Dân ca sông Bé; Dân ca miền Nam
Đọc sách
Dân
ca sông Bé; Dân ca miền Nam
Nguyên Thắng
Cầm quyển sách (1) dày, in đẹp lên tay mà lòng thấp thỏm. Chuỗi địa danh Bún, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, Chơn Thành, Bến Cát, Tân Uyên ... càng dài, kỷ niệm càng dồn dập tràn về bao nhiêu thì thêm bấy nhiêu thấp thỏm. Sông Bé nước mát, cảnh đẹp, mía ngọt, trái cây thơm... xin đồng ý ký cả hai tay. Nhưng còn dân ca, ra khỏi Bến Cát, khỏi Tân Uyên, cách Sài gòn vài chục cây số đấy thôi là rừng là trảng, đất rộng người thưa, người Xtiêng, người Mạ, người M'nông..., gì là của riêng Sông Bé ?
Xin ai chớ vội hồ đồ như kẻ viết những hàng này, rồi bé cái lầm, xếp sách lại mình tự trách mình thiếu lòng tin vào tài hoa người Bình Dương đất cũ. Tội càng đáng trách vì rằng khi xưa cũng đã được biết qua tài nói lớn lối khoe bắp Bình Ninh hai người rinh một người cạp ! đã đôi lần thấm lời mời mọc tế nhị mà quyến rũ như tiếng ru vọng từ khu vườn xanh mát giữa vùng đất gò cát trắng khô cằn :
Trời
Gò Dầu cây cao bóng mát
Đường
Bến Cát hột cát nhỏ dễ đi
Trang rồi lại trang, hết ngạc nhiên đến thích thú, nối tiếp nhau. Dù có gác một bên, không bàn tới khía cạnh âm nhạc, nội ca dao, văn học bình dân đã óng ánh riêng màu sắc địa phương.
Hãy khoan, để dành lại sau việc so sánh với vùng khác phong cách anh con trai đất gò mà quen sông nước, những sông Bé, sông Sài Gòn, sông Mã Đà, sông Đồng Nai, thấy người, lòng dằn không nổi vọt miệng hạ vần " ú " :
Nước
Tân Ba chảy qua Vàm Cú
Thấy bộ
em chèo cặp vú muốn hun...
và cô con gái chẳng chịu nhịn thua đốp chát ngay câu hò
Anh
muốn hun vậy mà cũng khó
Anh trở
về nhà ... bắt chó anh hun
Hãy bắt đầu lần mở trí nhớ tập thể ôn lại chi tiết đời sống hàng ngày cái thời chưa xa xưa chi lắm mà nay ta đã quên
Tay
em bưng rổ kiếng bước lên xe kiếng
chín từng
Đường về thăm
phụ mẫu trước rừng, sau truông
Xe, trong câu hát huê tình Bến Cát này không phải là xe thổ mộ mà là loại xe ngựa thời trước có bốn bánh, cửa gắn kính, dành cho khách phong lưu có tiền tục gọi là " xe kiếng ", thường người Mã Lai cầm cương nên Pháp gọi là " voiture Malabar ". Và lóng nghe vè, những bài báo truyền miệng, ghi cảnh chợ Thủ hồi bốn mươi năm về trước :
Xuống
tới đầu chợ
(Có cái) cột
cao thấy sợ
Lại có gắn máy
đồng hồ
Cửa day trở vô
Có
bán đồ đủ món
Bán dù,
bán nón
Bán áo, bán khăn
Mua bán lăng xăng
Mấy chàng khách
trú
Ở trần để vú
(Vè Chợ Thủ)
tả công việc hàng ngày phu đập đá Đĩ An :
Sớm
mơi vác búa chạy ra hầm
Liệng
một cái ầm
Tay cầm cây sắt
Anh
em ơi !
Chạy cho xa lơ xa lắc
Dòm
ngoái lại mà thấy ngòi xì
Đâm
đầu mà chạy bất kỳ góc
gai
Con gái chí những con trai
Rủ
nhau đập đã sớm mai tới chiều
(Vè đập đá)
tả một thủ công nghiệp cổ truyền Ở chợ Thủ :
Con
gái chí những trai tơ
Đồng
lòng móc đất lập lò xứ
ta
Đờn ông chí những đờn
bà
Người thời đập đất,
người thời giã vôi
Trộn vào
với giọt mồ hôi
Đồng tiền
vô cửa mấy người siêng năng
Mấy
chi đạp đất lăng xăng
Mấy
chị vẽ chén thì ăn miếng
trầu
Nghề làm lò chén nhức
đầu
(Vè làm chén)
hay đọc lại thơ rơi gói ghém tâm sự người xa nhà thả trôi vào trí nhớ tập thể mong về đến cha mẹ vợ con, như thơ phu đồn điền cao su :
Ngày
thứ ba cam nhông chạy đến
Gọi
phu ra nó điểm từng người
Đổ
lên tất cả xe hơi
Kẻ đi Quản
Lợi, người thời Xa Cam
Cũng có
kẻ Mi Sơ Lanh Dầu Tiếng
(... )
Vào
trong sở việc làm bó buộc
Lại
tức mình chẳng được tự
do
Gạo thì ăn chẳng được
no
Mồng ba, mồng bảy hai kỳ lãnh
lương...
