Bạn đang ở: Trang chủ / Tài liệu / Báo cũ / Số 34 / “Làng - Họ”: những vấn đề của quá khứ và hiện tại

“Làng - Họ”: những vấn đề của quá khứ và hiện tại

- Trần Đình Hượu — published 14/04/2011 01:40, cập nhật lần cuối 12/05/2011 23:26

Làng - Họ”:
những vấn đề của quá khứ và hiện tại


Trần Đình Hượu *

 

Một trong những tổ chức chính trị - xã hội mang đặc sắc Việt Nam là tổ chức “Làng - Họ”. Trong lịch sử lâu dài, Làng - Họ đã là một chỗ dựa vững chắc cho người Việt Nam thích ứng với nền sản xuất lúa nước ở đồng bằng và đương đầu với những thử thách gay go của vùng đất nước nhiều bão lụt, thiên tai, của nạn ngoại xâm thường đe dọa ập tới. Việc lựa lọc làm cho làng định hình, ít khác nhau, ít thay đổi qua thời gian và không gian. Do đó, tổ chức Làng - Họ tạo ra trong cuộc sống những mẫu người, những cung cách làm ăn ứng xử, sống thành nếp. Ngày nay, khi tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quy mô rộng lớn, chúng ta phải xét duyệt lại các tổ chức cũ, những giá trị cũ, thẩm định lại khả năng thích ứng, hiện đại hoá để phù hợp với thực tế hiện nay và tương lai.

I. Làng - họ và làng nước

Hãy lùi lại mấy chục năm, từ trên đường quan khắp vùng đồng bằng, ta nhìn xuống cánh đồng sẽ thấy rải rác đến tận chân trời, những hòn đảo xanh um tùm. Mỗi hòn đảo tách biệt như vậy thường là một làng. Chung quanh làng thường có luỹ tre, có ao hồ bao bọc. Đường vào làng thường ngoằn ngèo, độc đạo, phải đi qua một cổng kiên cố rồi mới được vào làng. Cổng làng được xây bằng gạch hoặc có cánh cửa lim, hoặc ken bằng cành tre, mang ý nghĩa bố phòng, gây cho người ngoài một cảm giác ít thân thiện, không hiếu khách. Sau luỹ tre và cổng làng là những ngôi nhà thấp thoáng bí ẩn, con người núp trong đó. Sự kín đáo của làng làm cho người ở ngoài thấy nó lặng lẽ, bí ẩn và người ở trong thấy nó yên ổn, thanh bình. Ngày nay, tình hình nói chung đã khác trước: lũy tre nhiều chỗ đã bị chặt bỏ, nhân dân làm nhà mới ngoài cánh đồng, các làng nối vào nhau, ... Và bên trong làng, trường học, bệnh xá, nhà trẻ đưa lại một không khí rộn rịp. Dù vậy, chỉ nhìn qua, ta vẫn thấy làng là những cụm biệt lập và cảnh quan vẫn chưa phải đã bớt đơn sơ.

Cư dân nông nghiệp trồng lúa nước đã quen sống theo hộ gia đình nhỏ, quần tụ theo thân thuộc dòng máu và về sau được tổ chức thành họ. Trong họ có quan hệ anh em, chú bác và con cháu, thân thuộc, có tình nghĩa, có trách nhiệm với nhau, sống gắn bó với nhau. Trong đời sống của cộng đồng – họ cũng là một thứ cộng đồng nhỏ trong quan hệ với làng với nước, họ không thay thế hoàn toàn hộ gia đình, nhưng bộ máy quản lí làng – có khi cả chính quyền cấp trên – thường vận dụng quan hệ họ hàng để nắm dân, để tổ chức thực hiện lệ làng và phép nước. Làng đồng thời mang tính chất là một cộng đồng công xã, một đơn vị tổ chức nhà nước và một tổ hợp các họ. Làng không chỉ là một đơn vị hành chính mà là một tổ chức cộng đồng nhiều chức năng, tuy nhỏ nhưng tổ chức hoàn thiện, thích hợp với những yêu cầu của cuộc sống trước đây. Nó đáp ứng được những đòi hỏi của cuộc sống bình thường mà cũng có khả năng ứng phó với những tình huống khó khăn, như khi gặp thiên tai, giặc cướp ngoại xâm. Đặc điểm của làng là cuộc sống đóng kín, đóng kín đến mức làng thành một thế giới riêng, mọi người dân làng tự thấy đầy đủ, có thể dựa vào thiết chế của làng, tinh thần cộng đồng, tình nghĩa bà con xóm làng mà sống, không cần ra khỏi làng, không cần giao lưu. Và ai đi xa đến đâu khi trở về cũng phải rũ bỏ những cái của phương xa mà sống theo làng. Sự ổn định của làng dựa vào tính cộng đồng, tính đóng kín đó.

