TẢN MẠN VỀ MỘT DÒNG THƠ
TẢN MẠN VỀ MỘT DÒNG THƠ
VĂN NGỌC
Trong một cuộc gặp gỡ ở Huế ngày 14-5-1988 giữa Trần Dần, Phùng Quán với vài ba nhà văn, nhà thơ đất Thần kinh, có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Quang Lập, Vĩnh Nguyên, Ngô Minh, nhà thơ Trần Dần đã trả lời nhà thơ Ngô Minh về vấn đề thế hệ các nhà thơ trẻ như sau: "Thế hệ trẻ à? Tôi cứ đợi mãi. Nó bị trong vòng vây của văn chương Cung đình, tôi sốt ruột đợi lớp trẻ đủ sức lớn lên để chôn bọn tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến". Câu nói thẳng, không câu nệ, cũng không quá đáng. Chữ “chôn” ở đây phải hiểu theo nghĩa: làm khác đi và nếu có thể, vượt xa hơn. Chôn không phải là không thèm biết đến nữa, vì ở một chỗ khác, Trần Dần nói: "Ca dao là một ông thầy phải đặt ngang như Nguyễn Du, Cao Bá Quát. Phải học, để mà chôn đi" cũng là nói trong ý đó.
Câu trả lời của Trần Dần về thế hệ trẻ, nêu ở trên, tóm lược một cách khá cô đọng tất cả cái quá trình phát triển cũng như ngưng đọng của thơ Việt Nam hiện đại.
Thật ra, những nhà thơ "trẻ", hiểu theo cả hai nghĩa, nhất là nghĩa bóng, tức là xông xáo, không công thức, không sáo rỗng, dám nghĩ, dám nói, đã có mặt trên thi đàn từ một số năm nay, mặc dầu không đông lắm, kể từ những người đã thành danh như: Nguyễn Duy, Việt Phương, Trần Mạnh Hảo, Thanh Thảo, Bùi Minh Quốc, Trần Vàng Sao, v.v... Ngoài ra còn không biết bao nhiêu tài năng "trẻ" khác, ở trong cũng như ở ngoài nước, mà người ta chưa đánh giá được hết.
Ở đây tôi cũng xin mở một dấu ngoặc: trong bài này tôi sẽ không nói đến cả một thế hệ nhà thơ đã có những đóng góp không nhỏ cho nền thi ca Việt Nam từ sau Cách mạng tháng tám, trải qua hai cuộc Kháng chiến cho tới bây giờ, những nhà thơ mà tôi đã yêu thích một thời và ngay cả đến bây giờ thỉnh thoảng họ vẫn có những bài thơ mà tôi thích, mặc dầu không ở trong dòng thơ mà tôi muốn giới thiệu với bạn đọc hôm nay. Tôi cũng sẽ không nói đến những trường phái thơ đã tồn tại ở những thành thị miền Nam từ giữa thập kỷ 50 cho đến 1975 do không có đủ tài liệu để tra cứu.
Dưới đây là một số trích đoạn thơ của những nhà thơ trẻ đã nêu tên ở trên mà tôi cho là đã thoát khỏi những "clichés" sáo rỗng hiện đang vẫn còn tràn ngập trên thi đàn từ mấy thập kỷ nay, trong đó người ta không bắt gặp được những tư tưởng, tình cảm thật, những rung động, những nỗi trăn trở, vui, buồn và khát vọng của con người sống trong thời đại mình.
Trước hết là bài thơ Cuộc đời như vợ của ta ơi của Việt Phương. Bài thơ này có cái lai lịch anh dũng của nó: Việt Phương hồi đó là thư ký riêng của thủ tướng Phạm Văn Đồng. Sau khi cho xuất bản nó trong tập thơ Cửa Mở của anh năm 1970, anh đã bị mất chức. Việt Phương là một trong những người đầu tiên đã dám nói lên những sự thật trái tai ngay trong giữa thời kỳ văn học "minh hoạ" và xưng tụng:
Năm
xưa ta nói rất nhiều về “cực
kỳ” và “hết sức”
Tội
nghiệp là ta nói chân thành rất
mực
Chưa
hiểu rằng "trời"
còn xanh hơn cả "trời
xanh"
Ta
thiếu sự trầm lặng cũng do bởi
nhiệt tình.
