng như
“ đông hơn ” trên phố xá một ngày mưa. Những “ công
dân xanh ” của thủ đô là nét đẹp thiết tha nhất của
thành phố, nó hòa điệu với đoạn thơ sau :
Thành
phố
ta giặc trút mấy lần bom
Mà chị ơi sách Kim Đồng chạy
nhất
Người lớn né cho em vào mua trước
Được cảm
thấy mình che chở những mầm non.
Có một vẻ đẹp đặc trưng của người Hà Nội thời đánh Mỹ : đó là thói quen đọc sách, ham sách, trân trọng sách. Dù ngày ấy sách không nhiều, người Thủ đô cũng không dư giả gì, nhưng một phần thu nhập hàng tháng vẫn được họ chiu chắt giành ra để mua sách. Hồi ấy cũng chưa có “ phố sách Đinh Lễ ” như bây giờ, mà chỉ có cửa hàng sách Tổng hợp ở phố Tràng Tiền, như bài thơ của Trúc Thông đã hướng tới, nhưng
Người
lớn né cho em vào
mua trước
Được cảm thấy mình che chở những mầm
non.
Có một dãy người xếp hàng mua sách, bên cạnh
những dãy người xếp hàng mua nhu yếu phẩm. Sách đã là
nhu yếu phẩm tinh thần của người Hà Nội trong những
năm tháng ấy. Cội nguồn của văn hóa là lòng nhân ái.
Câu thơ đã nói lên được cùng lúc cả lòng nhân ái và
ứng xử văn hóa của người Hà Nội. Người ta nói
“ Thăng Long phi chiến địa ”
cũng chỉ là một cách nói,
thực ra, Hà Nội đã bao phen xung trận, bao phen những
công-dân-người và công-dân-cây của thành phố đã xả
thân để bảo vệ từng góc đường, khu chợ, từng con
ngõ nhỏ. Và bảo vệ những em bé thơ - tương lai của
thành phố. Trong cử chỉ “ né cho em
vào mua trước ” đã
hàm nghĩa nhường nhịn, yêu thương và che chở. Hà Nội
ngày ấy thật nghèo. Cả thành phố không có lấy một
chiếc ti-vi. Ô tô con quá ít. Chỉ toàn xe đạp là xe đạp.
Và rất, rất nhiều người đi bộ. Vỉa hè thông thoáng,
phố xá sạch làu vì người dân không vứt rác ra phố.
Kham khổ, nghèo cực nhưng lành sạch.
Rồi chúng ta sẽ
còn cảm thấy hết giá trị của sự lành sạch khi những
bẩn tưởi tràn ngập khắp nơi, len lỏi vào cả những
nơi sâu kín của đời sống tinh thần hay tình cảm. Sự
ô nhiễm đáng sợ nhất là ô nhiễm tâm hồn, là rác
rưởi trong những mối quan hệ, trong ứng xử giữa người
với người. Hà Nội ngày ấy chưa biết tới cái gọi là
“ văn hóa phong bì ”, nhưng
đã có biết bao phẩm chất
văn hóa thầm lặng khác, những phẩm chất văn hóa đích
thực trong cách sống của mỗi người dân bình thường.
Nơi lịch sử đi qua còn để lại bao dấu tích, nơi con
người Hà Nội hào hoa phong nhã từng sống, yêu thương,
sáng tạo, đắm đuối với từng chiếc lá thu, từng cơn
mưa rây nhẹ trên những mặt hồ, từng mái ngói lô xô
một chiều nắng nhạt. Đau với vết đạn trên thành Cửa
Bắc khi cúi đầu tưởng niệm Nguyễn Tri Phương và Hoàng
Diệu, đau với những hố bom ở khu phố Khâm Thiên những
ngày cuối tháng 12 năm 1972, người Hà Nội lại ấm lòng
khi nghe một lưu dân từ đất phù sa phương nam xa xôi
ngâm lên câu thơ :
Từ thuở
mang gươm đi mở nước
Trời
nam thương nhớ đất Thăng Long.
Có biết bao người không sinh đẻ ở Hà Nội, thậm chí chỉ ghé qua Hà Nội một lần trước khi đi về những chiến trường khốc liệt, nhưng hình ảnh Hà Nội đã ăn sâu vào tâm khảm họ. Hơn cả một thủ đô, Hà Nội là nơi bắt đầu của những bắt đầu. Tôi còn nhớ, trong những tháng năm đánh Mỹ, trước khi quay trở lại quê hương miền Nam chiến đấu, rất nhiều cán bộ bộ đội miền Nam đã đeo ba lô đi vài vòng quanh Hồ Gươm, như muốn mang cả hồ Gươm vượt Trường Sơn. Người thủ đô và người cả nước hôm nay phải biết mình có gì ở Hà Nội để gìn giữ nó : Hà Nội là ký ức của cả một dân tộc.