II. Con đường hiện đại hoá đất nước với tổ chức làng - họ

Thực ra làng - họ cũng đã thay đổi nhiều từ cuối thế kỉ XIX cho đến nay, thay đổi cả bên trong lẫn bên ngoài.

Những thay đổi chính trị, kinh tế xã hội và truyền bá văn hoá phương Tây của thực dân Pháp tác động mạnh mẽ đến đời sống cả nước, lúc đó vẫn là các làng xã phân tán. Gây tác động trực tiếp đến sự thay đổi làng xã là việc mở mang các thành phố, thị trấn buôn bán, mở các đường giao thông và bưu điện, hình thành thị trường chung, với vai trò chi phối kinh tế của đô thị. Cách cai trị thực dân cùng với bộ máy công chức thay bộ máy quan lại, trường Pháp - Việt thay nền giáo dục của thầy đồ Hán học, các phương tiện vật chất và tinh thần của phương Tây tràn vào, tạo ra một quang cảnh khác, cách sống khác, cách làm ăn khác. Những cái mới lạ đều tập trung ở thành phố, nhưng do tác động của kinh tế hàng hoá, của văn hoá thống trị và vai trò chỉ đạo của đô thị, nó cũng tràn vào bên trong luỹ tre làng. Trong các làng không đến nỗi khuất nẻo quá, người ta dùng xà phòng Tây, vải Tây, thắp đèn Hoa Kì, măng sông, nói vài tiếng Tây, đọc tiểu thuyết và trong đám đàn anh và con cháu họ cũng xuất hiện những con người học sống theo lối tân thời. Số người ra tỉnh để học hành, làm ăn và chơi bời nhiều dần. Cũng đã xuất hiện trên báo chí, trong văn học, những xu hướng lên tiếng đòi cải cách hương thôn (Nam phong, Tự lực văn đoàn, ...). Đó là một bước, bước đầu đòi hiện đại hoá làng xã.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một thay đổi thực sự lớn lao trong đời sống thôn xóm. Chính quyền cách mạng của nhân dân được thành lập, xoá bỏ mọi thiết chế phong kiến, tổ chức đoàn thể, ban hành Hiến pháp, thực hiện quyền nam nữ bình đẳng, tổ chức bầu cử phổ thông, ... làm cho cuộc sống nông thôn thay đổi hẳn. Tiếp đó, mấy chục năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Lấy tinh thần yêu nước và cách mạng cổ vũ nhân dân đã sẵn hồ hởi tin theo Đảng, chúng ta đã phát huy một cách tài tình tổ chức sẵn có và tinh thần truyền thống để kháng chiến. Những tổ chức làng - họ, tình làng, nghĩa xóm đã góp phần không nhỏ vào việc tổng động viên và giải quyết nhiều vấn đề khó khăn của cuộc kháng chiến, như bố trí trú quân, tiếp vận, lập làng chiến đấu, xây dựng lực lượng võ trang nhân dân và tiến hành chiến tranh nhân dân. Chúng ta đã thực hiện trong hai cuộc kháng chiến một sự tích thần kì: Một nước lạc hậu về mọi mặt được viện trợ về kĩ thuật hiện đại không nhiều, đánh thắng trong một cuộc chiến tranh cực kì hiện đại. Những chủ trương của địch phong toả, ném bom tàn phá xí nghiệp, thành phố, đường giao thông không có hiệu quả đánh gẫy xương sống tổ chức kháng chiến toàn dân và toàn quốc, trên cơ sở làng xã. Các làng xã hợp tác hoá, có tổ chức Đảng, đoàn thể, xây dựng dân quân và lập làng chiến đấu là hình thức tổ chức rất có hiệu quả, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của kháng chiến.