Dân ca các dân tộc ít người cũng không lép, lần đầu trong đời, người viết những hàng này được biết dân ca Xtiêng, đồng bào thiểu số xưa kia cư trú trên một địa bàn khá rộng lan tới Bến Nghé, Mỹ Tho, nay thu về vài xóm nhỏ ở Bình Long, Đồng Phú, Lộc Ninh. Bài báo hạn hẹp, không thể trích nhiều, xin hiến bạn đọc Cuộc tình chia tay.
Nghe
cu gáy ngoài đồng
Tôi đếm,
nàng cùng đếm
Tôi buồn, nàng
đau đớn
Nhòng bay lên từng
đàn
(Nhòng con bay theo mẹ)
Chim bay
thành sức gió
Ánh trăng rằm
xẻ đôi...
Thật thi vị hình ảnh trăng rằm xẻ đôi, lại được nhà thơ Lê Giang khéo chuyển lời chọn âm điệu hạp tình hạp ý. Lư Nhất Vũ, Lê Giang và các cộng tác viên, mặc dù là thời buổi mạnh cua cua máy mạnh cây cây đào, keo sơn gắn bó với nhau suốt mười năm sưu tầm và nghiên cứu, tập họp được một khối lượng tư liệu quí báu dân ca miền Nam (2).
Nói chung ngôn ngữ không mượt mà óng ả tế nhị như dân ca đồng bằng sông Hồng đã mấy ngàn năm trau chuốt. Nó mộc mạc, hồn nhiên, thừa hưởng cung cách, môtíp văn học dân gian miền Trung, nhưng phong cách con người hiển hiện trong câu hò tiếng hát.
Cũng đồng thời làm ruộng đất gò, người Bình Trị Thiên mượn vần để nhớ lời anh dặn dò :
Ra
đi anh có dặn đò
Ruộng su
(sâu) cấy ló (lúa), đất gò
trồng khoai
còn anh chàng trai Sông Bé a thần phù thúc dục :
Ruộng
gò anh cấy lúa Nàng co
Em thương
anh thì thương đại đừng đê
anh gò mất công
Lối tỏ tình cũng độc đáo :
Tay
cầm bó mạ rẽ hai
Miệng hò
tay cấy cẳng xà lai quèo nàng
Vậy mà ít ra còn đúng được thanh luật bằng trắc, chớ xuống tới Kiên Giang cũng thời vần " ú " mà ba hồn bảy vía bay đâu mất, mắt anh chàng thấy sao miệng buột ra làm vậy, cuối câu chuỗi thanh trắc nối đuôi nhau đột ngột người nghe giựt mình :
Chèo
ghe ra ngã ba Vàm Cú
Thấy dạng em
chèo... cặp vú núc ních
Khi yêu thì đùng đùng lửa cháy, con trai vỗ ngực :
Dao
phay kề cổ máu đổ anh không
màng
Chết anh chịu chết chớ buông
nàng anh không buông
lời người con gái cũng xứng với yêng hùng :
Phụ
mẫu đánh anh quặt quà quặt
quạt
Đem anh treo tai nhánh bần
Rủi
đứt dây mà rớt xuống
Em cũng
lần theo anh
Cũng tình ý ấy, quyết tâm ấy, âm điệu lời lẽ người con gái miền Thuận Hóa dìu nhẹ âm thầm :
Rượu
lưu ly chân quỳ tay rót
Cha mẹ đi
rồi nhón gót theo anh
Thầy mẹ đánh
em trăm roi vô một chỗ, máu đổ
tràn lan
Em đây lẳng lặng lấy
muối bóp tan
Theo nhau cho trọn đạo
kẻo thế gian chê cười
Tính người miền Nam ưa châm chọc, hài hước chế nhạo, Thủ Dầu Một có vè chửa hoang, Kiên Giang có hò sợ vợ, vè cô vợ ăn hàng, vè gái hư :
Nấu
cơm bữa thiếu bữa dư
Bữa sống
bữa khét bữa
như
cháo
bồi
(
…)
Áo quần phơi nắng phơi
mưa
Đụng đâu liệng đó
thúng hia bung vành
N ồi o chẳng biết
lủng lành
Bắc lên nó chảy
lạnh tanh bếp lò
Chổng mông thổi
lửa pho pho
Đổ thừa ông Táo
ổng ho om sòm...
