Bạn đang ở: Trang chủ / Tài liệu / Báo cũ / Số 43 / Lê Đạt và Bóng Chữ - 2

Lê Đạt và Bóng Chữ - 2

- Đặng Tiến — published 22/04/2008 15:15, cập nhật lần cuối 22/04/2008 12:44
Thơ Lê Đạt tinh nghịch, tinh quái, có khi còn quỷ quái. Nét u mặc (humour) là đặc sắc trong từ vựng Lê Đạt, phản ánh nếp suy nghĩ và phong cách sống của tác giả. Nhiều người thích thơ Lê Đạt vì nét phúng thế, nhưng cũng vì đặc điểm này mà nhiều người không thích, thậm chí căm ghét, nhất là về phía trường phái chậm hiểu.


Lê Đạt và Bóng Chữ


Đặng Tiến


J'ai reculé les limites du cri
Paul Eluard, 1940


II. Vườn thức một mùi hoa

ledat001

 
Thơ Lê Đạt tân kỳ, vẫn giàu màu sắc dân tộc. Mới đây, trong tham luận tại Đại Hội Nhà Văn (3-1995), anh đã nói : “ Truyền thống và hiện đại không phải là hai khái niệm riêng lẻ (...) Một nền văn hoá đích thực, sống động bao giờ cũng bao gồm cả hai mặt truyền thống và hiện đại ” (Báo Văn Nghệ, 1-4-1995).

Ngày nay nông thôn Việt Nam không còn cảnh “ múc ánh trăng vàng đổ đi ” nữa, mà sống nhờ kỹ thuật thuỷ lợi. Nhưng hồn thơ Lê Đạt vẫn phất phơ truyền thống:

Một đàn ngày trắng phau phau
Bì bạch bờ xoan nước mát
Mộng hoa dâu lum lúm má sông đào

(Thuỷ Lợi, tr. 21)

Một đàn ngày trắng ” là một hình ảnh táo bạo nhắc đến đàn “ cò trắng bay tung ” trong dân ca. Hai chữ phau phau nhắc lại bài Dệt Cửi của Hồ Xuân Hương : “ Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau ”, từ đó mới nảy chữ bì bạch tả những bàn chân lội nước, nhưng lại gợi ý “ da trắng vỗ bì bạch ” trong giai thoại về văn chương nữ giới. Câu cuối, nhất là chữ “ dâu ” bất ngờ và bất thường nhắc đến thơ Hàn Mạc Tử : “ Mát tê đi như da thịt nàng dâu ”, và cả một đoạn thơ dài “ vô tình để gió hôn lên má ”, có lẽ Hàn Mạc Tử đã dựa vào câu thơ của Tản Đà, mà nhiều người xem như là ca dao :

Đêm khuya gió lọt song đào
Chồng ta đi vắng gió vào làm chi

Ngày xưa, làm bài Đêm Thu Nghe Quạ Kêu, Quách Tấn đã bị Vũ Ngọc Phan trách là dùng điển cố cầu kỳ. Ngày nay, Lê Đạt có khi còn khó hiểu hơn, vì hệ thống điển cố của ông phức tạp hơn. Thỉnh thoảng mới thoáng một âm hao quen thuộc, nhưng lại tan biến ngay giữa những hình ảnh mới lạ :

Rừng buồn bứt lá chim chim
Hỏi sim sim tím
                 hỏi bìm bìm leo
Chiều gió cả
                 tiếng ngàn xưa khản lá
Thảm vàng khô
                 ai hoá những thư già

(Cỏ Lú, tr. 125)

Thơ Lê Đạt phức tạp vì chính con người anh sống thường xuyên trong sự giằng co giữa cũ và mới, nửa tỉnh nửa quê, một tâm hồn luôn luôn phập phồng một vị riềng quê (Ông Cụ Nguồn, tr.67) hay thoáng cà cuống chưa đóng lọ (Quá Trình Công Tác, tr. 5), hay mùi hương mộc mạc, lời tình tứ, tha thiết :

Em vắng nhà
              bồ kết chửa đi xa

(Nguyễn Du, tr.112)

Gió bồ kết
nắng lung liêng mày cúc

(...) Ngò trắng ổ hoa vườn trứng cuốc
Tù và ai ọ nghé đồng tranh
Chiều xểnh đàn
em chẳng gọi tên anh

(Tù Và, tr. 133)

Thơ Lê Đạt dạt dào hình ảnh quê hương trong tiếng tù và, tu hú giữa những bờ xoan, gốc khế, mép lúa, nương dâu. Nhiều bài thơ đẹp :