Làng – và cả họ nữa – trong tổ chức xã hội của ta, là cái có sẵn, hình thành lâu đời, không thể nghĩ chuyện xóa bỏ mà nghĩ cách vận dụng, cải tạo để sử dụng vì lợi ích hiện đại hoá, vì lợi ích xây dựng chủ nghĩa xã hội. Về mặt này, qua kinh nghiệm hơn ba mươi năm vừa qua, chúng ta không thu được thành công như trong việc vận dụng để kháng chiến. Tổ chức làng - họ của ta chứa đựng những cản trở cho việc triển khai xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có tháo gỡ đúng những chỗ đó mới tạo được cơ sở thích hợp để phát triển kinh tế văn hoá và tổ chức, quản lí xã hội trôi chảy.

Chúng ta thực tế bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội từ khi hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo công nghiệp, thương nghiệp, lấy người thoát li nông thôn xây dựng công nghiệp, thương nghiệp, nông trường quốc doanh, đào tạo cán bộ kĩ thuật và công nhân để xây dựng kinh tế trên cơ sở quyền sở hữu công cộng. Trong quá trình đó, nông thôn trải qua một cuộc thay đổi rất lớn. Làng xã được sắp xếp về địa vực và tổ chức chặt chẽ. Xã thành đơn vị cơ sở quản lí mọi mặt kinh tế chính trị, văn hoá giáo dục, xã hội. Có tác động đặc biệt sâu sắc là việc tổ chức hợp tác nông nghiệp xã, việc quản lí hộ khẩu, sắp xếp công ăn việc làm, quản lí sản xuất và kinh doanh. Đời sống ở các làng xã một số mặt được cải thiện hơn trước: mọi người đã có nhà cửa, quần áo chăn màn tốt hơn, ăn uống khá hơn, con cái được đi học và con cái ốm đau được chạy chữa, không còn cảnh cách biệt lớn giữa giàu nghèo như trước. Nhưng nhìn chung nông thôn vẫn còn cảnh xác xơ, và khép kín. Một phần là do hậu quả chiến tranh, một phần là do đường lối công hữu hoá, đưa người đi thoát li để phát triển kinh tế - quốc doanh và làm việc trong biên chế ở nông thôn thường chỉ còn người già và đàn bà, con trẻ, kinh tế gia đình suy sút hẳn. Trai tráng thoát li, vào biên chế ăn lương, nhưng không có khả năng giúp gia đình. Những người ở lại làng gia nhập hợp tác xã nông nghiệp, theo đội sản xuất điều động làm các công việc của hợp tác xã ăn chia theo công điểm. Sản xuất nặng nhọc, chi phí nhiều khoản tốn kém nên phần người trực tiếp lao động rất thấp, đã thế lại phụ thuộc vào đội trưởng, kế toán nên dễ bị bớt xén và ăn chia bất công. Trình độ học vấn chung cao hơn trước, nhiều người đã tốt nghiệp bậc trung học. Tin tức, tri thức khoa học và văn hoá cũng được báo chí và phương tiện thông tin khác đưa về làng xã nhưng chỉ đọng lại chung quanh cơ quan cấp xã mà không thâm nhập vào nhân dân. Hầu như tất cả chỉ có khả năng kiếm sống bằng trồng trọt và chăn nuôi, đã ít ngành nghề, công việc được chỉ huy, lại theo cường độ căng thẳng nên không có mấy ai có hứng thú, có nhu cầu học hỏi cái mới. Xã thành đơn vị tổ chức hoàn chỉnh, quản lí mọi mặt và tập trung vào sản xuất nông nghiệp, làm cho dân làng chán nản, muốn thoát li nhưng lại không có nhu cầu và cơ hội giao lưu rộng rãi. Cũng giống ngày xưa, tổ chức làng xã vừa qua còn chưa khắc phục được tính đóng kín và ngăn cản ảnh hưởng đô thị. Một hiện tượng đáng chú ý là, trong nông thôn những năm gần đây, xảy ra một quá trình tái sinh nhiều cái cũ. Đầu tiên là việc khôi phục họ hàng. Người ta quyên góp tiền làm giỗ, tế tổ, xây lăng mộ, làm nhà thờ, chép gia phả và đi nhận họ, ... Về mặt chính trị xã hội, một số cán bộ lợi dụng chức quyền kéo bè kéo cánh, làm oai làm phúc và khuynh loát nhau trở thành những tên cường hào và những phe cánh như trong cảnh hương thôn xưa. Họ cũng sai phái, hách dịch, cũng chiếm đoạt trắng trợn và đẩy một số đông chẳng có thế lực gì vào cảnh sống cam chịu, tránh né, tìm cách nương cậy bà con xóm giềng có lòng tốt như xưa. Cũng khôi phục lại cả những cảnh đình đám linh đình, phong tục hủ bại, mê tín nhảm nhí. Nông thôn chúng ta vốn không nhiều nghề, ruộng đất lại ít, ngân sách Nhà nước chủ yếu còn lấy từ nông nghiệp. Việc quốc hữu hoá ruộng đất và tổ chức sản xuất ở hợp tác không khác mấy việc cày công điền, sản xuất tự túc và cống nạp. Thuế suất cao, người cày ruộng bị gò bó, lại bị động, có khi phụ thuộc vào sự yêu ghét của cán bộ hợp tác xã. Việc công hữu hoá ruộng đất đưa đến tất cả mọi người vào hợp tác nông nghiệp và tập trung mọi chức năng vào bộ máy chính quyền xã làm cho môi trường khép kín và thúc đẩy con người trở lại với những cung cách sống làng - họ trước đây. Những tư tưởng xã hội chủ nghĩa, thiết chế dân chủ và luật pháp xã hội chủ nghĩa đều tiến hành hình thức. Mấy năm nay, nhất là từ Đại hội VI của Đảng, chúng ta đã thấy nhiều mặt tiêu cực, nhìn ra một số sai lầm và đề ra biện pháp khắc phục sửa chữa: thực hiện khoán, phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng giao lưu, phát triển thủ công, kinh tế vườn, khuyến khích tư nhân kinh doanh, cho đấu thầu ... Nhưng hình như chúng ta mới chỉ nhận thấy một mặt là chủ nghĩa xã hội được hiểu một cách sai lầm đã dẫn đến sự tiêu điều của làng xã, mà chưa nhận thấy một mặt khác là làng - xã hay làng - họ – nếu không được cải tạo và tổ chức một cách khác cũng dẫn đến chủ nghĩa xã hội của nông dân công xã. Nếu chủ nghĩa xã hội, hiểu là sở hữu công cộng với chính quyền chuyên chính vô sản chỉ huy cả kinh tế, sắp xếp cả công việc làm ăn cho từng người, lo từ chuyện tương cà mắm muối và xây dựng bằng cách xác lập quan hệ sản xuất, đã dẫn đến quan liêu bao cấp, đến trói buộc cả xã hội thì làng - họ, với nền sản xuất nông nghiệp tự túc và cống nạp, với tính cộng đồng, tính đóng kín của nó, cũng dẫn đến cách hiểu chủ nghĩa xã hội “trại lính” với bệnh địa phương, nạn phe phái, tệ cường hào.

