Dải yếm trong văn học
Dải yếm trong văn học
Đặng Tiến
Thơ Tết, thơ Xuân thường là ước lệ. Nhưng qua những ước lệ chúng ta có được nhiều câu thơ hay, và hay về nhiều mặt: nghệ thuật, tâm cảm và phong tục. Trên ba kích thước ấy, có lẽ Nguyễn Bính là người lưu lại nhiều thơ Tết, thơ Xuân hay nhất, từ tâm sự tha hương đến hình ảnh mùa xuân đất nước hay ngày Tết dân tộc:
Trên đường cát mịn
một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô
1937, Tâm hồn tôi
Bài dưới đây ghi lại hình ảnh dải yếm, trong y phục phụ nữ Việt Nam ngày xưa, sau này ít người dùng và nhớ đến. Yếm là mảnh áo lót, che phần ngực bụng, hình quạt, có hai cặp dây buộc phía sau cổ và eo lưng. Tấm yếm gắn bó mật thiết với thân xác và nhan sắc người đàn bà, vừa khêu gợi vừa gìn giữ, phô bày và che đậy. Dải yếm nằm trong biện chứng kín và hở, khoe và che. Khi đọc nhan đề một tiểu thuyết Khi chiếc yếm rơi xuống, người ta có ngay một thành kiến – và thành kiến sai, vì trong tác phẩm (1939) Trương Tửu chỉ tố cáo những bất công và tệ đoan xã hội đưa người con gái đến nghề buôn hương bán phấn.
Trong Kiều, đoạn Thuý Kiều khuyên Thúc Sinh về quê thú thật với Hoạn Thư mối tình cát luỹ giữa hai người:
Dễ loà yếm
thắm trôn kim
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng
Hai câu đều mượn ý tục ngữ: cái yếm đỏ thắm dù lộ liễu có khi người đời không để ý, còn trôn kim, tuy nhỏ bé, nhưng cố ý bới tìm vẫn thấy. Trong Kiều câu này nghĩa rộng hơn: dễ gì giấu được dài lâu mọi chuyện dù lớn dù nhỏ. Cũng có thể hiểu yếm thắm trôn kim là hai hình ảnh đối lập Hoạn Thư với Thuý Kiều.
Trong thơ cổ điển, Hồ Xuân Hương đã tả dải yếm đào trong bức tranh thiếu nữ khêu gợi và thanh tú:
Lược
trúc biếng cài trên mái tóc
Yếm
đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò bồng đảo hương còn
ngậm,
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Ca dao có những lời tình tứ:
Ước gì sông hẹp
bằng gang
Bắc cầu trải
yếm cho chàng
sang chơi
Người con gái táo bạo, lẳng lơ, nhưng vẫn dè dặt vì chỉ nói lời ngông nghênh dựa vào dự tưởng. Câu ca dao này còn một thoại khác. Khởi đầu là lời người con trai huê tình nhưng từ tốn:
Gần đây mà chẳng
sang chơi
Để anh
ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu
Người con gái bạo dạn, chanh chua hơn, trả lời ngay:
Mồng tơi chẳng bắc được
cầu
Để
em trải yếm bắc cầu anh sang
Câu đáp đằm thắm, sắc sảo, ý trách người con trai tán tỉnh vẩn vơ: là đàn ông, anh phải đến với em, chứ sao lại bắt em sang, mà lại còn trách cứ “chẳng sang chơi”. Vả lại tình cảm của anh chỉ mong manh như ngọn mồng tơi thì... yếu quá. Chúng ta cũng có thể mường tượng một cảnh đối đáp khác:
Đôi ta cách một con
sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang
Ước gì sông hẹp bằng gang
Bắc cầu trải yếm cho chàng sang chơi
Đến câu đối đáp này mới thần tình:
– Bông cúc vàng
nở ra bông cúc tím (a)
Em lấy chồng rồi trả yếm lại anh (b)
– Bông cúc vàng
nở ra bông cúc xanh (a’
)
Yếm em em mặc, yếm gì anh anh đòi?