Giàu có hơn chưa hẳn đã văn hóa hơn, dù không ai muốn sống mãi trong cảnh nghèo nàn. So về của cải vật chất hay đời sống người dân, thì Hà Nội hôm nay đã vạn lần hơn Hà Nội những năm chiến tranh chống Mỹ. Nhưng vì sao, những người từng sống ở Hà Nội trong bom đạn và sơ tán như chúng tôi vẫn giữ trong ký ức của mình những gì thật đẹp đẽ và cảm động của Hà Nội và người Hà Nội ngày ấy ? Tôi nghĩ, cái còn lại lâu nhất chính là tình người, là lòng nhân ái, là vẻ đẹp lấp lánh của văn hóa Hà Nội. Cái còn lại lâu nhất không phải những ấn tượng của sự giàu sang hay của cải vật chất, mà chính là những giá trị tinh thần.
Bây giờ người ta hay than phiền về văn hóa xuống cấp
của Hà Nội, và tìm nhiều lý do để biện minh hay đổ
thừa. Những lý do ấy chỉ đúng một phần, và không
phải phần căn cốt. Bắt đầu từ những sự rạn nứt
đạo đức và tâm lý từ sau chiến tranh, những biểu
hiện phi văn hóa hay thậm chí phản văn hóa ở ngay trong
lòng Hà Nội đã được nhân lên khi Hà Nội từ thời
bao cấp khốn khó bước thẳng vào kinh tế thị trường,
một mô hình kinh tế thị trường ở tầm thấp.
Phải bình tĩnh quan sát trong nhiều năm mới thấy sự xuống cấp văn hóa không chỉ có ở những năm gần đây, mà có từ khá lâu rồi. Nhưng trong những năm gần đây nó mới có điều kiện bộc lộ một cách manh động. Đừng trách người dân, bởi người dân luôn phải thích ứng với những điều kiện sống, với môi trường xã hội. Không ai thích đưa phong bì, nhưng rồi cứ phải đưa. Chẳng ai muốn chạy chọt việc này việc kia, nhưng rồi bắt buộc phải chạy. Nhiều khi giao thông trên đường, không phải ai cũng muốn chen lấn hay gây gổ, nhưng khi hầu hết đều chen lấn, thì mình biết làm sao ? Và đang không tự nhiên có người gây gổ với mình, lúc ấy thật khó để kiềm chế, nếu mình không có một nền tảng vững vàng của văn hóa và hiểu biết. Cứ thế, những phản ứng tiêu cực dây chuyền dắt díu nhau đã kéo ngày càng nhiều người vào một ma trận mà ở đó văn hóa không còn chỗ đứng, mà sự tử tế bị coi là ngớ ngẩn hay lạc hậu, mà sự khôn vặt theo kiểu “ lanh mưu ” lên ngôi.
Sự phân biệt, hố sâu ngăn cách giàu nghèo cũng là một nguyên nhân khiến nhiều người Hà Nội bây giờ không còn sự an tĩnh tự tại -- một giá trị tinh thần từ bao đời của “ kẻ sĩ Bắc Hà ” để có thể ứng xử với tầm văn hóa cao như xưa “ dĩ bất biến ứng vạn biến ”. Tôi còn nhớ, vào năm 1983, thời cao điểm khốn khó của chế độ bao cấp, khi ra Hà Nội dự Đại hội nhà văn lần thứ 3, xúc động trước tình cảm bạn bè anh em, lâng lâng với một Hà Nội tôi đã phải cách xa tới 6 năm giờ gặp lại, tôi đã viết bài thơ khá dài Hà Nội nhìn từ phía tôi. Có một đoạn thơ trong bài thơ ấy như thế này :
sáu lần mở mắt ngạc nhiên
Hà Nội trong cặp lồng cơm ít ỏi của em
Hà Nội trong bàn tay phồng dộp đen điu vì
nắm than của bạn
Hà Nội trong chuyến tàu điện thở rít lên
Hà Nội trong tách cà phê pha nghiêm túc
Hà Nội phiêu du qua trang sách dưới đèn mờ
giờ mở ti-vi
Hà Nội của những thi sĩ cuồng thơ của
những người yêu thơ
thầm lặng
Xin nhắc lại một chút : hồi ấy, điện Hà Nội rất yếu, cứ vào giờ mở ti-vi (khoảng 7 giờ tối) là các bóng đèn nê-ông không sáng lên được, còn các bóng đèn tròn thì phát ra ánh lờ mờ vàng vọt. Vậy mà người Hà Nội vẫn say mê đọc sách dưới ánh sáng đèn tù mù ấy. Và dù mỗi bữa đi làm người Hà Nội mang theo cặp lồng cơm ít ỏi của mình, nhưng các quán cà phê vẫn pha những tách cà phê “ nghiêm túc ”, uống vào là biết ngay.
Văn hóa Hà Nội là ở đó, chứ đâu xa !
Quảng Ngãi 20/11/2011
thanh thảo
Các thao tác trên Tài liệu