Nợ nần và phát triển
Tìm hiểu kinh nghiệm Nam Triều Tiên
Nợ nần và phát triển
Nguyễn Trọng Nghĩa
Theo thủ tướng Võ Văn Kiệt, để thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi, từ nay đến năm 2000, tổng sản lượng quốc dân tính theo đầu người (hiện nay chừng 200 đôla), thì Việt Nam cần phải đầu tư khoảng 40 tỉ đôla, tức là 5 tỉ mỗi năm: hơn 1/3 tổng sản lượng quốc dân (chừng 14 tỉ đôla)! Nếu ước tính này được thực hiện, chắc chắn phần lớn phải dựa vào việc vay mượn vốn của nước ngoài vì ba lý do chính sau đây:
– Trong tình hình thiếu hụt ngân sách trầm trọng hiện nay của hầu hết các nước tư bản phát triển, viện trợ kinh tế của họ cho Việt Nam chỉ có thể là sẽ rất giới hạn.
– Với mức thu nhập quá thấp hiện nay, khả năng tích luỹ vốn của nhân dân và nhà nước Việt Nam cũng khó có thể dồi dào như có người đã ước mơ: 20 tỉ đôla trong vòng 8 năm!
– Để xây dựng hạ tầng cơ sở (đường sá, cầu cống...) đã quá cũ kỹ và nhất là thiếu thốn (đây là một khu vực sẽ ngốn rất nhiều vốn và thường không đem lại lợi nhuận trực tiếp), nhà nước không thể chờ đợi sự đầu tư của tư bản ngoại quốc mà trái lại phải tự mình đứng ra cáng đáng.
Vay mượn vốn nước ngoài (20 tỉ đôla hay nhiều hơn nữa) để phát triển: phải chăng đó là một trong những chọn lựa chiến lược về kinh tế của Việt Nam trong những năm tới, nhất là sau khi Mỹ đã bỏ cấm vận? Cách đây hơn 30 năm, chính phủ Nam Triều Tiên cũng đã đề ra một chính sách tương tự và họ đã thành công trong việc thực hiện. Do đó, tìm hiểu và suy nghĩ về kinh nghiêm sử dụng vốn vay của nước ngoài và biến nó thành một công cụ có hiệu quả cho công nghiệp hoá và phát triển, tưởng cũng không phải là điều vô ích.
Sau chiến tranh giữa Nam và Bắc Triều Tiên (1950-1953), vốn ngoại quốc đi vào Nam Triều Tiên dưới ba hình thức: viện trợ kinh tế, vay mượn và đầu tư trực tiếp của người nước ngoài.
Từ 1954 đến 1961, các nước tư bản (chủ yếu là Mỹ) đã viện trợ cho Nam Triều Tiên 3,1 tỉ đô la (100% tổng số vốn ngoại nhập), nhưng sau đó viện trợ kinh tế giảm đi rất nhanh (1962-66: 0,8 tỉ, 1967-71: 0,5 tỉ) để rồi chấm dứt hẳn từ năm 1972.
Nam Triều Tiên bắt đầu vay vốn nước ngoài từ 1962 trở đi, cùng lúc với sự đầu tư trực tiếp của tư bản ngoại quốc. Trong vòng 25 năm (1962-86), họ đã vay cả thảy 73,4 tỉ đô la, tức là gần 95% tổng số vốn ngoại nhập (77,32 tỉ), gấp 30 lần vốn do người nước ngoài đầu tư (2,62 tỉ)! Năm 1980, vay nhiều nhất: 8.471 triệu đôla. Năm 1985, Nam Triều Tiên nợ nước ngoài đến 46,729 tỉ đôla, chiếm 52,1% tổng sản lượng quốc dân. Thế nhưng, chỉ trong hai năm 1987-89 họ đã giảm được tổng số nợ xuống 29,4 tỉ đô la (13,9% tổng sản lượng quốc dân). Theo Shim Young Seop (1), sự thành công của Nam Triều Tiên trong việc phát triển kinh tế bắt nguồn từ mấy đặc điểm sau đây:
– Quá trình công nghiệp hoá của Nam Triều Tiên đã không bị quy định bởi một lô gích ép đặt từ bên ngoài: các chiến lược và chính sách công nghiệp của Nam Triều Tiên, cởi mở và nhất là không có tính cách giáo điều, đã không bị tổ chức tuỳ thuộc vào sự thúc đẩy của vốn ngoại nhập. Trái lại vốn vay của nước ngoài được sáp nhập vào trong khung cảnh của các chính sách công nghiệp của nhà nước. Nhằm làm chủ được những món nợ, chính phủ Nam Triều Tiên đã lấy những biện pháp vừa khuyến khích và kiểm soát được vốn ngoại nhập vừa được gắn chặt với chiến lược phát triển đang thực hiện.
– Nhà nước đã tỏ ra có đủ khả năng điều tiết và chỉnh lý giữa nợ nần, công nghiệp hoá, xuất khẩu và tăng trưởng, không những trong một thời cơ thuận lợi như vào năm 1986 (khi lãi suất giá đôla và nguyên liệu đều giảm) mà ngay cả trong một hoàn cảnh bất lợi (như khi giá dầu khí tăng vọt): nhà nước đã can thiệp như là người đối tác (partenaire), nhằm mục đích tạo ra sự cố kết và liên đới giữa những tác nhân kinh tế.