(b’)
Chuyện tặng yếm, đòi yếm, trong thực tế, chỉ là chuyện dự tưởng, làm nền cho lời hát huê tình thêm thi vị và sắc sảo. Chúng ta thử sống lại dự tưởng đó. Khi tặng yếm cho nhau thì quan hệ giũa hai người đã đến độ mật thiết lắm. Tặng nhau chiếc yếm là đã đi sâu vào đời nhau. Khi đòi yếm lại, chủ yếu người con trai không phải là thu lại một vật sở hữu – tình đã cho không lấy lại bao giờ – như lời thơ Xuân Diệu. Chàng chỉ nhắc lại “tình mới đã thành xưa” để trách cứ nàng thay lòng đổi dạ. Lời trách có cơ sở, ít nhất về mặt chủ quan người nói, nhưng gặp phản ứng tài tình và chính đáng của cô gái, về hai khía cạnh: cô gạt phăng, gạt thẳng thừng và đanh đá chuyện đòi yếm, bản thân nó nhảm nhí (b, b’). Về chữ thuỷ chung, câu đáp tuyệt vời vì nó khẳng định tự do người phụ nữ: lấy ai và yêu ai là quyền của em. Thậm chí cỏ cây còn có khi thoát khỏi quy luật tất yếu (nécessité) đi vào cõi ngẫu nhiên (contingence) nói chi đến con người có lựa chọn. Bản chất nhân tính vốn tự do. Chàng trai trách, lời ẩn dụ văn hoa và chua chát:
Bông cúc vàng nở ra bông cúc tím (a)
Cô gái sử dụng lại ngay ẩn dụ ấy và quay ngược mũi kim:
Bông cúc vàng nở ra bông cúc xanh (a’)
Lời trách (a) có phần nào hiện thực: bông cúc có khi vàng, khi tím. Lời đáp ương ngạnh đanh đá, vì làm gì có màu cúc xanh (a’). Mà bông cúc vàng dù có nở thành màu xanh, thì là quyền của bông cúc, việc gì đến anh? Cũng như lấy ai, yêu ai là quyền của em. Câu thơ thật hay, đã giàu màu sắc, màu sắc lại đậm đà ý nghĩa. Lời ví von, nhưng giản dị, gây ngay ấn tượng sâu xa. Cảm giác đầu tiên là sự dí dỏm, pha chút lẳng lơ chung quanh hình ảnh chiếc yếm, nhưng sau đó, người nghe suy nghĩ xa hơn: từ câu chuyện đòi yếm có tính cách tượng trưng, đến chuyện chung thuỷ thuỷ chung vốn phức tạp – “ lạc từ cái ý chung tình lạc đi” như lời Nguyễn Bính – đến quyền sống của người phụ nữ trong một xã hội khe khắt với người đàn bà, và cuối cùng là tự do, tình yêu, hạnh phúc và định mệnh con người nói chung – giữa một trần gian dạt dào hương sắc, nhưng phôi pha và bất trắc.
Ba cô đội gạo lên
chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư
về sư ốm tương tư
ốm lăn
ốm lóc cho sư trọc đầu.
Gắn bó với bộ ngực, phần nữ tính lộ liễu nhất, tấm yếm vừa che vừa khoe; trong y phục cổ truyền, yếm là trang sức nhiều màu sắc, cùng với dải thắt lưng.
Yếm thắm bỏ bùa... Thật sự, biết đâu dải yếm, bản thân nó, chẳng đã là tấm bùa mê, vừa hộ mệnh, vừa đoạt mệnh.
