Vùng Biên
Tạp bút
VÙNG
BIÊN
Nguyễn Thị Hậu
1. Cửa khẩu.
Năm
năm rồi tôi mới trở lại Lạng
Sơn. Khoảng
năm 2005 tôi có dịp lên cửa khẩu
Hữu nghị quan. Hồi đó đường
biên là con đường thằng, ranh giới
hai bên phân biệt là màu nhựa
đường. Nhìn qua Hữu nghị quan thấy
có phần gần gũi vì vẻ rêu
phong cổ xưa của nó. Cột mốc cây
số 0 của hai bên đứng khiêm nhường
bên đường. Đồn công an cạnh
barie cũng giống nhau. Hai toà nhà trụ
sở Hải quan cũng tương đương
về quy mô. Có khác chăng là
phía Việt Nam hàng đoàn xe tải
chở trái cây chờ nhập khẩu sang
Trung quốc, còn phía Trung quốc là
những xe tải nhỏ chở hàng hoá
tiêu dùng qua Việt Nam. Thật ra lúc
ấy hàng hoá nhập từ Trung quốc
qua cửa khẩu cho “phải phép”
thôi vì hàng lậu đã tung hoành
khắp nơi.
Lần này đến đây tôi không nhận ra nơi mình đã đến cách đây mới 5 năm. Từ phía trụ sở Hải quan Việt Nam nhìn qua bên kia, toàn bộ khu vực cửa khẩu cao hẳn lên như một ngọn đồi, rộng như quảng trường, được lát đá sáng bóng, lát gạch sạch sẽ. Cột mốc phía Trung quốc là một tảng đá to lớn dựng giữa quảng trường, một hàng rào inox chạy suốt chiều ngang, vì vậy khách nhập cảnh không thể đi thẳng mà phải đi theo đường hành lang ven lề trái để vào trụ sở Hải quan được xây mới đồ sộ hơn trước. Còn phía nhà ta thì vẫn là toà nhà cũ, đường bê tông, bước ra khỏi trụ sở Hải quan là bụi mù. Mấy năm rồi mới xây được thêm bãi đậu xe hơi và nhà chờ ở tuốt phía ngoài. Có vài chiếc xe chở khách từ Hải quan ra bãi xe cũng là xe lam Trung quốc…
“Hữu nghị quan” đã biến thành toà nhà lầu cửa kính hiện đại, tường xây sạch sẽ, không còn vẻ rêu phong cổ kính. Cũng phải thôi, “hữu nghị quan” giờ ngự trên “ngọn đồi” đá lát sáng bóng, cây đa cổ thụ gần đó cũng được xây bệ gạch tròn xung quanh, ghế đá, bồn hoa… Mọi thứ có vẻ quy củ và hoành tráng. Chỉ buồn cười những bảng chỉ dẫn bằng tiếng Việt: nhà xí (nhà vệ sinh), “do đó nhập” (lối vào), “nơi tiêu độc đế giày” (thảm chùi chân)… không hiểu dịch kiểu gì nữa?
Từ bên này đi qua bên đó thì phải gò lưng lên dốc, nhìn qua bên đó thì cứ phải “ngước nhìn”. Từ bên kia nhìn về phía mình đúng là kiểu “nhìn xuống” đầy “hạ cố”… Có ai nhận ra điều đó không?!
2. Bằng Tường
là một thị trấn của tỉnh Quảng Tây (Trung quốc) sát biên giới phía Bắc của Việt Nam. Lần trước tôi đến Bằng Tường chỉ là thị trấn nhỏ có phần hiu quạnh, mấy con phố cũ lác đác xe máy xe đạp, vài chiếc xe lôi do phụ nữ lái tập trung ở ga xe lửa. Ngày có vài chuyến xe lửa từ Bằng Tường đi Nam Ninh làm cho thị trấn nhộn nhịp chốc lát… Lang thang ngoài cửa ga trong lúc chờ tàu đến tôi còn kịp ngắm nghía sạp đồ cổ của một ông già bày ở lề đường, tiền xưa bạc cũ gốm cổ đủ cả, đẹp nhất là mấy chiếc tô đĩa gốm vẽ gà trống men màu xanh đỏ của các lò gốm Quảng Đông, trông quen thuộc vì giống gốm Biên Hoà. Cửa hàng bên kia đường bảng hiệu cũng có tiếng Việt “cửa hàng bách hoá” bán đủ loại quần áo giày dép nước giải khát kẹo bánh. Màu sắc sặc sỡ, giá không đắt, hàng bình dân mà.