Ta
cứ nghĩ là đồng chí rồi
không còn ai xấu nữa
Trong
hàng ngũ ta chỉ dành chỗ cho yêu
thương
Đã
chọn đường
đi chẳng ai dừng ở giữa
Mạc
Tư Khoa còn hơn
cả Thiên đường. . .
Cửa Mở, 1970
Nguyễn Duy, một nhà thơ bộ đội, dày dạn ở chiến trường miền Trung trong nhiều năm, đã có những bài thơ được chú ý ngay từ những năm 72-73, với tập thơ Cát trắng (1973). Nhưng anh chỉ bắt đầu đề cập đến những vấn đề đời thường từ những năm 80 trở đi. Người ta có thể thấy được cái phong cách đặc biệt, hơi đùa cợt và bất cần đời của Nguyễn Duy trong bài Đánh thức tiềm lực và nhiều bài khác cùng loại:
Tiềm
lực còn
ngủ yên
trong
lớp da biếng lười cảm giác
Năng
động lên nào
từ
mỗi tế bào, từ mọi giác quan
Cố
nhiên cần lưu ý tính năng
động của cái lưỡi.
Cần
lưu ý
lời
nói thật thà có thể bị buộc
tội
lời
nịnh hót dối lừa có thể được
tuyên dương
đạo
đức giả có thể thành dịch
tả
lòng
tốt lơ ngơ có thể lạc đường.
. . . . .
Cái trăn trở nhức nhối trong thơ Nguyễn Duy còn được thể hiện qua những câu thơ tuy dí dỏm, nhưng thật ra cay đắng. Nhìn từ xa... Tổ Quốc là một bài thơ anh sáng tác trong một chuyến đi sang Mạc Tư Khoa:
Có
một thời ta mê hát
đồng ca
chân
thành và say đắm
ta
là ta mà vẫn mê
ta
Vâng
- đã có một
thời hùng vĩ lắm
hùng
vĩ đau thương hùng vĩ máu
xương
mắt
người chết trừng trừng không chịu
nhắm
Vâng
- một
thời không thể nào
phủ nhận
tất
cả trôi xuôi - cấm lội ngược
dòng
Thần
tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ
lên thum thủm
cả tim gan . . .
Nhìn từ xa..Tổ Quốc, 1988
Cũng trong một trường hợp tương tự, Trần Mạnh Hảo có bài Đêm phương Bắc nhớ về Tổ Quốc:
Nửa
nước tôi giờ này cuốn trong rơm
rạ
Biển
dạ dày cồn sóng Thái Bình
Dương
Tiếng
mọt nghiến đêm kèo nhà đói
võng
Từ
đỉnh cao tập bước xuống đời
thường
Đất
nước tôi thuyền vỏ trấu vờn
đỉnh sóng
Số
phận neo người vào
bóng Trường Sơn...
1988
Thơ Trần Mạnh Hảo hay có những ý và hình tượng độc đáo. Dưới đây là bài Vĩnh biệt nói lên thân phận con sáo bị cắt lưỡi để nói tiếng người:
Vĩnh
biệt
Còn
hơn cả sự chết
Khi
kéo người cắt
lưỡi tôi
Một
nỗi đau khôn xiết
Sao
tôi lại phải khóc cười?
Ôi
tiếng hót tuyệt vời người không
hiểu
Và
tiếng người nào
tôi hiểu người ơi
Tôi
có còn 1à con sáo
Khi
phải học tiếng người! .
. . . . . .
