Chùa Việt Nam
Đọc
sách:
Sách về chùa
Việt Nam
Nhìn lại, trong vòng vài năm đã bao thay đổi trong nội dung và hình thức sách về chùa Việt Nam.
Mới
năm 1988 đó
thôi, sau bao năm vắng bóng sách về đề
tài nói trên, thấy được Chùa
xưa
tích cũ của Nguyễn Bá Lăng, 222 trang, nhà
xuất bản Lá Bối in lần thứ nhất tại San Jose,
Hoa Kỳ. Man mác hương vị " cuốn
theo chiều gió
". Tác giả " tập hợp
những bài viết
giới thiệu một số danh lam, thắng tích của Việt
Nam, đã được đăng trong những tập san Vạn Hạnh,
năm 1964 đến 1968, Phương Đông năm 1972 - 1973."
(Lời tựa) Và một ít bài viết về sau.
Ghi lại " những cuộc đi
thăm viếng những chốn
thắng cảnh, di tích lịch sử trước thế chiến thứ
hai " Với những hình ảnh do tác giả chụp,
hay vẽ, nét thủ bút ghi niên đại trên
một số bức như " Thần Quang tự (chùa Keo)...
1934 ". Tả cảnh, chép lại tích cũ, hội
chùa, một số thơ đề vịnh cổ... bàng bạc u
hoài lưu luyến : " ...
chuyện cũ dễ bị lãng
quên, cảnh cũ bị biến đổi, có khi đến tàn
huỷ vì thế cuộc, vì chiến tranh như hồi mấy chục năm trước đây
đã từng gây ra... vốn liếng của dân tộc
đó mà không được bảo vệ, ghi nhớ để
mất, để bị quên đi thì chẳng đáng tiếc
lắm sao ? " (Lời tựa).
Vào thời mới đó mà đã xa xôi ấy, chỉ có thể hồi tưởng. Được cùng Nguyễn Bá Lăng hồi tưởng là lấy làm may mắn lắm rồi.
Nhưng
nào ai học
được chữ ngờ ! Hai năm sau, 1990, viện Nghiên cứu
Phật học Việt Nam và Nxb Trẻ Thành phố Hồ
Chí Minh in ra Việt Nam
danh lam thắng cảnh Những ngôi
chùa danh tiếng, 284 trang. Nguyễn Quảng Tuân
soạn, ảnh Võ Văn Tường, sau một chuyến tham quan
các chùa từ Nam tới Bắc. Giá trị văn
chương các câu thơ, câu đối chọn lọc,
các bài viết gọn, sáng sủa giới thiệu
56 ngôi chùa, làm ta chợt nhớ ra rằng
Nguyễn Quảng Tuân là một nhà văn học.
Một ít ảnh màu, ngoài ra mỗi cảnh chùa được minh hoạ bằng một tấm ảnh đen trắng, to thì khổ 12x8,5 cm, nhỏ thì 8,5x5 cm. Ảnh in còn mờ, nhưng hiểu điều kiện in ấn trong nước năm đó, cầm sách trên tay thấy nặng những cố gắng để quyển sách khiêm tốn ấy ra mắt bạn đọc.
Cũng
năm 1990 ấy, một
bất ngờ khác là quyển sách nhỏ 169
trang, Chùa Hoa Thành
phố Hồ Chí Minh, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh. Các tác giả
: Phan An, Phan Yến Tuyết, Trần Hồng Liên, Phan Ngọc
Nghĩa, chủ biên Phan An, hình ảnh Phan Ngọc
Nghĩa.
Sách viết không rườm lời mà rõ ràng, sơ đồ bổ sung cho văn tự. Một con số mà không chắc ai ai cũng biết : một nửa số 30 chùa Hoa hiện còn, đã quá 100 năm. Phong thái Hoa, nhưng trên bao lam điện thờ không chỉ chạm khắc đào tiên tuyết lê mà còn hoa quả miền Nam, mãng cầu, trái thơm... Phù điêu kể truyện Trung quốc mà nhân vật cưỡi trâu, chài lưới trong cảnh sông nước đồng bằng Cửu Long.