Tóc trắng tầm xanh qua cầu với gió
Đùi bãi ngô non
               ngo ngó sông đầy
Cây gạo già
               lơi tình
                        lên hiệu đỏ
La lả cành
               cởi thắm
                        để hoa bay
Em về nói làm sao với mẹ

(Quan Họ, 1970, tr. 91)

Tình tứ và lẳng lơ nhất là hai chữ “ cởi thắm ”, nghĩa cụ thể là : hoa gạo đỏ thắm lìa cành, bay theo gió. Nhưng người đọc còn hiểu theo nghĩa khác : cởi thắm là cởi yếm thắm, vì ngoài hình ảnh dải yếm, hai chữ “ cởi ” và “ thắm ” khó kết hợp với chữ khác. Vì vậy câu thơ “ lơi (tình) lả (cành) ” lẳng lơ hơn câu hát qua cầu gió bay, chỉ mới cởi áo chứ chưa cởi đến yếm. Và chữ cây gạo còn nhắc đến một chữ gạo khác :

Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư

Thơ Lê Đạt tinh nghịch, tinh quái, có khi còn quỷ quái. Nét u mặc (humour) là đặc sắc trong từ vựng Lê Đạt, phản ánh nếp suy nghĩ và phong cách sống của tác giả. Nhiều người thích thơ Lê Đạt vì nét phúng thế, nhưng cũng vì đặc điểm này mà nhiều người không thích, thậm chí căm ghét, nhất là về phía trường phái chậm hiểu.

Tình yêu là chủ đề quan trọng trong thơ Lê Đạt, không lấy gì làm mới. Nhưng thơ tình Lê Đạt cảm động nhờ tươi mát, ngây thơ : điều lý thú ở một nhà thơ đã ngoài tuổi sáu mươi, và đã sống tầm tã qua bao nhiêu điêu linh, chìm nổi và tội vạ. Thơ tình Lê Đạt róc rách những suối nguồn vô cùng trong sáng :

Anh dắt em đến cửa tình yêu
Mùa nhỏ xưa
Mẹ dắt đến trường
Bài học vỡ lòng tuổi chớm

Trang vắng mưa đêm về sớm
Heo may rải đồng giấy non
Anh vực tay em
Be bé nét đòng
Ai có biết lòng mẫu tử ?

Khuôn trắng
               chờ xem mặt chữ
Gió se se hoa trinh nữ thẹn thùng
Thuở đầu dòng
               đầu nhớ
               đầu trông

(Thuở Đầu Dòng, tr.42)

Bài thơ đơn giản mà hàm súc, trí tuệ mà cảm động. Điệu thơ còn đê mê run rẩy trên đầu ngọn gió chớm tình, đã sang mùa tư lự trước cơn giấy trắng mưa khuya. Tình yêu, mà ta cho là giản đơn, thật sự không bao giờ đơn giản mà vang âm không biết bao nhiêu khát vọng một đời người. Với người nghệ sĩ, làm thơ hay viết văn, tình yêu, nghệ thuật, tâm hồn, thân xác với cuộc đời là một, là một định mệnh không bao giờ trọn vẹn. Tình yêu có những giây phút tràn đầy nhưng toàn thân tình yêu không bao giờ viên mãn :

Chữ em thôi
              một đời
                      chưa đi trọn hành trình

(Anh Ở Lại, tr. 41)

Bao nhiêu truyền thuyết : kết cỏ ngậm vành, ba sinh hương lửa, chưa dứt hương thề, nợ tình chưa trả, là những huyền thoại phản ánh khát vọng tình yêu tận đáy sâu thăm thẳm trong tiềm thức loài người :

Chín kiếp truyện đời
                         ú ớ
                             một tên em

(Cỏ Lú, tr. 125)

Tình gần, tình xa, yêu có nhau và yêu trống vắng. Tôi đã có lần ca ngợi câu thơ Hoàng Cầm :

Anh đi xa em mới biết nói thầm
Đường đê chợ Trầm sang mùa tu hú

Lê Đạt cũng có ý thơ tương tự :

Chia xa rồi mới thấy em
Như một thời thơ thiếu nhỏ
Em về trắng đầy cong khung nhớ
Mưa mấy mùa
                mây mấy độ thu
Vườn thức một mùa hoa đi vắng
Em vẫn đây mà em ở đâu

Chiều Âu Lâu
                bóng chữ động chân cầu

(Bóng Chữ, 1970, tr. 27)

Đẹp nhất là hình ảnh Vườn thức một mùi hoa đi vắng.