Bây giờ Bằng Tường đã trở thành một thành phố mới nơi cửa khẩu: đường phố rộng rãi chiếu sáng bởi hai dãy đèn đường uốn hình hoa râm bụt – biểu tượng của tỉnh Quảng Tây. Nhà đang xây ngổn ngang khắp nơi nhưng phố xá vẫn gọn gàng. Những phố xưa vẫn là những căn nhà phố hình ống một trệt một lầu cửa sổ trang trí hồi văn treo đèn lồng đỏ, như những con phố từ truyện của Lỗ Tấn bước ra. Chỉ khác là nhiều cửa hàng cửa hiệu dùng 2 thứ tiếng Trung - Việt, công ty du lịch, nhà hàng đặc sản san sát, khách du lịch đông đúc, cả Việt cả Trung, đều nói nhiều nói to, như nhau.
Trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố là một toà nhà 4 lầu mới xây dựng. Bên kia đường một khách sạn 5 sao đang xây tựa lưng vào núi và nhìn lên một ngôi chùa cổ cheo leo vách núi. Bằng Tường đang xây nhiều chung cư cao tầng, có lẽ dân cư ở đây đang tăng lên nhanh chóng.
Thành
phố cửa khẩu nối liền với Nam
Ninh bằng con đường cao tốc nội địa
mỗi bên 3 làn xe hơi và một làn
đường phụ. Dải phân cách
trồng hoa râm bụt suốt tuyến dài
gần 180 km. Khoảng 50 km có một trạm
dừng rộng mênh mông đủ chỗ
cho hàng chục xe lớn, nhà hàng luôn
có thức ăn nóng sốt, siêu thị
nhỏ nhưng đầy đủ hàng hoá
cần cho người đi đường xa. Nhà
vệ sinh sạch sẽ. Xe chạy tốc độ
khoảng 100km/h, không hề thấy bóng
công an vì suốt con đường được
theo dõi bằng camera. Đường tốt
làm khoảng cách như gần hơn.
Không có cảm giác đây là
vùng biên, càng không có cảm
giác xa xôi heo hút dù con đường
chạy giữa những ngọn núi đá
nhấp nhô
Trên đường đôi lúc có cảm giác như đi giữa hai hàm răng sói khổng lồ…
3. Nam Ninh
không phải là một thành phố trẻ. Khởi đầu vùng đất này thuộc tộc Bách Việt, về hành chính thì Nam Ninh đã có ít nhất hơn 2000 năm lịch sử từ khi vùng Quảng Tây thuộc về nhà Tần vào khoảng đầu thế kỷ 3 trước công nguyên. Trải qua những thời kỳ lịch sử khác nhau, Nam Ninh luôn có vị thế quan trọng tại miền biên giới phía Nam, là trung tâm cư trú của người Choang – dân tộc có đông dân chỉ sau người Hán trong cộng đồng 53 dân tộc của Trung Hoa. Đầu năm 1950 thành phố Nam Ninh được thành lập đồng thời được xác định là thủ phủ tỉnh Quảng Tây. Từ tháng 3 năm 1958 trở thành thủ phủ của khu tự trị người Choang Quảng Tây. Khoảng 10 năm trước Nam Ninh còn mang dáng dấp tỉnh lẻ, chỉ khu trung tâm là có dáng vẻ của một thành phố hiện đại với nhà cao tầng, khu thương mại, đường rộng rãi sáu làn xe hơi, nhưng xe đạp vẫn thong thả quay vòng trên những làn đường này… Từ khách sạn trung tâm nhìn ra nhà ga Nam Ninh, mỗi ngày có hàng chục chuyến tàu đến, trăm ngàn lượt khách chủ yếu vẫn là nông dân từ các tỉnh miền núi phía nam đổ về tìm việc làm ở các công trường xây dựng ở phía Đông thành phố. Hôm nay đến Nam Ninh, nếu chỉ quan sát bằng con mắt thường ta khó có thể tìm ra mối liên hệ giữa “khu tự trị người Choang” với thành phố đang lớn lên từng ngày, “phố Đông” ở Nam Ninh đã hiện hữu, đẹp đến ngỡ ngàng!
