Dân tộc và dân chủ...
Dân
tộc và dân chủ
Huyền thoại và
giá trị
Bùi Mộng Hùng
Nam quốc sơn hà
Nam đế cư. Gần nghìn năm trước, vào thời mà
những quốc gia như Pháp, như Anh, lãnh thổ còn
chưa rõ nét, ý niệm dân tộc còn
mờ nhạt trong tâm khảm con người sống trên đất
nước của họ, thì Lý Thường Kiệt khẳng
định nước Nam cương vực rành rành, đứng
đầu là vua Nam. Gãy gọn, chắc nịch, như dao
chém đá.
Những chủ nhân của đất nước ấy nhận cùng chung một nguồn gốc, tự xưng là người Việt. Quốc hiệu Ðại Cồ Việt, Đại Việt... từ buổi xa xưa giành lại được chủ quyền đất nước cho tới ngày nay không ngớt khẳng định vai trò của dân tộc Việt. Ngay buổi ban sơ, xích xiềng nghìn năm đô hộ vừa phá tan, sớm, rất sớm, dân tộc ta đã là một dân tộc - quốc gia (nation - état) có lãnh thổ riêng của mình, có nhà nước đại điện cho chủ quyền của mình.
Chủ quyền, huyền bí và thiêng liêng, của dân tộc được ghi nhận trong sổ sách nhà trời : Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Hiển nhiên là vĩnh hằng. Ngày xưa như ngày nay và sẽ mãi mãi như thế.
Kẻ địch - quân Tống vào năm 1077 ấy - hay bất cứ ai khác, bất cứ vào thời điểm nào, chỉ có thể là chuốc lấy bại vong :
Như hà nghịch lỗ
lai xâm phạm ?
Nhữ đẳng hành
khan thủ bại hư
Một bản tuyên ngôn vỏn vẹn bốn câu, hai mươi tám chữ :
Núi sông Nam
Việt vua Nam ở
Vằng vặc sách
trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm
đến đây ?
Chúng mày
nhất định phải tan vỡ.
(Lê Thước - Nam Trân dịch)
Thật
ngắn gọn, nhưng trọn vẹn tính cách của ý
thức hệ dân tộc chủ nghĩa. Người Việt từ thời
ấy ý niệm sâu sắc về dân tộc, một biểu
tượng tập thể do cá nhân mỗi người hợp
thành. Biểu tượng được thiêng liêng hóa,
thần thánh hóa. Thành huyền thoại. Thành
sức mạnh gắn bó hiện tại vào quá khứ
trong đà vươn tới tương lai. Cá nhân mỗi
con người bé bỏng đơn côi bỗng nhiên hùng
tráng. Máu chảy trong huyết quản là những
giọt máu Âu Cơ, Lạc Long Quân ; ngấm ngầm
trong con người là đức tính của tổ tiên,
của dân tộc. Mỗi cá nhân là cả quá
khứ, cả văn hóa, là cả một tập thể, hiện
tại đã qua và sắp tới, cùng chia xẻ với
nhau một ý niệm dân tộc.
Một sức mạnh, mãnh liệt khi vào lĩnh vực chính trị. Sức mạnh ấy đã đưa chân dân tộc Việt đi, đi mãi, hướng về Nam đến tận mũi Cà Mau. Nghìn năm đã qua, ý thức dân tộc vẫn hồn nhiên mộc mạc trong thơ văn như buổi ban sơ. Có người đã lầm, cho là ca dao mấy câu thơ Huỳnh Văn Nghệ làm vào khoảng những năm 40 :
Từ thuở mang gươm đi
dựng nước
Nghìn năm thương
nhớ đất Thăng Long
Ý
niệm sâu
sắc về đặc tính của mình là sức hấp
thu vào lòng dân tộc những yếu tố mới
lạ gặp gỡ trên dòng lịch sử. Một ví
dụ còn chưa xa lắm là cộng đồng Minh Hương,
một tập thể giàu cá tính, đã cố
tình xác định nguồn gốc của mình bằng
tên gọi. Trịnh Hoài Ðức (1765- 1825) là
người
Minh Hương, tổ ba đời từ huyện Trường Lạc tỉnh Phúc Kiến chạy loạn Mãn Thanh sang ngụ ở Trấn Biên (Biên Hòa). Ðến thế hệ Hoài Ðức, con mắt hoàn toàn là một người dân đồng bằng sông Cửu Long, tự hào đất nước phì nhiêu, mưa gió phải thì, không hạn hán cơ cầu nhà vua phải đích thân cầu đảo xin trời làm mua (như ở Trung quốc vua Thành Thang đời Thương phải làm lễ cầu đảo ở Tang Lâm) :
Sáng mai lúa
trổ tràn đồng ruộng
Đâu phải Tang Lâm
đợi mưa về
(Vạn khoảnh minh triêu trình hợp dĩnh, Tang Lâm vô sự đảo kiền tê), (Mỹ Tho dạ vũ, Mưa đêm ở Mỹ Tho, Huỳnh Minh Ðức dịch).