Chủ nghĩa xã hội đối lập với chủ nghĩa tư bản về mục tiêu, về phương pháp xây dựng chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nhưng cũng là công việc hiện đại hoá thế giới theo sự chi phối của những dữ kiện có tính thời đại giống nhau, trong những công việc cụ thể, có tính thao tác kĩ thuật thường không khác nhau. Ở những nước kinh tế lạc hậu, văn hoá xã hội chưa phát triển mà lại xây dựng chủ nghĩa xã hội theo con đường phi tư bản chủ nghĩa như nước ta, việc xây dựng kinh tế cần kèm theo việc xây dựng cơ sở xã hội. Có đô thị hoá, xã hội hoá đất nước mới tiếp nhận được nền kinh tế, văn hoá và chính trị hiện đại. Một nước mà 70-80% là nông thôn, còn là những làng - họ quen với trật tự trên dưới, với cuộc sống cộng đồng, quen chờ đợi ở trên, quen nếp sống đóng kín thì không thể gia nhập cuộc sống hiện đại. Làng - họ, tự thân nó là đối nghịch với đô thị hoá, dân chủ hoá, xã hội hoá. Cho nên để triển khai xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cách nhìn của ta với làng - họ là cách nhìn theo con mắt hiện đại hoá, nhiều khi một phần nào đó là tiếp tục cách nhìn của thị dân trước Cách mạng tháng Tám, chứ không phải là tiếp tục cách ca tụng sự bền vững của tình làng nghĩa xóm, những bảo vật của truyền thống dân tộc, như cách nhìn thời kì giành chính quyền và kháng chiến.