Một thương tóc bỏ
đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Tấm bùa thì lấy gì làm đẹp? Sở dĩ mê tấm bùa vì mê cổ yếm. Và không có thứ bùa ngải nào mê hoặc con người hơn nhan sắc cô gái – điển hình là chiếc yếm, ngày xưa chắc phải rực rỡ lắm:
Dưới mặt nước chói
loà yếm đỏ
Trên bầu trời rạng tỏ mây xanh
Từ ngày chia rẽ
em anh
Nước trời còn đó, ai đành phụ nhau
Báo Kiến thức ngày nay, số Xuân năm ngoái (1994) có đoạn viết hay về tấm yếm: “Ở chừng mực nào đó, chiếc yếm thể hiện được bản sắc văn minh Việt Nam: kín đáo, đạo đức nhưng cũng rất gợi cảm. Đối với cô gái trẻ, chiếc yếm dùng để che bộ ngực thanh xuân bát ngát, làm giảm đi tính cách khiêu khích của phái tính nhưng đồng thời vẫn nói lên một thứ ngôn ngữ lãng mạn của niềm tự hào về phái tính. Đó là chiếc yếm được may với những màu sắc tươi đẹp : màu hồng của hoa đào, màu xanh lục của lá non, màu xanh phỉ thuý của ngọc, màu trắng của bình minh nhan sắc. Chiếc yếm ấy được mặc trong cái áo tứ thân và vào những dịp quan trọng, những ngày lễ hội (...). Mùa xuân chiếc yếm thắm tạo màu sắc tưng bừng trên khắp nẻo đường quê. Những ngày hội làng, những đêm hát chèo, hát bội; chiếc yếm thắm rộn ràng những cuộc gặp gỡ, xôn xao những xúc động tình yêu và long lanh những lời hò hẹn” (Lam Điền, tr.70).
Tác giả bài báo giàu rung cảm và tưởng tượng, đã dẫn chứng nhiều thơ – tiếc rằng câu nào ông trích cũng sai.
Yếm thắm, yếm đào là dư vang những ngày hội thuở xưa, như ta còn thấy trong một bài thơ đúm, trong lối hát quan họ:
Sớm đi chơi hội
Tối
về quay tơ
Dải yếm phất phơ
Miếng trầu, mồi thuốc
Miếng ăn, miếng buộc
Miếng gói đầu giường
Muốn tìm người thương
Tìm đâu cho thấy
Những lời tình nồng nàn, thiết tha như vậy trong văn chương xưa nay không phải là nhiều.
Dải yếm, cùng với y phục cổ truyền đã lùi dần vào dĩ vãng trước làn sóng văn minh phương Tây. Thời trang mới, y phục mới, cho đến tình đời cũng đổi thay. Trong Thơ Mới, hình ảnh chiếc yếm ít xuất hiện. Nguyễn Nhược Pháp có ghi lại, cũng chỉ để gìn giữ một kỷ niệm về dân tộc học, qua Ký sự một cô bé ngày xưa:
Khăn nhỏ, đuôi gà cao
Em đeo dải yếm đào
Quần lĩnh áo the mới
Tay cầm nón quai thao
(Ngày Xưa, 1935)
Anh Thơ, trong thi phẩm, đã ghi lại nhiều hình ảnh nông thôn. Dù được thi vị hoá, phong cảnh của Anh Thơ vẫn giữ được nét bình dị của Bức tranh quê (1941):
Trong đồng lúa xanh
rờn và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra
Làm giật mình một cô
nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa
Những cô thôn nữ vùng Bắc Giang, khi cuốc đất, có mặc yếm thắm hay không, tôi không biết. Cỏ ruộng có ra hoa hay không, tôi không rõ. Nhưng cứ tưởng tượng dải yếm đào giữa hoa đồng cỏ nội, là đã thích. Cũng như cảnh chợ Tết, không biết có “tưng bừng” như trong thơ Đoàn Văn Cừ:
Họ vui vẻ kéo hàng
trên cỏ biếc
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon
Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm
mẹ
Đoạn thơ nhắc lại hai loại yếm: dải yếm sặc sỡ trang sức của tuổi trẻ, và tấm yếm không màu – chắc là yếm sồi, nhuộm nâu hay đen, của người mẹ, thầm lặng, kín đáo. Ông Lam Điền, trong bài báo đã dẫn cũng có nhắc đến chiếc yếm này, phổ biến trong toàn quốc: “Tôi nhớ mãi hình ảnh bốn mươi năm về trước, dưới luỹ tre của làng Bàn Thạch nằm cuối hạ lưu sông Thu (Quảng Nam). Mẹ tôi mặc chiếc quần vải tám đen, phía trên mặc chiếc yếm nâu lam lũ, đang khâu vá hoặc đang lặt rau, chẻ củi (...) Tôi và bao nhiêu người trạc tuổi tôi đã lớn lên từ những dòng sữa ngọt, tự nhiên phía sau những chiếc yếm”. Viết được một đoạn như vậy, Lam Điền là người có tình có nghĩa.