Điều
nhận thấy đầu tiên Nam Ninh là
một “thành phố xanh”, xanh từ
những hàng cây giữa dải ngăn cách
của đường cao tốc, xanh từ những
bóng mát từ những hàng cây ven
đường, xanh từ những thảm cỏ
xanh, luống hoa nho nhỏ trên vỉa hè,
xanh dưới cầu vượt, xanh trước
những chung cư, và xanh từ những công
viên rộng mênh mông giữa lòng
thành phố. Có đến 36% diện tích
thành phố được phủ xanh, một
con số đáng kể nếu ta biết rằng
Nam Ninh đã lớn gấp đôi so với
trước đây, khoảng 23.000 km2. Dân
số hiện nay của Nam Ninh gần 7 triệu
người, chưa kể số lượng gần
3 triệu người nhập cư “thời
vụ”. Thành phố đang hướng
đến mốc 10 triệu dân, bởi vậy
dọc những con đường tôi qua chỉ
thấy những chung cư cao vài chục tầng
(trông xa xa không hiểu sao những toà
nhà ở đây lại “dẹp lép”
như vậy, hoá ra vì chúng dài
mà cao quá). Những ngôi nhà riêng
ngoài mặt phố dần biến mất, chỉ
ở khu phố trung tâm còn vài căn
nhà mang dáng vẻ cổ xưa nay là
cửa hàng bán đồ lưu niệm
luôn tấp nập khách du lịch. Bù
lại, nhiều nhà hàng, khách sạn
kiến trúc rất hiện đại nhưng
có lối trang trí đậm nét văn
hoá truyền thống với mái ngói
xanh, đèn lồng đỏ và vô số
kiểu dáng và chi tiết hoa văn trong
nội thất. Chung cư cao tầng là chính
sách nhất quán trong sự quy hoạch của
nhiều thành phố Trung quốc để tạo
ra sự “an cư” cho cư dân đồng
thời để có thế xây dựng
cảnh quan đô thị quy củ, hiện đại.
Cũng
như nhiều thành phố khác ở Trung
quốc, đường phố ở Nam Ninh rất
rộng với 6 làn xe chính, vỉa hè
rộng rãi đủ chỗ cho người đi
bộ đổ ra từ những bến xe bus hay
từ những toà nhà cao tầng. Giao thông
công cộng phát triển nhất là xe
bus, nhiều tuyến nhiều loại xe bus tùy
thuộc vào khoảng cách và mức
độ dân cư đi lại. Xe máy
điện, xe đạp vẫn còn phổ
biến nhưng xe hơi cũng đã bắt
đầu có hiện tượng kẹt đường
vào giờ tan tầm. Giao thông công cộng
phát triển ở Nam Ninh thể hiện 2 mặt:
sự hoạch định chính sách lâu
dài, quy hoạch đô thị từng bước
chặt chẽ, những biện pháp chế
tài nghiêm ngặt của chính quyền
thành phố, đồng thời cũng là
quá trình của tự giác và ý
thức cư dân đô thị. Ví dụ:
trên xe bus chỉ có tài xế (sư
phụ), hai cửa lên xuống phân biệt
rõ ràng. Cửa lên phía trước,
hành khách tự giác bỏ tiền lẻ
vào khe hộp tiền hay trình vé tháng.
