Viếng bạn Nguyễn Văn Cổn
Viếng bạn Nguyễn Văn Cổn
Hoàng Xuân Hãn
Năm 1990 là năm kỉniệm bảy mươi
năm sánglập trường " Quốchọc
" Vinh, mà sau lầnlượt mang những
tên Nguyễn Công Trứ, Huỳnh Thúc Kháng.
Tổchức trường ngày nay và ban
liênlạc cựuhọcsinh đã ấnxuất
một đặcsan kỉniệm. Trong năm ngoái,
Nguyễn Xiên, khoá 1921-1925, bantrưởng
liênlạc, và nhiều bàcon, bạnhữu
đã gửi biếu tôi số đặcsan
ấy. Tôi liền nghĩ đến Nguyễn
Văn Cổn, một bạn đồngkhoá
nay còn sống sót, qua lại cùng nhau
tại Paris trong bốn mươi năm nay ; xưa
hay gặpgỡ ở nhà xuấtbản Minh Tân
với bạn Nguyễn Ngọc Bích để
bàntán việc nướcnhà tranhgiành
độclập, và nhất là sửasoạn
in tập đầu Thi Văn Víệt Nam
mà Cổn mới
soạn xong năm 1952. Trước ngày tết
Nhâm Thân, tôi bèn gửi biếu Cổn
một tập đặcsan kỉniệm kèm
thư chúc tết. Tôi đang mảimong thư
Cổn nhắc lại các chuyện trường
Vinh, thì được tin bạn đã
qua đời ngày 24.1.1992,
nghĩa là trước Tết mươi ngày.
Tuy linhtính tôi đã động,
vì không khi nào bạn Cổn đã
chậm đáp thư tôi, nhưng trước
tin dữ, tôi rất đỗi bùingùi
cảmxúc, cho nên thuận bút, tôi
đã thảo vài
lời Điếu bạn.
Điếu bạn
Bạn
Cổn ra đi quá vội vàng !
Thânbằng
chưa kịp tỏ lòng thương
Tuổi
già chân yếu khôn qua lại
Thư
viết tay rung gửi trễ tràng.
Nhớ
lại bảy mươi năm về trước
Trường
Vinh ta kết bạn vănchương
Đóng
tuồng để cứu dân bị lụt
Vọngcổ
nghe ca rậy cả trường
Bốn
chục năm sau gặp lại Bạn
Đất
nước, xót người chịu tangthương
«Mùa
đông chiếnsĩ» lời thơ bạn
Thấmthiết
lâmli đến đoạntrường
Tham
dựng nước nhà thành mộngảo
Mà
lòng ưu ái vốn đa mang
Ra
đi imlặng vào vôtận
Hồn
nước, hồn thơ, Bạn vẫn vương
Hoàng Xuân-Hãn
(Tết Nhâmthân 1992)
Độc giả có thể trách tôi chỉ đăng những bài cảmcựu : hết « tưởng nhớ Phan Anh » rồi « Văn tế Bác Hoán », nay thêm « Viếng bạn Nguyễn Văn Cổn ». Tuổi già, tôi hơn người trẻ, có nhiều bạn caoniên, vậy chịu nhiều tangtóc về bạn lứa. Viết văn viếng bạn, là bởi cảmtình, nhưng cũng là cách để ghi lại dấu xưa người cũ mà chẳng bao lâu nữa, thời gian sẽ che lấp xoá nhoà.
Nguyễn Văn Cổn quê thịxã Thanh Hoá. Giấy căncước khi nhậphọc khai sinh ngày mồng một tháng giêng năm 1909. Năm lên chín tuổi, Cổn vào trường « Sơhọc Pháp-việt » tỉnh Thanh Hoá. Bấygiờ, đó là trường tốicao quốclập duynhất trong một tỉnh để nhận chừng bốn mươi họctrò. Chuơngtrình để học tiếng Tây. Tuy các giáoviên là Việt, nhưng giáongữ là tiếng Pháp. Cổn thôngminh, nhanhnhẹn, cuối khoá đậu bằng tiểuhọc, đồngkhoa với bácsĩ Phạm Ngọc Thạch là con Phạm Ngọc Thọ đốchọc trường Thanh bấy giờ.
Trên cấp tiểuhọc, chínhquyền Đông Dương có đặt cấp caođẳng tiểuhọc dài bốn năm. Tất cả nước ta, bấygiờ chỉ có sáu trường như vậy. Trungkì có hai, ở Huế và ở Vinh.