Tả Đám cưới ngày xuân, Đoàn Văn Cừ ghi lại hình ảnh tươi sáng:
Hai má thắm, ngây
thơ
nhìn trời biếc
Dăm bảy cô phủ mình trong những chiếc
áo đồng lầm, yếm đỏ, thắt lưng xanh
Đồng lầm là một màu áo, màu đồng xám như có nhuộm bùn (lầm); tác giả sử dụng màu này là để giữ lại một màu sắc nông thôn, cũng như Nguyễn Bính đã ghi lại màu yếm đỏ khăn thâm trong Tâm hồn tôi.
Chân quê, trong thi tập đầu tay này, là một trong những bài thơ sớm nhất và nổi tiếng nhất của Nguyễn Bính mô tả buổi giao thời giữa hai nền văn minh cũ và mới, và niềm u hoài tuyệt vọng của nhà thơ trước cảnh vật đổi sao dời.
Nào đâu cái yếm lụa
sồi
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân
?
Nào đâu cái áo tứ thân
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen...
Rồi Nguyễn Bính xa xôi, mát mẻ:
Hoa chanh nở ở vườn
chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng cỏ nội bay đi ít nhiều
1936, Tâm
hồn tôi
(Tuyển tập, bản Hà Nội và Hà Nam Ninh 1986)
Nhà thơ không cưỡng lại được một trào lưu văn minh đang ngày một ngày hai chiếm lĩnh cả toàn cầu, nhưng niềm u hoài đã tạo ra được những lời thơ đẹp nhất, cay đắng và nhẫn nhục như hương hoa chanh mong manh và bền bỉ, thầm lặng và thiết tha, dịu dàng mà quyến rũ trong một thoáng ca dao:
Cây chanh lại nở
hoa chanh
Để con bướm trắng bay quanh cả
ngày
Mùi hương đơn giản, từ những loại cây vườn tầm thường, dung dị, nhưng chiếm mãi một không gian trong đời mình: hoa bưởi, hoa cau, hoa khế, hoa mù u. Có lẽ vì đời mình chỉ là một mảnh vườn quê, hoang sơ, khuya khoắt.
Thời kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Bính lưu lạc ở Nam Bộ, chiến đấu và sống lăn lóc khắp mọi miền. Sau này, thơ ông mang nhiều hình ảnh tổng hợp của đất nước, nhưng kỷ niệm cái yếm sồi của tuổi thơ vẫn ám ảnh
Sông đỏ phù sa
, nước lớn
rồi
Nhà bè khói bếp lững lờ trôi
Đường mòn rộn bước chân về chợ
Vú sữa đầy căng mặt yếm sồi
Chiều thu, 1957 (?)
Nguyễn Bính gắn bó với cái Tết dân tộc cho đến tận cùng số mệnh. Ông mất ngày ba mươi Tết (ngày giáp năm Ất Tỵ, 20.1.1966). Bài thơ quê hương ca ngợi đất nước từ Lạng Sơn đến Cà Mau:
Quê hương tôi có
sầu riêng măng cụt
Lòng bưởi đào, lòng gấc đỏ như son
Có gạo tám xoan thổi nồi đồng điếu
Cam Xã Đoài ai bóc cũng thơm ngon
Quê hương tôi có những người con gái
“Một ngày hai bữa cơm đèn”
Cách sông cái cũng bắc cầu giải yếm
Cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên
Bài thơ được ghi làm cho dịp Tết Bính ngọ 1966 phải chăng là tác phẩm cuối cùng của Nguyễn Bính, làm cho một ngày xuân mà ông không kịp hưởng:
Năm mới tháng giêng
mồng một Tết
Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân
(Nhạc Xuân)
Dải yếm thắm trong Thơ Mới, cuối cùng chỉ phảng phất âm hao xa vắng của những hương nhạt màu phai. Phải đợi đến thơ Hoàng Cầm thì dải yếm, ngoài giá trị hoài niệm, mới đạt tới chức năng thẩm mỹ, và động lực tạo hình, diễn đạt và cấu trúc:
Bao giờ
về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cuối mê ánh sánh muôn lòng xuân
xanh
(1948)
Hình ảnh dải yếm, bắt đầu cũng chỉ là một kỷ niệm, giữa rất nhiều kỷ niệm:
Những
nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây gi
ờ đi đâu? Về đâu?