Tâm sự của ông, vào thời buổi loạn lạc, là tâm sự một con dân đất nước đau lòng xót dạ mà thấy đổ máu chiến sĩ anh hùng, thốt tiếng kêu lên với đất trời :
Pha máu anh hùng,
sông một nửa
Trời cao mờ mịt biết
hay không ?
(Giang lưu bán thị anh hùng huyết, Chân tể minh minh tri bất tri ?) (Thương loạn, Cảm thương cảnh loạn lạc, Nguyễn Khuê dịch)
Trịnh Hoài Ðức ra giúp Nguyễn Ánh. Khi Gia Long lên ngôi, ông đi sứ Trung Hoa (1802-1803) để cầu phong. Trên đường sứ bộ, ông làm mười tám bài thơ chữ nôm, lấy ngôn ngữ dân tộc để tình tự tâm tư của một thần dân Việt Nam với quân vương của mình :
Ngàn dặm ơn sâu
lai láng biển
Muôn trùng
nghĩa nặng chập chồng non
Ðể nôm na tâm sự nỗi ngong ngóng nhớ nước nhớ nhà :
Vái hỏi xanh xanh
kia biết chẳng
Ngày nào về
đặng nước nhà xưa ?( 1 )
Từ xưa tới nay dân tộc ta không ngừng hấp thu vào vốn liếng chung những nét văn hiến từ ngoài tới. Tự xưa, dĩ nhiên là văn hóa Trung Hoa suốt nghìn năm đô hộ, mà còn những nét văn hóa Chàm đặc biệt là nhạc và điêu khắc. Vào đến miền Nam, ta biết thừa hưởng từ cách ăn uống đến giống lúa, kỹ thuật làm ruộng đặc thù ở đất đồng bằng sông Cửu Long của người Campuchia, biết đón nhận những những nét văn hóa Triều Châu, Phúc Kiến qua nhiều đợt đi dân người Hoa. Và trong thời gian chịu đô hộ của thực dân Pháp, biết chuyển hóa những yếu tố tây phương vào thơ vào văn làm đổi hẳn bộ mặt văn học, mà phong cách vẫn cứ là phong cách dân tộc. Yếu tố bên ngoài không ngớt thâm nhập xã hội Việt Nam, chúng được hấp thụ, chuyển hóa làm giàu cho nền văn hóa, nhưng nếu bản sắc vẫn được vẹn toàn chính là nhờ tinh thần dân tộc.
Ngày nay biên cương một quốc gia là cái khung quá chật hẹp đối với nền kinh tế thị trường, quá nhỏ bé để thực hiện tối ưu một số kỹ thuật tiên tiến, quan niệm về dân tộc rồi đây có thể đổi thay, đó là những sự kiện cần phải được nhận định và đánh giá đúng mức trong mọi tính toán.
Ðiều đáng lưu tâm là xu hướng phát triển xã hội tư bản hiện nay đang san bằng mọi khác biệt văn hóa, tạo ra một thứ văn hóa vô vị, mờ nhạt, nông cạn. Giữ cho bản sắc của những nền văn hóa bề dày hàng mấy ngàn năm không bị xóa bỏ bởi làn sóng duy lợi nhuận hiện nay coi văn hóa chỉ như một công cụ đẻ ra tiền, để cho nhân loại vẫn cứ muôn màu muôn sắc là giữ cho con người những vốn quý, một mất đi không dễ tìm lại được. Trong công cuộc này tinh thần dân tộc còn giữ một vai trò quan trọng dài lâu.
Sẽ
lầm to khi cho rằng
tinh thần dân tộc chỉ hướng về quá khứ !
Malraux có nói chí lý rằng : "
Lý
trí tạo ra ý niệm dân tộc, còn sinh
ra mãnh lực tình cảm của ý niệm ấy
chính là nỗi niềm cùng chung một ước mơ
" (2).
Cùng chung một di sản, một hoài bão đó là sức mạnh của một dân tộc. Ta đã thấy sức mạnh ấy là thế nào trong cách mạng 1945. Khi chính quyền được xem như là hiện thân của hoài bão sâu xa nhất của cả dân tộc.
Chí khí ngất trời của nhân dân là sức mạnh tinh thần vô biên. Nhưng đem so lực lượng của hai bên Pháp, Việt thời đó, cứ công tâm mà xét, thì chẳng khác gì lấy trứng chọi đá. Phải nhìn như một người sống vào cái thời 45-46 ấy mới rõ tầm quan trọng của một sự lãnh đạo sáng suốt.