Trường Huế là hậu thân của một trường tiểuhọc lập ra năm 1896 để dạy chữ quốcngữ và chữ tây cho sĩ tử caocấp, được coi là tươngđương với trường Quốctửgiám dạy cho các sĩtử đi thi Hội. Vì lẽ ấy triều đình bảohộ đã đặt cho cái tên khoekhoang là quốchọc. Rồi tên ấy được giữ về sau. Trường caođẳng tiêủhọc Vinh lập năm 1920, cửng được gọi bằng tên ấy. Cổn và tôi đều thi đậu vào khoá thứ ba trường quốchọc Vinh, năm 1922, và cùng ở nộitrú. Phần lớn họctrò trường Vinh thuộc giađình có ít nhiều khoabảng cũ. Tuy chưa thuộc Hánvăn lắm, nhưng đã biết thơ phú nôm nhiều. Đã thoát lốt nhiđồng, đến đợt thanhniên, đời sống chung đã có nhiều líthú. Có khi chúng tôi họp bạn ngâm thơ. Có khi vì thầy dạy quổcvăn bảo dịch Ngụngôn La Fontaine, Cổn và tôi đã mầnmo dịch ra văn lụcbát. Một hôm, Cổn làm một điều gì bị bạnhữu chê. Tôi trao cho Cổn một mảnh giấy mang ý tôi khuyên. Trong lớp học nộitrú cuối ngày, Cổn cũng chuyền lại cho tôi mảnh giấy mang hai dòng, rằng « Trong lòng tôi giữ một nơi, Để dành quí báu những lời anh khuyên ». Khiếu làm thơ dễdàng của Cổn đã thấy từ khi ấy.
Trong giaiđoạn này, một việc to đã xảy ra ở trường Vinh đối với chúng tôi : tự họctrò dám đóng một vở kịch, Chén thuốc độc của Vũ Đình-long, để thu tiền giúp đồngbào Nghệ Tĩnh bị nạn lụt. Không những khángiả thành Vinh hoanhô, mà gánh hát họctrò này cũng được tándương ở những thịxã lớn hơn, như Thanhhoá và Namđịnh. Trong tuồng, Cổn được chọn đóng một vai đào trẻ.
Bởi lẽ gia đình, Cổn phải từgiã trường Vinh để học ở Nam Định. Từ ấy, chúng tôi mỗi người đuổi theo một con đường học khác nhau, và hình như cùng nhau vĩnh biệt. Tôi xoay ra đường trunghọc Pháp để có thể sang Pháp học các trường khoahọc ngànhnghề. Cuối cùng về nước lại phải đảm nghề dạy học. Gặp lại anh em bạn cũ trường Vinh, quê Thanhhoá, tôi mới hay rằng bạn Cổn cũng thi nghề giáodục và đã vào Nam.
Thế rồi, thếgiới chiếntranh bùngnổ, quyềnhành trong nước cũng đổithay. Chỉ trong vài ba năm từ 1945, mà trên đất nước ta thay đổi ba bốn chínhquyền, từ chếđộ thựcdân đến bánbinhquyền, bánđộclập, rồi lại quay về tânthựcdân, tânbảohộ. Tôi quyếtchí bảotồn và khuếchtrương vănhoá nướcnhà đợi ngày độclập.
Tháng 3 năm 1951, để tránh một sự bứcbách khẩncấp, tôi lánh sang Paris. Tôi liền hợptác với bạn Nguyễn Ngọc Bích, chủnhiệm nhà xuấtbản Minh Tân, số 7 phổ Guénégaud, để một mặt gâydựng một tủ sách nhỏ cho Việtnam độclập, và một mặt, riêng tôi, đềxướng và thihành sự khảocứu chữ nôm, mong tìm ditích vănhoá ta xưa. Với Bích, tôi được biết rằng Cổn từ Sài gòn đã sang Paris mấy năm trước, và cùng bạn Trần Văn-khê học bổ túc ở nhiều lớp tại Sorbonne. Từ đó chúng tôi gặp nhau trở lại Tôi không lấy làm lạ rằng bạn Cổn đã trở thành một nhà báochí, nhà vănsĩ, thisĩ có tiếng trong Nam. Tôi được nghe bạn đọc. hay bạn Khê ngâm những bài Cổn sáng tác trong suốt thờikì chống ngoạixâm. Lời thơ Cổn vẫn nhẹnhàng mà hùnghồn, uyểnchuyển, hình như vì âmđiệu nảy ra lời. Thivăn Nguyễn Văn Cổn còn tảnmát trong nhiều báochí Sàigòn, và mong bạn còn để lại cho giađình những cảobản gần đây. Tậpthơ của Cổn nay còn thấy là Hồn sông núi do một nhà xuấtbản đoảnmệnh B.V.T. đem in tại Pháp, tháng 8.1954. Nhờ tựa của tácgiả, ta biết rằng Cổn đã có tập thơ Nước tôi xuấtbản tại Sàigòn năm 1944. Tập Hồn sông núi gồm 24 bài thơ chọnlọc viết trước 1953. Tưtưởng chọn lọc là như bạn đã viết trong lời tựa :
« Riêng ý tôi, trong lúc trúngụ tại xứ người, thơ còn làm phấnkhởi lòng tôi theo dòng cảmhứng nhớ tin, nhớ những xóm làng, những luỹ tre xanh, những cầu cây nhỏ, những ruộng vàng, đồi đỏ, nhớ những giọng nói tiếng cười, những câu hò, lời hát, nhớ những chuyện vuibuồn qua các thờiđại, nhớ tất cả những gì đã gây nên dân và nước Việt ; tin ở tươnglai xánlạn của dântộc ta mà lịchsử không phải là một lịchsử hènyếu. . .» .