Hiện đại hoá, khắc phục tình trạng lạc hậu nhất thiết phải bằng con đường công nghiệp hoá. Con đường đó trước đây thường kéo theo sự phá sản của nông thôn, sự thoát li của nông dân ra đô thị, sự bóc lột của công nghiệp với nông nghiệp, sự đối lập giữa thành thị và nông thôn. Nhưng ngày nay, với chủ trương công nghiệp hoá tại chỗ, rời nông nghiệp mà không rời làng xóm, phát triển kinh tế gia đình và dịch vụ, có thể hạn chế và tránh được hiện tượng nông thôn thành xác xơ đó. Tuy vậy làng xóm, nông thôn cũng không thể cứ là như cũ.

1) Trong làng xóm phải có nhiều ngành nghề, phải đưa kĩ thuật vào để rút lao động nông nghiệp sang dịch vụ và các ngành thủ công và gia công công nghiệp, giao ruộng đất cho nông dân làm ăn giỏi, giao diện tích đủ cho họ sản xuất.

2) Người dân trong làng xã phải là những người nông dân, những cá nhân tự do, tự lựa chọn, năng động thích ứng với sự đa dạng. Họ tự nguyện hợp tác với người khác chứ không phải dựa vào tập thể, làm việc theo sự chỉ huy.

3) Làng xã không phải là đóng kín mà giao lưu rộng rãi. Không những cái mới được đưa vào làng mà người làng cũng cần được đưa tiếp xúc với cái mới, thường là tập trung ở đô thị (thông tin văn hoá, khoa học kĩ thuật, ...). Văn hoá đô thị mà đặc tính là tự do và dân chủ là chất kích thích làm thay đổi con người của làng. Khi nói đến xây dựng con người mới, ta thường nhấn mạnh yêu nước, giác ngộ chủ nghĩa xã hội, học hỏi khoa học kĩ thuật, biết vì mọi người, dám nghĩ dám làm, sáng tạo, kỉ luật, ... Nhưng để là những con người như thế, trước hết nó là “con người”, phải là những cá nhân, những công dân có nhân cách độc lập, tự lập, có trách nhiệm và chịu trách nhiệm. Đòi hỏi ngày nay phù hợp với công cuộc đòi hỏi đổi mới tư duy, đối với con người mới ở làng xã là tính năng động, sự chủ động và tinh thần hợp tác, nói cách khác cũng là khắc phục tính tập thể cũ, ỷ lại, dựa dẫm. Theo đòi hỏi đó, chúng ta cũng phải xoá bỏ những người tự cho là giác ngộ hơn quần chúng, giống như những nhà Nho xưa, tự coi mình là người “tiên tri, tiên giác”, tự coi mình có quyền làm thầy, làm cha mẹ dân, kể công kể ơn và thành loại quan, thân và hào cường khống chế đời sống thôn xóm; xoá bỏ loại người “hiểu biết” cóp nhặt đây đó mọi chuyện mới lạ đủ thứ nào chính trị, nào khoa học và đem khoe mẽ vung vãi vốn am hiểu bên ấm chè, chén rượu. Theo đòi hỏi đó, chúng ta cũng phải xoá bỏ những người dân thấp cổ, bé họng, tiểu kỉ và cam chịu. Thay đổi theo hướng như vậy, chắc không tránh khỏi làm phai nhạt bớt phần tình làng nghĩa xóm, vốn xây dựng trên cơ sở trật tự trên dưới, trong họ ngoài làng. Chúng ta nên duy trì và phát huy tình nghĩa họ hàng, xóm giềng, làng xóm – những di sản tốt đẹp trong truyền thống – nhưng phải đặt trên cơ sở đời sống xã hội bình đẳng tuân theo pháp luật, không để quan hệ đồng tông, đồng hương thành chỗ dựa dẫm, gây phe cánh móc ngoặc.