Nhưng “yếm thắm” ở cuối bài thơ Bên kia sông Đuống là một hình ảnh tổng hợp toàn thể thanh sắc bài thơ. Giá trị gợi tình của dải yếm, ta đã thấy rồi, không cần nhắc. Chỉ nên lưu ý giá trị thẩm mỹ của từ yếm, làm bằng một âm đầu (y) dài và khép, một nguyên âm đôi (yê) dài và rộng và một phụ âm cuối (m) môi, dài. Mỗi âm vị như vậy đều có giá trị gợi tình; nói đơn giản: trong những chữ yêu em, âu yếm, yên ấm, êm ái... ta đều thấy phất phơ bóng dáng và âm vang chữ yếm (ngày nay vật dụng tương đương với dải yếm được gọi là xú cheng, hương đồng gió nội đã bay đi nhiều lắm). Câu thơ Hoàng Cầm Em mặc yếm thắm, mỗi từ đều có chữ m đọc thành em. Về từ vựng, tiếng Việt chỉ có hai chữ yếm: y phục phục nữ, nới rộng ra thành hình tượng yếm cua, yếm rùa...; và chữ yếm trong nghĩa âu yếm. Nói thêm về nguyên âm đầu (voyelle initiale) thường tạo cho câu thơ cảm giác dịu dàng, mềm mại:
– Ái ân bờ cỏ ôm chân trúc
(Thế Lữ)
– Trời
mưa ướt bụi ướt bờ
Ướt cây ướt lá ai ngờ ướt em
–
Yêu anh thịt nát xương mòn
Yêu anh đến thác vẫn còn yêu anh
(ca dao)
Ngày xưa nhà thơ Đông Hồ có nhà xuất bản tên là Yễm Yễm, có lẽ vì hình ảnh về thính giác lẫn thị giác của từ ngữ.
Hoàng Cầm vừa mới xuất bản tập thơ Về Kinh Bắc bị dìm 35 năm nay. Chỉ trong tập thơ mới này thôi, chúng ta đã tìm thấy nhiều hình tượng đẹp về dải yếm, từ người mẹ:
Mùa chưa về
Tu hú gọi Em đi tìm Mẹ
Dãy tre xa giấu biệt dải khăn điều
Khi gậy nắng ăn mày đã quăng sau núi
Hàng
tre nhả yếm
trả Mẹ về
lều dột đón mưa đêm
... Bao giờ mẹ về
Buổi yếm đào phai vỗ hát ru
(Đợi Mùa)
Cho đến dải yếm “gợn xuân tình trên bộ ngực thanh tân” (Đinh Hùng) của những ngày hội:
Luồn tay ôm say
giấc bay lay đỉnh núi
Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
(Thi đánh đu)
Gái Tam Sơn đờ đẫn
môi trầu
Ngực yếm phập phồng bưởi
ngọt
(Hội vật)
Đến lúc nào đó trong sáng tạo, cái yếm mất tính chất hiện thực của nó, trở thành một hình tượng nghệ thuật có chức năng cấu tứ – như một số điển cố trong thơ xưa:
Chùa Phật Tích ruỗi
trong màn lụa bạch
Chuông chiều cởi yếm
Chuông sớ
m đội khăn
Trưa hè gãy rắc cành hoa đại
Mái hậu cung bồ các tha rơm
Liều điếu vỗ hoa soan lả tả
Lụa sồng nén nghẹn búp thanh xuân
(Đêm thuỷ)
Nhưng chức năng cấu trúc (fonction structurante) của hình ảnh dải yếm trong thơ Hoàng Cầm rõ nhất trong bài Hội yếm bay ở tập Lá Diêu bông (1993). Giữa hàng chục đám hội hè trên quê hương Kinh Bắc, Hoàng Cầm tưởng tượng thêm “huyền sử”, một lễ hội các nàng hoa khôi phải... tung yếm:
Đã phanh
yếm mỏng thì quăng hết
Những nếp xiêm hờ giả bộ ngây
Thủ bút của nhà thơ Hoàng Cầm
Chúng tôi cho đăng nguyên văn bài thơ có bổ sung và sửa chữa theo ý Hoàng Cầm, theo lá thư anh viết cho tôi ngày sinh nhật của anh: 12 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1922), đúng ngày mở hội Quan họ (viết bài này cũng để mừng thọ Hoàng Cầm).