Vĩnh biệt tiếng hót, 1983, Sông Hương số 31
Thanh Thảo, một tài năng độc đáo, cũng đã từng là nhà thơ bộ đội. Thơ anh xúc tích, giàu hình tượng, giàu suy nghĩ, giàu ý nghĩa tượng trưng:
trên
đất nước trận bão đen tàn
hại
bầy
châu chấu từ đâu về che kín
mặt trời
lúa
te tướp mặt người
xanh xám
dài
làm sao những buổi chiều trống rỗng
bụng
quắt queo kiến bò
cái
đói thật tình xuống hai hàng
nước mắt
nào
phải chuyện văn thơ
Đêm trên cát - Một đêm của nhà thơ Cao Bá Quát, 1984
Thanh Thảo có một ngôn ngữ thơ phong phú. Thơ anh khi có vần điệu, khi không có vần điệu. Nhưng ngay cả khi không có vần điệu, thơ anh vẫn giàu nhịp điệu:
giờ
là thời những tiếng to
những
bụng to
những
hợp đồng
to
chìm
lim lỉm những gì bé nhỏ
trong
bóng tối trong hẻm
trong xóm
nuốt
xuống
yoga
câm lặng. . . .
Buổi sáng, 1993, Diễn Đàn số 23
Bùi Minh Quốc, mà chúng tôi đã có dịp giới thiệu qua bài thơ Cảm tác trong đêm Đà Lạt trên Diễn Đàn số 24, cũng là một nhà thơ có nhận thức nhạy bén trước những vấn đề xã hội. Trong bài Những ngày thường đã cháy lên anh đã nêu lên một trong những vấn đề này:
Không
có ai
Không
có ai
Có
thể ngẩng nhìn trời
Bình
tâm mỗi sáng
Khi
những thằng đểu
còn trong Đảng. . .
Những
người lính vô danh
Những
người mẹ vô danh
Đã
ngã xuống
những nẻo đường dằng dặc
chiến tranh
Mắt
các Người làm sao nhắm
được?
Xương
máu các Người
đã nhào nên đất nước
Từ
dưới mồ trừng mắt nhìn lên:
Ai
đổ máu xương
cho Đảng cầm quyền?
Khi
bọn đểu còn trong Đảng
Ai
có thể bình tâm mỗi sáng!
......
Những ngày thường đã cháy lên, 1988
Tôi xin tạm kết thúc phần giới thiệu không đầy đủ này, với nhà thơ Trần Vàng Sao, tên thật là Nguyễn Đính. Thơ anh, từ khi xuất hiện lần đầu tiên trên tạp chí Sông Hương số 16 (12-1985) cho đến gần đây, vẫn cùng một mạch thơ không vần điệu lạnh lùng, hiện thực đến mức tàn ác, dữ dội, khẳng định một phong cách, một dòng suy nghĩ độc đáo:
trời
hãy mưa hãy mưa cho to
mầy đói
mà chết được đâu
hề ơi
con lợn lòi
vật vã thân thể
kêu thét
từng cơn
tôi không
thấy gì nữa
tôi la thật
to
và bước
ra ngoài sân khấu
tôi rớt hoài
trong một vũng đen sâu
trời
vẫn không mưa được cho mát
Khoảng trống ngoài sân khấu, 1986
Thơ trước tiên là ngôn ngữ của cảm xúc. Mỗi thời kỳ văn học đều có dòng cảm xúc riêng của nó, từ thơ Đường, thơ Mới, đến thơ Cách mạng - Kháng chiến. Nhưng nói đến cảm xúc là nói đến những động cơ của cảm xúc, những điều thiết thân đối với con người: cơm áo, tự do, hạnh phúc, tình bạn, tình yêu, v.v... Do đó, thơ cũng là tiếng nói của tư duy và của lương tri con người.