Vấn đề có ý nghĩa bao quát ở đây là chúng ta nên xây dựng xã như thế nào? Xã có vị trí, chức năng như thế nào trong đời sống hiện đại, trên lãnh thổ thống nhất và theo thể chế tập trung dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chắc chắn xã sẽ là đơn vị cơ sở về địa vực. Nhưng trước đây, do ta quan niệm việc quản lí mọi mặt công việc thuộc về Đảng và chính quyền chuyên chính vô sản nên ở cơ sở ta tập trung mọi đầu mối vào Đảng uỷ và Uỷ ban, và mọi hoạt động đều có phân chức trách quản lí hay tham gia ý kiến của cơ sở. Ở xã hầu như các ngành, các đoàn thể, cho đến chiếu phim, đá bóng cũng hỏi ý kiến, chờ quyết định, có khi là chỉ đạo cụ thể của Đảng uỷ và ủy ban. Công việc bề bộn và bộ máy rất cồng kềnh. Sự tập trung như vậy làm cho các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội, ít ràng buộc theo địa vực thành ra bị trói buộc. Cách dùng bộ máy nhà nước để chỉ huy công tác và phân bổ về xã làm cho hoạt động trong xã hội thành đồng loạt và đơn điệu, không phát huy được sự sáng tạo, hành động tự nguyện, tự giác, tự quản có tính xã hội, tính quần chúng. Phải chăng chúng ta nên coi xã chỉ là một đơn vị hành chính chấp hành pháp luật, còn các hoạt động kinh tế, văn hoá xã hội thì xã hội hoá và để không hoàn toàn bị ràng buộc về địa vực?

Một khó khăn rất lớn cho nông thôn hiện nay là giao thông, bưu điện kém phát triển, cản trở nghiêm trọng chủ trương mở rộng giao lưu và phát triển kinh tế hàng hoá.

Xã ngày nay không thể là một làng - họ cộng đồng và đóng kín, ranh giới quá biệt lập với chung quanh. Trước đây, tượng trưng cho mỗi làng là ngôi đình. Ngày nay, hầu như nó được thay thế bằng trụ sở uỷ ban: một bên là biểu tượng của cộng đồng và một bên là biểu tượng của chính quyền. Nhưng phải chăng trong cuộc sống phong phú và rộng mở của chủ nghĩa xã hội, chúng ta nên làm cho mỗi làng xã có một biểu tượng có màu sắc văn hoá hơn, như một nơi danh thắng, một nhà bảo tàng, một sân vận động, một câu lạc bộ chẳng hạn?

Vấn đề làng xã không chỉ đóng khung trong làng xã. Tổ chức kiểu làng xã, con người của làng xã, cách sống làng xã, cách làm việc làng... đã ảnh hưởng đến tư tưởng, văn hoá, chung. Cho nên giải quyết vấn đề làng xã không chỉ là tổ chức lại làng xã, tổ chức lại nông thôn mà còn phải nghĩ đến những hậu quả “làng xã” rộng hơn, ngoài làng xã nữa.


Trần Đình Hượu 

(tháng 5.1989)

(trích Đến hiện đại từ truyền thống,
Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX-07,
Hà Nội 1994)

 

* Giáo sư, Trường Đại học tổng hợp Hà Nội

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
VIETNAM, DEUX DOCUMENTAIRES sur France 2 et France 5 05/03/2024 - 01/06/2024 — France 2 et France 5
Repas solidaire du Comité de soutien à Tran To Nga 22/03/2024 - 26/04/2024 — Foyer Vietnam, 80 rue Monge, 75005 Paris, Métro Place Monge
Nouvel Obs, soirée Indochine, la colonisation oubliée 25/04/2024 18:30 - 22:00 — 67 av. Pierre Mendès France, 75013 Paris
France-Vietnam : un portail entre les cultures 17/05/2024 10:00 - 11:30 — via Zoom
Ciné-club YDA: Bố già / Papa, pardon. 25/05/2024 16:00 - 18:15 — cinéma le Grand Action, 5 rue des Ecoles, 75005 Paris
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us
Kênh RSS
Giới thiệu Diễn Đàn Forum  

Để bạn đọc tiện theo dõi các tin mới, Diễn Đàn Forum cung cấp danh mục tin RSS :

www.diendan.org/DDF-cac-bai-moi/rss