Thế hệ Lê Đạt, tình yêu đôi lứa gắn liền với lịch sử. Binh lửa chiến tranh luôn luôn chập chờn trong thơ anh, dù rằng không Sáng Soi trực tiếp :

Anh mang tình em đi
Qua những đèo lẻ nắng
Những sông trưa không đò
Những đường mưa ngẩn trắng

Anh mang tình em đi
Qua những đồi sim chín
Những sắc cây mơ già
Mua rừng hoa mua tím

Anh mang tình em đi
Qua những mùa đất lạ
Những sớm chim dị hình
Những chiều sương bạc má

Dông gió mù trời
                 em bóng sáng soi

(Sáng Soi, 1967, tr.85)

Có những hạt giống chia ly hẹn mầm tái hợp. Nhưng lắm mảnh đời vĩnh viễn gió bay :

Ba năm anh không về
Ba năm rồi ba năm

Mẹ anh thành nấm đất
Người yêu anh cũng đi
Gốc nửa ngày khế chát

(Gốc Khế, tr. 17) 

Gốc Khế là một bài thơ bình dị và cảm động. Niềm đau kín đáo, thi vị. Đến bài Thư Không Người Nhận, sự mất mát trở thành bi đát :

Đôi chim cu anh nuôi
Con trống mèo đen ăn thịt
Con mái vào ra một mình
Ấp lạnh bóng trăng rồi chết
Vàng hồ bay
              thư không người nhận
                                           gió trả về

(Thư Không Người Nhận, tr. 90)

Chúng ta ghi nhận ở đây tác dụng quan trọng của kỹ thuật, của thi pháp tạo ra cảm xúc, làm nên giá trị bài thơ. Lê Đạt sáng tác qua ba giai đoạn : quan sát – học tập – sáng tạo.

– Quan sát : bóng trăng tròn như quả trứng ; vàng hồ bay như những bức thư. Dĩ nhiên là nhà thơ đã nhìn trần gian bằng con mắt sáng tạo. Sáng tạo khi nhìn.

– Học tập : trong Kiều đã có chữ ấp “ quạt nồng ấp lạnh ”. Thơ Đinh Hùng :

Run tay ấp nửa bàn chân lạnh
Thương những con đường mưa cuốn đi

Hình tượng “ trăng lạnh ” đã có trong thơ Tản Đà, Xuân Diệu. Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay đã có trong truyện Kiều.

– Sáng tạo : động từ ấp ở Lê Đạt cụ thể hơn : con cu mái ấp một quả trứng, không có trống không bao giờ nở, ấp một cách vô ích và vô vọng, và tính từ lạnh đau thương vì đồng nghĩa với cõi chết, cái chết tuyệt vọng, tuyệt tự và tuyệt giống. Ta có câu ca dao thật buồn :

Anh đi đường ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh

Buồn, nhưng vẫn hạnh phúc. Xa cách, con người vẫn sống, vẫn yêu, bằng ánh sáng nhớ nhung. Thơ Lê Đạt bi đát hơn : chữ “ ấp ” nồng nàn và thê thảm. Hình tượng mới : Thư Không Người Nhận đã đi vào hư vô, đã đau thương lắm, còn bị gió trả về lại làm chết thêm một lần khác, chết nhiều lần nữa. Nghiệm cho cùng, người xưa khi ao ước ba trăm năm nữa ai người khóc... là còn hạnh phúc và may mắn.

Cái chết bôi xoá. Trận cuồng phong quét sạch ảo vọng và hư danh, vẫn còn để trơ cỗi những gốc nợ đời :

Nợ cũ khối xương rồng hoa trả đỏ
Hương thắp gọi ba lần
                             không đáp lửa
Hồn có nhà
            hay bát mộ đi xanh

(Thanh Minh, 1972, tr. 134)

Thơ Lê Đạt sau phần tinh quái , còn có phần ma quái và yêu quái. Tuy nhiên, dù có là đọi máu thay lời thơ vẫn còn phảng phất hương hoa mộng mị :

Mai ngày anh không còn
Hành quân vui gió nắng
Đầu anh em nhớ trồng
Một gốc hoa mận trắng
Để lòng riu ríu cành
Nghìn bướm cười ánh nắng

(Hoa Nghĩa Trang, tr. 99)

Chúng ta nhớ đến câu thơ cổ mà Nguyễn Tuân đã nhắc trong truyện ngắn Thả thơ trong Vang bóng một thời :

Mộ thượng mai khai xuân hựu lão

Trên mồ mai nở – lại xuân già

Thơ Lê Đạt đã gửi những cánh hoa mai trễ tràng, vẫn y hẹn đến với một mùa xuân ngang trái.
 

Đặng Tiến

(còn tiếp một kỳ)
 

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Ủng hộ chúng tôi - Support Us