Cửa xuống phía sau, tự giác nhường
cho người già, trẻ em. Được
như vậy cần có sự thực hiện
đồng bộ: nhiều tuyến xe, nhiều
chuyến xe, bến xe thuận tiện, giá vé
rẻ, tiền lẻ phổ biến, khuyến
khích mua vé tháng, nhưng “kiểm
tra giao thông” cũng thường xuất
hiện bất ngờ trong vai người đi xe
bus, phát hiện ngay người lậu vé
hay sai phạm của tài xế như bỏ
bến phóng nhanh vượt ẩu. Mỗi lỗi
như vậy bị phạt khá nặng nên
tính răn đe cao. Chỉ mới hơn 5 năm
mà “văn hoá xe bus” đã phổ
biến ở Nam Ninh. Đây là bước
chuẩn bị cho cư dân làm quen với
metro: tính tự giác, thói quen khẩn
trương đúng giờ, đúng bến.
Hiện nay Nam Ninh bắt đầu xây dựng
tuyến metro xuyên đông tây thành
phố.
Trong
lịch sử, vùng Hoa Nam từ phía nam
sông Trường Giang nằm trong khu vực văn
hoá Đông Nam Á cổ với kỹ
nghệ đúc đồng và nông
nghiệp trồng trọt hình thành và
phát triển từ rất sớm. Nhưng từ
thời nhà Hán vùng này xa dần
văn hoá truyền thống Đông Nam Á
mà hoà nhập vào khối văn hoá
Hoa hạ của miền Trung nguyên. Vùng
Quảng Tây có thể được coi là
một trong những “cửa ngõ” quan
trọng để văn hoá Hoa Hạ đi về
phía Nam. Bởi vậy thật dễ hiểu
khi Quảng Tây xây dựng Trung tâm hội
nghị và triển lãm ASEAN. Toà nhà
rất đẹp nằm trên một ngọn
đồi cao ở phía đông Đại
lộ Dân tộc. Đây là nơi
thường xuyên tổ chức hội chợ
triển lãm quốc tế được tạo
hình một bông hoa dâm bụt, loại
hoa tiêu biểu cho Nam Ninh, 12 cánh hoa màu
trắng lộng lẫy toả sáng dưới
ánh nắng, tượng trưng cho 12 dân
tộc thiểu số của tỉnh Quảng Tây.
Một sự trùng hợp tình cờ chăng
vì hiện nay Đông Nam Á có 12
quốc gia, trong đó 10 quốc gia đã
gia nhập khối ASEAN. Chỉ tiếc một điều,
tại sao chúng ta không xây dựng được
một trung tâm như thế ở Lạng Sơn,
Quảng Ninh hay Lào Cai, Cao Bằng, khi mà
địa đầu phía Bắc của ASEAN
là các tỉnh biên giới của Việt
Nam? “Cái bóng” của nền văn
minh Hoa hạ đến giờ vẫn còn quá
lớn chăng, hay là ý thức tự chủ
về kinh tế - văn hoá của chúng
ta đã bị “cớm nắng”?!
Một lần tôi đến thăm xưởng chế tác đá ngọc ở khá xa trung tâm thành phố – nơi có nhiều sản phẩm độc đáo lấy mẫu từ những di vật tìm thấy trong các di tích khảo cổ học ở Quảng Tây. Bên kia xưởng đá ngọc là khoảng trống rộng mênh mông. Bức tường bao quanh cao vút phía trên có vòng dây thép gai, đưa mắt ra xa hơn thấp thoáng mấy tháp canh. Những dãy nhà cao 5,6 tầng còn mới, tường sơn màu xanh, khung cửa màu trắng trông sạch sẽ, bình yên, nhưng nhìn kỹ mới thấy song sắt đan vào nhau khá dày. Đó là nhà tù của thành phố Nam Ninh. Giữa trưa nắng chói chang, một tiếng kèn ôboa vọng ra, bản valse nổi tiếng “dòng Đanuyp xanh” của Johann Strauss. Tiếng kèn ngập ngừng những nốt đầu tiên nhưng cứ đến nốt cao nhất thì nghẹn lại…
Người tập kèn kiên nhẫn thổi lại đoạn nhạc… thời gian với anh ta chắc còn dài lắm…
Nguyễn Thị Hậu
Các thao tác trên Tài liệu