– Trong những năm 1960 và 1970, Nam Triều Tiên là một trong những nước có sự phân phối lợi tức bình đẳng nhất thế giới; và đó là một điều kiện ban đầu thuận lợi cho việc sử dụng tối ưu vốn vay của nước ngoài: không thể nào bắt công nhân, viên chức phải hy sinh, nhận lương thấp hầu làm giảm giá thành của hàng hoá và đẩy mạnh xuất khẩu (điều kiện cần thiết để trả những món nợ đã vay của nước ngoài) nếu cùng lúc những người lãnh đạo lại lãnh lương quá cao.
Ngoài nhà nước ra, cũng còn phải nhấn mạnh đến vai trò của các xí nghiệp và hệ thống tài chính: khả năng làm chủ việc vay vốn cũng như quá trình nợ nần tuỳ thuộc ở cả ba tác nhân kinh tế nói trên. Thật vậy, cho dù chiến lược, chính sách phát triển của nhà nước có đúng đắn đến đâu, nếu hệ thống tài chính quá lạc hậu, bất lực nên không biết phân phổi vốn một cách hợp lý, tối ưu, nếu các xí nghiệp không biết làm ăn nên thua lỗ, thì chắc chắn nợ mẹ sẽ đẻ ra nợ con, để rồi đi đến chỗ phá sản.
Với sự cải thiện quan hệ với Mỹ, Việt Nam hy vọng một ngày rất gần đây Mỹ sẽ bỏ cấm vận, và nhờ đó Việt Nam sẽ nhận được nhiều tín dụng của Ngân hàng thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng phát triển Á châu, v.v... Ai không nghĩ đó là điều đáng mừng. Thế nhưng, rút kinh nghiệm về cách làm ăn không được nghiêm chỉnh lắm trong việc xây dựng đường dây điện cao thế Bắc-Nam, Tuần báo Kinh tế Viễn Đông (số ra ngày 18.2.1993, tr. 5) đã lên tiếng báo động là không khéo tín dụng của các tổ chức nói trên sẽ tàn phá Việt Nam ghê gớm hơn cả bom B52. Theo tuần báo này, cứ nhìn tấm gương của Phi Luật Tân hiện nợ của các tổ chức nói trên 29 tỉ đôla (gấp hai lần tổng sản lượng quốc dân của Việt Nam) mà không có gì để trả, thì đủ rõ.
Để phát triển, chắc chắn Việt Nam cần phải vay vốn của nước ngoài. Nhưng liệu nhà nước, các xí nghiệp (quốc doanh và tư nhân) cũng như hệ thống tài chính của Việt Nam đã có đủ khả năng để sử dụng có hiệu quả vốn vay của nước ngoài? Phải chăng, trong một chừng mực nào đó, đúng như Tuần báo Kinh tế Viễn Đông đã nhận định, sự cô lập của Việt Nam trong mười mấy năm rồi rốt cuộc lại là điều may? Nếu không, chắc Việt Nam cũng đã nợ ngoại quốc còn hơn chúa Chổm, chứ không phải chỉ 12 tỉ rúp (trước đây tương đương với 12 tỉ đôla) còn chưa trả cho Liên xô!
Nguyễn Trọng Nghĩa
1 Endettement et industrialisation. Le cas de la République de Corée, trong Asies recherches số 9, tháng 9-1992
Vốn đầu tư ngoại quốc vào Nam Triều Tiên tính bằng tỉ đôla và phần trăm |
|||||||
Thời kỳ |
1954 1961 |
1962 1966 |
1967 1971 |
1972 1976 |
1977 1981 |
1982 1986 |
Tổng cộng |
Viện trợ |
3.10 100% |
.80 65,6% |
.50 12,8% |
|
|
|
4.40 5,5% |
Vay |
0
|
.40 32,8% |
3.30 84,6% |
9.20 94,8% |
28.90 97,3% |
31.60 96,3% |
73.40 91,3% |
Đầu tư trực tiếp |
0 |
.02 1,6% |
.10 2,6% |
.50 5,2% |
.80 2,7% |
1.20 3,7% |
2.62 3,3% |
Tổng cộng |
3.10 |
1.22 |
3.90 |
9.70 |
29.70 |
32.80 |
80.42 |
Xuất xứ: Ngân hàng Triều Tiên, Shim dẫn, tr. 141 |
Diễn biến số tiền vay hàng năm và tổng số nợ tính bằng triệu đôla
|
Vay |
Nợ chung |
Nợ/xuất |
Nợ/TSL |
1962 1964 1965 1966 1967 1968 1969 1970 1971 1972 1973 1974 1975 1976 1977 1978 1979 1980 1981 1982 1983 1984 1985 1986 1987-89 1989 |
31 35 19 277 297 577 667 850 983 829 1074 1986 2845 2610 2627 3189 7015 8471 7428 7217 5816 5924 6651 5288 *
|
58 138 177 352 646 1199 1800 2245 2922 3584 4260 5937 8456 10533 12648 14871 20500 27367 32490 37083 40378 43053 46729 44500
29400 |
35,50 65,70 61,00 77,40 100,50 136,20 156,50 162,80 180,40 161,20 103,40 122,30 143,70 111,40 96,70 86,70 103,90 120,30 118,90 130,80 133,10 127,90 141,20 106,00
39,70 |
2,50 4,80 5,90 9,60 15,10 22,90 27,10 27,70 30,90 30,80 31,70 31,70 40,70 36,90 34,50 29,00 33,40 44,50 48,60 52,00 50,80 49,50 52,10 43,30
13,90 |
Xuất xứ: Hội đồng kế hoạch kinh tế và những nguồn NTT khác (dẫn theo Shim, tr. 160)
* = trả nợ trước
Các thao tác trên Tài liệu