Đùa người, cũng là cợt mình. Cái cười mình đã hàm trong ý nói chuyện cao sang không vói tới, nào đồng, nào bạc, nào vàng như bài lý ngựa ô,
Ngựa
ô tôi sắm kiệu đồng, dây
cương bằng bạc,
Lục lạc bằng
vàng, tôi đưa nàng về dinh
có thật là ở đâu đâu chớ còn ở miền Nam người hát người nghe lòng hiểu cho lòng biết chỉ là ước mơ nói chơi cho vui. Ngoa ngoắt để nhạo chính mình nói thánh nói tướng khi thì cho lên tới mây xanh, khi khác lại dìm xuống tận đất đen, người Giồng Riềng lý ngựa ô rằng
Ngựa
ô anh thắng bộ tơ, dây cương
bằng lác,
Lục lạc bằng đất,
hình dạng một tấc,
Chân đi lấc
khấc, đưa nàng về TàKeo
Trong dân gian còn thịnh hành lối chơi chữ dí dỏm và chất phác, vè các loại cầu sưu tầm ở Tân Uyên, vè bốn mươi bảy chợ ở Thủ Dầu Một, vè các loại cá, vè các loài tôm, vè chim chóc, vè các loài kiến ở Hậu Giang, vè các loài rắn ở Kiên Giang... Nguồn cảm hứng này vẫn sinh động, thời sự đem từ lạ, ý một tới liền chụp ngay lấy ghép vào vè, có những tiếp thu mới tinh :
Quanh
quẩn xó nhà
Cá Heo,
cá Cóc
Công
thần hưởng lộc
Là con cá
Nhân
Hổng vô tập đoàn
Còn
là cá Thể...
(vè các loại cá)
hoặc
Lại
còn một mối
Xuất cảng nước
ngoài
Thu về lai rai
Bộn bàng ngoại
tệ
Đồ la đố la
Đố la,
đô la...
(vè các loài rắn)
Con người mộc mạc mà chẳng thiếu tâm hồn nghệ sĩ, dân ca miền Nam tìm ra câu ra chữ diễn tả ý nhị tình yêu chớm nở, rụt rè :
Thò
tay anh bứt ngọn ngò
Thương em đứt
ruột giả đò ngó lơ
nỗi buồn xa nhau da diết ;
Trời
chuyển mưa ba bốn đám sụt sùi
Nhái
bầu kêu, trống chùa đánh
Dạ
em ngùi ngùi nhớ anh...
hay để ỡm ờ :
Cườm
tay em trắng lại tròn
Chớ em cho ai gối
nó mòn một bên
Ta không lạ là trước đây thịnh hành các loại hò, hò môi, hò huê tình, hò chèo ghe, hò cấy, hò đối đáp, hấp dẫn và lôi cuốn nhất là những cuộc hò thi mà tiếc thay nay không còn nữa. Có « hò nhân đạo » với người biết điều biết phải, nhưng cũng có " hò ngạnh trê ", " hò cá ngác " không nương tay đâm chọc kẻ khiêu khích gây hấn phải đau điếng, run en phát rét.
Khi đằng trai đã quá quắt hò lên câu:
Thằng
nhỏ đương chơi chết đứng
sững sờ
Tử đu táng địa mà
chôn nhờ miếu xá của em
Thì đằng gái cũng chẳng nương tay đáp lễ :
Bạch
hổ sơn lâm đất em có lỗ anh
khỏi có đào
Chôn cha anh xuống
mà đặng hào tử tôn
Dân ca, văn học dân gian gói ghém phong cách riêng của dân tộc diễn tả tình cảm của mình, ghi vào trí nhớ tập thể các sự kiện nhìn qua con mắt người dân đen. Một kho tư liệu chờ các nhà chuyên môn về nghệ thuật, văn học, xã hội học ... giúp cho ta biết rõ hơn về ta. Nhung với thường nhân thì những lượm hoa đồng cỏ nội thu hái về cũng chẳng hẹp hòi che dấu vẻ đẹp, không
Như
đóa hoa thơm mà mọc giữa
rừng
Thơm cay ai biết, ngát lừng ai
hay ?
Nguyên Thắng
(1) Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn Hoa, Lê Giang, Từ Nguyên Thạch, Dân Ca Sông Bé, Nhà xuất bản tổng hợp Sông Bé, 1991, 612 trang.
(2) Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Dân ca Bến Tre, Sở Văn hóa thông tin Bến Tre 1981.
Lư Nhất Vũ, Lê Giang, Tìm hiểu dân ca Nam Bộ, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 1983.
Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn Hoa, Lê Giang, Thạch An, Minh Luân, Dân ca Cửu Long, Sở Văn hóa thông tin Cửu Long 1985.
Lư Nhất Vũ Nguyễn Văn Hoa, Lê Giang, Thạch An, Minh Luân, Dân ca Kiên Giang, SỞ Văn hóa thông tin Kiên Gìang, 1985.
Lư Nhất Vũ, Nguyễn Văn Hoa, Lê Giang, Thạch An , Minh Luân, Dân ca Hậu Giang, Sở Văn hóa thông tin Hậu Giang, 1986.
Lê Giang, Lê Anh Trung, Những bài hát ru, Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1991.
Các thao tác trên Tài liệu