Đặc điểm chung của những nhà thơ kể trên là gì nếu không là một nỗi đau, một sự trăn trở, suy nghĩ về tự do, hạnh phúc của con người, về tương lai của cái xã hội trong đó họ đang sống. Đây chính là một dòng cảm xúc, một dòng tư tưởng mang tính thời đại. Tôi cho rằng, dòng thơ "trẻ" nói trên, nếu đã đi được vào lòng người, chính là nhờ cái cốt lõi nhân bản đó. Nó được thể hiện lên qua từng câu, từng chữ. Vẫn là một thứ ngôn ngữ tinh tế đấy, nhưng nó không còn trát phấn, trát son, không còn cường điệu, cũng như không còn uốn éo, uỷ mị nữa. Nó nói thẳng lên cái điều nó muốn nói. Tôi cho rằng, sau thơ Mới và thơ Cách mạng - Kháng chiến, ngôn ngữ của thơ cần được đổi mới theo cái hướng đó: giản dị (sobre) và cô đọng . Ngay trong văn xuôi cũng đã có những biến đổi trên chiều hướng này rồi. Lẽ dĩ nhiên, tự do vẫn là cái phương châm chung cho mọi sáng tạo. Và tôi vẫn tin tưởng vào một sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, nhất là ở trong thơ. Thơ hôm nay là cảm xúc cộng với tư duy. Cảm xúc thật đòi hỏi một ngôn ngữ thật và chỉ có như thế, những câu, những chữ mới làm cho người ta xúc động được. Mặt khác, tư duy có đúng, có sâu sắc, thì mới chinh phục được sự đồng tình, đồng ý của người đọc thơ.
Chỉ cần nhìn vào những sáng tác thơ có tính cách thử nghiệm về mặt ngôn ngữ từ trước tới nay, ở trong cũng như ở ngoài nước, người ta có thể có ít ra một nhận xét: gần như không có một hình thức ngôn ngữ nào có thể đứng vững được, nếu nó không chứa đựng một nội dung có khả năng thuyết phục, hoặc làm rung động trái tim người đọc... Một bài thơ dở không phải vì nó có vần điệu hay không, mà vì những câu chữ của nó hoặc vô nghĩa, hoặc chuyên chở những tư tưởng, tình cảm sáo rỗng, lạc hậu.
Trong bài phỏng vấn nhà thơ Trần Dần đã nêu ở trên, có đoạn đối thoại như sau:
Vĩnh Nguyên: "Nhật Bản có thơ Haiku (3 câu ; anh có thơ Mini ngắn hơn (thí dụ: Mưa rơi không cần phiên dịch hoặc Mỗi người một vụ án - Mỗi người chôn sống một chân mây). Có người nói thơ Haiku ngắn nhưng dễ hiểu.Vậy thơ Mini định bắt người đọc tới đâu?"
Trần Dần: "Thơ Haiku mọi người biết rồi. Thơ Mini ai cũng chưa biết. Chúng tôi cũng chưa biết nó là gì. Nên không thể so sánh... Chống công thức là đi tìm cái chưa biết. Cái mới là cái chưa biết. Tôi đi tìm cái mới nên tôi cũng chưa biết thơ Mini là gì "
Nhà thơ đích thực chính là người luôn luôn đi tìm cái mới, không chỉ là cái mới về mặt hình thức mà còn cả về nội dung, về cảm xúc. Người ta bảo thơ có chức năng "dự báo" là thế. Nhà thơ phải là người nhạy cảm trước tiên trước mọi hiện tượng liên quan đến cuộc sống con người.
Chẳng thế mà những kiện tướng thơ của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như Hữu Loan, Văn Cao, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Dương Tường... ngay từ sau những năm gặp hoạn nạn, vẫn tiếp tục đi tìm cái mới và đã có những cống hiến đáng kể cho nền thi ca của thập kỷ 90, với những tập thơ vừa mới được xuất bản những năm gần đây. Trong những nhà thơ của phong trào này, lẽ dĩ nhiên, phải kể cả nhà thơ Hoàng Cầm mà Trần Dần gọi đùa là "thằng lãng mạn" (mà Hoàng Cầm quả vẫn lãng mạn thật!). Tôi tự hỏi không biết đến bao giờ thế hệ "trẻ" mới "chôn" nổi những "ông già" này ?
Văn Ngọc
Các thao tác trên Tài liệu