Muốn các bạn của Nguyễn Văn Cổn trựctiếp thấy tâmtrạng và văntừ của Cổn, tôi sẽ trích một số câu, từ một vài bài chép trong tập Hồn sông núi mách trên, xếp theo thứtụ thờigian :
ThơNguyễn Văn Cổn
Tỉnh Châu-đốc
(trích)
Mấy
bữa nay tôi người Châu-đốc,
Xa
cuộc đời lăn lóc bụi dơ.
Sống
trong yên lặng như tờ,
Hồn
tôi còn thấy chút thơ của đời.
Bạn
là cả muôn người họp mặt,
Bạn
là cùng vạn vật sống chung,
Vui
thăm rừng núi kiên trung,
Mây
hồng nhẹ kéo qua đòng lúa
xanh...
(Châu-đốc,1938)
Nàng Vọng phu
(trích)
...Chớp
nhấp nhoáng bốn phương nổi hiệu
Sấm
vang lừng nhịp điệu nghiêm trang
Sét
xen tiếng sắt hào quang
Núi
cao uốn khúc dội vang giứt hồi ;
Đó
nhạc điệu muôn đời bất tử
Của
nghìn trùng vũ trụ hiên ngang,
Linh
thiêng trong cảnh chiều vàng
Thân
nàng hoá đá, hồn nàng cao
bay...
Đứa bé mồ côi
(trích)
...Áo
đen rách lớn phía tà sau,
Quần
vá nhiều mảnh vải khác màu,
Bụng
lép, tay rung, đi chẳng vững,
Nhà
đâu, cha mẹ ở nơi đâu ?
Cha
nó xa rồi, hỡi bạn ơi !
Từ
ngày khói lửa bặt tăm hơi,
Mẹ
đà chết thảm hôm oanh tạc,
Nên
để bây giờ nó lẻ loi.
(Sàigòn,1946)
Nhớ quê hương
(trích)
...Đâu
là bạn mấy năm trời chiến đấu
?
Để
ngày mai tươi sáng đẹp như
hoa ?
Nhạc
chiều đương trỗi dậy giữa rừng
xa,
Cùng
gió lốc tung ngọn cờ oang liệt.
Nay
xa quá hỡi tình thiêng nước Việt
!
Trong
lòng ta như chết cả niềm vui,
Trong
cười say ca hát lệ thầm rơi,
Hình
dĩ vãng vẫn chưa mờ trong dạ...
(Paris, 1948)
Tiếng đàn khuya
(trích)
Đêm
nay trăng kéo tơ vàng,
Bàn
tay ngọc bỗng nhẹ nhàng nắn cung,
Tiếng
đàn uyển chuyển trên không,
Lướt
qua ánh sáng chạm vùng lặng im.
Vườn
hoa động giấc êm đềm
Làm
cho những cánh hồng mềm mại rơi,
Vuốt
ve tơ liễu buông dài,
Qua
lùm cây tối nghe hơi lạnh lùng...
Tiên
nga tóc xoã ngang lưng
Tinh
vi tượng ngọc tắm trăng nõn nà.
Tiếng
xa gọi nhớ ngày xa,
Tiếng
gần đầm ấm hồn hoa thêm gần,
Thẹn
như ân ái ngại ngần,
Đẹp
như đôi má giai nhân ửng hồng
Nở
hoa trên sóng không trung,
Muôn
hình sắc điệu bay trong đêm vàng.
(Paris, 1952)
Hoàng Xuân Hãn
(bài đã đăng Diễn Đàn số 8, 05.1992)
Các thao tác trên Tài liệu