Vị trí ưu đãi của dải yếm trong thơ Hoàng Cầm là một biệt lệ, có thể là duy nhất trong thơ Việt Nam, vì bản thân thơ Hoàng Cầm đã mang sắc thái đặc biệt, một định mệnh lẻ loi. Ngày nay, trong thơ hiện đại – và đời sống – ta không còn thấy chiếc yếm, ngoài ký ức những nhà thơ cao tuổi như Đặng Đình Hưng (thân phụ nhạc sĩ Đặng Thái Sơn):
Bến lạ ngay gầm jường mưa to ngay ở gầm bàn và trong hòm mọi người chở một con tàu navir trọng tải những hình thù Hồng Hải, căng lên những cái yếm mùi nồng của đám cưới năm ngoái hong ra khoe và đã đi – những cột đèn đứng lại
(Bến lạ)
Ngày xưa Tế Hanh đã so sánh “cánh buồm giăng to như mảnh hồn làng”, ngày nay những cơn gió xa lộng vào dải yếm. Gần đây nhà thơ Trần Hồng Châu (bút danh Nguyễn Khắc Hoạch, cựu khoa trưởng trường Văn khoa Sài gòn), trong một thi tập xuất bản tại Mỹ, có câu:
Em là con gái mười
thương
Yếm đào một dải mấy đường nhỏ thon
Thắt
lưng hoa lý càng son
Bốn thân áo đẹp gạch non nhuộm màu
(Ước gì sông rộng một gang
,
trong Nửa khuya giấy trắng,
1992, tr. 106)
Và cùng trong một tập thơ ấy, ta lại được đọc:
Tôi lăn mình trên cỏ xanh non
Miệng ngậm nửa vành hoa tường vi
Ôi màu tím nhạt cyclamen của
những quầng
mắt bài thơ
Của áo ngủ Valisère rung rinh
thuỷ triều trên
mình em đại lục hoang vu...
(Giới hạn, s.đ.d., tr. 92)
Thơ, ý thơ và lời thơ cốt lõi ở tự do, xoáy sâu vào thời gian nhưng cũng trải rộng ra không gian. Đã đành là vậy, cuộc đời là vậy, nhưng chúng ta vẫn ái ngại cho tâm tình một Nguyễn Bính ngày xưa, khi cô gái “đi tỉnh về”:
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm
. Em làm khổ
tôi
Thị thành bôi nhọ em rồi
Nào đâu cái yếm mua hồi sang xuân
Mấy câu này là nguyên bản bài Chân quê (1937) trong tập Tâm hồn tôi, do nhà Lê Cường in năm 1940. Những bản in sau này đã thay lời đổi ý. Giấy trắng mực đen, ngày một ngày hai, còn thay đen đổi trắng, trách cứ chi cô gái quê chỉ mới ngấp nghé xài... khuy bấm.
Chuyện cái yếm là cuộc rong chơi dông dài ngày Tết, không nên lấy làm đề tài văn hoá, văn chương hệ trọng.
Tết Ất Hợi
Đặng Tiến
16.1.1995
Các thao tác trên Tài liệu