Lần qua trang sách, khơi lên tâm sự những thế hệ nối tiếp văn nhân gốc Hoa, gởi gắm trên các hoành phi, trướng, liễn :
Bắc quốc niệm tiền
ân, quân thần phụ tử
Nam triều vị hậu vận,
bằng hữu phu thê
(câu đối ở Minh Hương Gia Thạnh, tạm dịch : Nhớ ơn xưa đất Bắc, vua tôi, cha con ; Dựng vận nay dưới trời Nam, bè bạn, vợ chồng).
Và người đọc chợt nhớ những con người ấy đã tô điểm cho văn hoá nước ta với Trịnh Hoài Đức nhà viết địa phương chí, với Ngô Nhơn Tịnh, hai người nổi tiếng văn thơ, đương thời xưng tụng cùng với Lê Quang Định là Gia Định tam gia, và cũng là những công thần triều Gia Long, ghe phen đi sứ Trung Quốc. Văn chương, bút tích Trịnh hoài Đức còn lưu trên hai cột trong chính điện chùa Minh Hương Gia Thạnh.
Qua mười cảnh chùa, người đọc bỗng nhận thấy mình ý thức sâu sắc hơn rằng chùa Hoa là một nét văn hoá đặc sắc của ta.
1991,
chùa Việt
Nam được đề cập với cung cách khác. Như
những thắng cảnh du lịch trong quyển Việt Nam di tích
và thắng cảnh của Đặng Đức Siêu, Nguyễn
Vĩnh Phúc, Phan Khanh, Phạm Mai Hùng, Nhà
xuất bản Đà Nẵng. Từ trang 28 đến trang 92, mục
chữ C, giới thiệu 34 ngôi chùa.
Với lối viết hướng dẫn du lịch mẫu mực, còn hiếm thấy ở Việt Nam, ngắn, gọn mà đầy đủ thông tin: địa chỉ, đường đi nước bước, lịch sử; những lần và niên đại tu bổ, những nét chính về kiến trúc, nghệ thuật...
1992,
Việt Nam danh lam
cổ tự của Võ Văn Tường, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội - Hà Nội, đánh dấu một
phong cách mới. Sách khổ 19x27cm, dày 652
trang, bìa cứng, giấy đẹp, hình lớn chiếm
trọn trang, chữ ít, mỗi chùa vài hàng
chú thích, bằng bốn thứ tiếng : Việt, Anh,
Pháp, Trung. Sau những năm dài khắc khổ, hình
mẫu được dịp khoe hồng phô lục...
Ngôn ngữ nhiếp ảnh thăng hoa, văn tự lui về địa vị tối thiểu dành lời cho nghệ thuật hình ảnh, ngôn ngữ mà người nước nào cũng hiểu được. Và đương nhiên chấp nhận đo giá trị sách bằng nghệ thuật nhiếp ảnh : cách nhìn, cảm xúc, diễn tả...
Xếp sách lại ta không khỏi băn khoăn tự hỏi phải chăng tác giả mải bôn ba đi thăm " hơn 700 ngôi chùa ", chụp " 20 000 pô ảnh " nên chỉ đủ thì giờ để thấu kính máy ảnh nháy những tấm carte postale đôi khi đẹp mắt mà chẳng mấy khi tĩnh tâm cho con tim nhìn thấu đến kích thước sâu xa hơn mặt ngoài ?