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc không khuôn mình trong ý thức hệ dân tộc chủ nghĩa hạn hẹp. Như các phong trào chống Pháp trước kia, như khi Nguyễn Huệ đánh quân Thanh, Lê Lợi đuổi quân Minh, Hưng Ðạo Vương Trần Quốc Tuấn dẹp quân Nguyên. Miệt thị người dân nước địch như cầm thú, " ... uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ " (3).
Tình thế năm 1946 dầu sôi lửa bỏng là thế, mà chủ tịch Hồ Chí Minh chấp nhận rời đất nước hàng tháng trường, đích thân qua Pháp dự hội nghị : " ... Sang Pháp lần nầy còn là dịp tốt để ... tranh thủ cảm tình của nhân dân Pháp và thế giới " (4). Và quả là suốt chín năm trường kháng chiến chống thực dân, nhân dân Pháp ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta, mỗi ngày mỗi đông hơn ép chính quyền Pháp phải chấm dứt một cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Tiếp sau đó đế quốc Hoa Kỳ cương quyết trực tiếp ngăn chặn công cuộc thống nhất đất nước Việt Nam. Một lần nữa lại chênh lệch, chẳng khác châu chấu đá xe. Và thêm một lần nữa, vì nhân dân Mỹ chán ghét không muốn đưa đẩy con em mình vào một cái chết vô nghĩa mà chính quyền Hoa Kỳ buộc phải rút lui mặc dù, khách quan mà nói, còn sức tiếp tục đưa quân vào Ðông Dương. Không, không cứ tinh thần dân tộc là bắt buộc phải kỳ thị, hẹp hòi.
Sau
bao nhiêu năm
máu lửa, mất mát, hy sinh, nghĩ cho cùng
người công dân Việt Nam ngày nay cũng có
được chút gì khác hơn so với người
Việt thời 1945. Một anh bạn, lứa tuổi 17, 18 vào
thời buổi ấy, con nhà gia thế đã bỏ tất cả
để đi theo cách mạng. Ngày nay, tóc bạc,
răng long, ngồi kể lại những năm đi vào kháng
chiến, anh bùi ngùi nói rằng : " Thật
ra, cậu ạ, là người Việt thì không có
quyền lựa chọn ! " Vâng, nghĩ cho cùng,
người dân một nước muốn làm người cho ra
người thì còn có thể lựa chọn gì,
ngoài việc giành lại quyền chính trị đã
bị tước đoạt của mình ?
Ngày nay không gian chính trị của người công dân Việt Nam đã được phục hồi. Ít ra là trên nguyên tắc. Anh có quyền lựa chọn hướng đi cho tương lai anh, tương lai đất nước. Anh tự do. Ít nhất là trên giấy tờ. Trong cái không gian chính trị mới này có một điểm từ xưa tới nay chưa hề có trong lịch sử nước Việt Nam. Bị đô hộ, người dân một nước không đứng ngang hàng với người mẫu quốc đã đành, nhưng trước kia đuổi ngoại xâm xong, dưới chế độ quân chủ, người dân cũng chỉ được quyền quy phục quân vương. Trong không gian chính trị mới giành lại được, trên nguyên tắc, mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng. Bình đẳng vì tự do ngang nhau, và tự do vì bình đẳng, không ai được quyền phạm đến tự do của người khác.
Biểu
hiện của tự do là gì nếu không là
khả năng hành động, trong nghĩa khả năng thực thụ
quyết định diễn biến của xã hội, của đời
mình (5)
? Và, tiên quyết trong việc này
là chọn lựa giá trị cho xã hội, cho cá
nhân mỗi người.
Anh bạn Ðặng Tiến đã hoàn toàn có lý khi đặt vấn đề dân tộc và dân chủ (6) vào đúng thời điểm mà dân tộc phải chọn lựa những giá trị cơ bản cho đoạn đường trước mắt.
Ðoạn đường giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước đã đi qua. Những giá trị khả kính mà hiệu năng đã được chứng minh trong các giai đoạn đã qua còn đáng được rập theo trong giai đoạn trước mắt hay chăng, giải đáp vấn đề tối ư quan trọng này phải do nhân dân Việt Nam tự do quyết định.
Trong tình hình hiện nay lấp liếm đánh đồng tương lai với quá khứ chỉ là hành vi của những nhóm đã cạn hết ý không đề ra nổi một dự phóng xây dựng xã hội xứng đáng với dân tộc. Trong thực chất là một ý đồ cả vú lấp miệng em để tước quyền tự do mà dân tộc ta đã trên ba mươi năm xương máu hy sinh mới giành lại được.