Nào đâu nghệ thuật người xưa ? Chẳng hạn như tài nghệ thể hiện trọn vẹn được niềm thanh thản của người đạt đạo trên nét mặt và trên toàn thân bức tượng la hán chùa Côn Sơn, chắp hai tay như thi lễ với người xem tượng, gương mặt tươi mà bình thản, cặp chân mày hơi nhướng lên cùng với nếp nhăn trên trán hiển hiện lòng ưu ái với người đứng trước tượng, với mọi chúng sinh ; đôi mắt nhắm : nhìn người và nhìn đời chẳng bằng đôi mắt thịt trần tục mà bằng cái nhìn trí tuệ... Những cảm xúc mà nghệ thuật nhiếp ảnh trầm mặc hơn của Lê Thành Khôi truyền được cho người xem.
Khi đã chán chường hàng loạt tượng xanh xanh đỏ đỏ, người đọc không khỏi thầm phục nhận xét của Tanizaki : cái ánh sáng trong không gian nửa sáng nửa tối các kiến trúc cổ của Nhật là một kích thước mà nghệ nhân xưa biết sử dụng thần tình. Chính trong ánh sáng mờ ảo đó mà bóng dáng cách điệu các bức tượng thếp vàng chợt loé lên chợt tắt đi, tạo cảm xúc linh thiêng huyền bí cho người chiêm ngưỡng. Và ta thấm thía lý do vì sao các vị Phật, các Bà Dâu, Bà Dàn, Bà Tướng nghìn xưa cổ kính bỗng trở nên trơ trẽn lạ, khi lộ liễu dưới ánh đèn néon, khi bị sunlight nhiếp ảnh phơi trần !
Về
một số hình
ảnh của Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long trong quyển Chùa
Việt Nam, 401 trang, Nxb Khoa Học Xã hội, 1993, những
nhận xét trên vẫn còn đúng. Nhưng
nơi đây còn có ảnh thu được nếp thanh
tịnh của cảnh chùa, diễn tả được không khí
ngày hội, và nhiều tấm về mặt tư liệu có
giá trị hơn của Võ Văn Tường. Chú thích
đầy đủ hơn, nhưng số lượng 34 ngôi chùa ít
hơn hẳn con số 171 trong Việt
Nam danh lam cổ tự.
Phần lớn giá trị quyển sách nằm ở bài Chùa Việt Nam của Hà Văn Tấn. Một cái nhìn bao quát toàn thể vấn đề. Phần đầu, Một cái nhìn chung, về kiến trúc, về bài trí tượng thờ, rõ ràng mà không sơ lược.
Phần hai, Chùa Việt Nam trong các thời kỳ lịch sử mang dấu ấn nhà sử học, vạch ra những nét phát triển của chùa chiền và Phật giáo Việt Nam theo dòng lịch sử, từ những buổi ban sơ khi "... đặt bàn thờ Phật vào các đền thờ Tứ Pháp, tức các đền thờ nữ thần nông nghiệp đã có từ trước. Và đến lượt, các nữ thần này được Phật hoá, trở thành các Phật Bà. ". Thành quả các công trình nghiên cứu suốt mấy chục năm nay, các dữ kiện khảo cổ mới phát hiện trong vòng hai mươi năm gần đây (như di chỉ Tháp Nhạn đời Tuỳ Đường ở Nghệ An, cột kinh ở Hoa Lư, di chỉ chùa Lấm đời Trần trên đảo Thừa Cống ở vịnh Bái Tử Long...) được cô đúc nên những nhận định, những giả thuyết, những câu hỏi xác đáng. Đặc sắc !
Phần cuối dành cho " ngôi chùa đang sống thật sự giữa các cộng đồng làng xã Việt Nam " . Lời văn còn được minh hoạ bằng những tấm ảnh chụp trong vòng ít năm gần đây. Người xem có cảm tưởng được hoà mình trong đám " Trẩy hội chùa Láng năm Nhâm Thân (1992) " ; tuy nhiên nhìn tấm "Ngày hội chùa Lim" (tr. 78) không khỏi thắc mắc: hội thật hay chỉ là văn công đóng trò ?
Toàn bài chiếm có 82 trang. Sách hay chẳng luận viết dài !
Nguyên Thắng
Các thao tác trên Tài liệu