Cũng như việc chính quyền hiện nay thiết lập chế độ độc đảng, mặc nhiên thể chế hóa hai loại công dân, công dân đảng viên quyền chính trị cao hơn công dân phó thướng dân. Mà đã xóa bình đẳng là tước mất tự do. Chính vì thế mà thể chế sơ hở, kỷ cương lỏng lẻo không tôn trọng tự do của người công dân. Và mở của cho nguy cơ mọi thứ độc tài dấy lên.
Nhìn
vào lịch
sử cận đại, nhan nhản ví dụ những nhóm
cùng sống trong một quốc gia, đều là nhân
danh dân tộc chủ nghĩa, lựa chọn những giá
trị đối lập với nhau. Riêng tại một nước Pháp,
vào cuối thế kỷ thứ 19 đã cùng nở rộ
những thứ dân tộc chủ nghĩa dân chủ và
tự do tư tuởng cùng với dân tộc chủ nghĩa
chuộng uy quyền, chống chế độ đại nghị, dân tộc
chủ nghĩa bảo thủ về mặt xã hội song song với
dân tộc chủ nghĩa phủ nhận xã hội hiện
hành, có dân tộc chủ nghĩa tự mãn
tự đại và có dân tộc chủ nghĩa khắc
khoải lo âu, có dân tộc chủ nghĩa chủ
trương tuân theo tôn giáo cổ truyền và có dân
tộc chủ nghĩa đòi thế tục hóa, bài
tăng lữ ...
Những giá trị có thể chọn lựa thật quá nhiều.
Dân
chủ là
một trong những giá trị đó. Có thể nhìn
một cách rất giản đơn : dân chủ là
quyền lựa chọn người thay mặt mình quản lý
đời sống hàng ngày trong làng mạc, trong
phường xóm, v.v... Nếu việc làm và lời
nói của người đó không đi đôi với
nhau thì có quyền chọn người khác thay.
Và
cũng có thể nhìn như những giá trị cao đẹp phải vươn tới như tự do và bình đẳng, thể hiện trong đời sống giữa người và người, tôn trọng lẫn nhau, giải quyết tranh chấp bằng thảo luận để đi đến giải pháp mỗi bên đều chấp thuận, tinh thần đó thể hiện ra kỷ cương, thể chế, luật pháp.
Nhìn như thế thì dân chủ là một quá trình dài hơi, mỗi ngày mỗi dẹp bớt những điều trong xã hội còn thấy chưa được vừa lòng, từng bước tiến tới một xã hội tự do công bằng lý tuởng. Quá trình ấy không một ai ban bố được vì là công trình của mọi công dân, thực hiện trong các khía cạnh đời sống hằng ngày, đòi hỏi thể hiện thành chế độ, thể chế thích hợp. Một công cuộc xây dựng không ngừng.
Giá trị dân chủ là những giá trị xuất hiện từ khi có con người tự do. Của những ai mong muốn tạo một không gian chính trị trong đó con người được tự do bình đẳng với nhau.
Tự do đã được ghi ngay sau chữ độc lập trong mục tiêu nêu ra từ ngày đầu cách mạng giải phóng dân tộc. Ðộc lập, thống nhất rồi, còn tự do. Nếu trung thành với lý tuởng của các thế hệ đã hy sinh xương máu, và trung thành với lý tuởng của bản thân mình, thì e rằng người công dân Việt Nam ngày hôm nay sau này cũng có ngày gãi gãi mái đầu bạc tâm sự với em cháu : " Thật ra, cậu ạ, là người Việt thì không có quyền lựa chọn ! "
Vì chỉ có một hướng đi duy nhất : những ai yêu tự do, bình đẳng, công bằng xã hội nắm lấy tay nhau, cùng tiến.
B.M.H. (10.92)
(1) Thơ Trịnh Hoài Ðức đều trích từ Văn học Nam hà , Nguyễn Văn Sâm. Lửa Thiêng 1974.
(2) "L’esprit donne l'idée d’une nation, mais ce qui fait sa force sentimentale, c’est la communauté de rêve" Malraux, La tentation de l’Occident, 1926.
(3) trích dịch Trần Quốc Tuấn, Hịch tướng sĩ.
(4) Thế Kỷ - Minh San, Vị thượng khách đến Paris về Hà Nội, tập truyện ký ghi lời kể của nhiều cán bộ đã sống gần và làm việc với chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhũng năm 1946 - 47 , Nhà xuất bản tổng hợp Quảng Ngãi 1991.
(5) Trần Ðạo, Dân chủ, ước mơ và hiện thực, Diễn Ðàn số 13, 1.11.92.
(6) Ðặng Tiến, Dân tộc và dân chủ, Diễn Ðàn số 11, 1.9.92.
Các thao tác trên Tài liệu