Đọc Phan Huy Đường
Tiếng kêu làm người
Đọc Phan Huy Đường,
Vẫy gọi nhau làm người
Nhà xuất bản Hồng Lĩnh,
Hoa Kỳ, 1996, 421 tr, 19 đôla
Nguyên Thắng
Xưa
có lời dặn dò
phải sợ người của một quyển sách. Trong tôi có cái gì sờ sợ Phan Huy
Ðường.
Ðương nhiên hắn chẳng phải là người của một quyển sách. Nhưng lại là
người của
một. . . một gì nhỉ ?
Vẫy gọi nhau làm người có một đặc điểm hiếm : bốn trăm hai mươi mốt trang sách là một tiếng kêu dài. Xé lòng. Một từ -- từ nhân phẩm -- nếu không viết thành chữ thì là hồn của nó thấp thoáng ẩn hiện trong mỗi trang sách. Còn hơn một ám ảnh.
Một nhức nhối. Của một vết thương không chịu khép miệng. Vết thương những gì đã mất trong cuộc chiến hôm qua : một quê hương và một mối tình. Nghĩa là chính ta, chính hắn.
Hắn có giải thích đâu đây vì sao và trong nghĩa nào người Việt đã mất đi quê hương, mất đi mối tình : "Vì thời đại đó (hay vì chinh chúng ta) chỉ cho phép chúng ta, từng người một, có một mối tình riêng. Nó không cho phép chúng ta, tất cả, có một quê hương, một mối tình, chung. Nó buộc chúng ta làm Ngụy, làm Việt cộng. Nó không cho phép chúng ta làm người, vì chúng ta chỉ là người Việt. " (tr. 253)
Câu hỏi (hay vì chính chúng ta ?) mà hắn cố tình cho nằm trong dấu ngoặc mới nhức nhối làm sao. Hỏi tức là trả lời. Lý do "vì thời đại" để đó cho có lệ. Chứ vết thương rách toạc để tuôn chảy mất nhân cách làm người đương nhiên là vì chúng ta, vì chính hắn. Và từ đó mất đi nhân phẩm, cho ta, cho hắn.
Hắn vác cái mất mát ấy, cái quá khứ ấy mà đập cửa tương lai. Nhức nhối, trằn trọc, thiết tha, khắc khoải, tứ tung... Vào khắp cửa, nghệ thuật, chính trị, ngôn ngữ, văn học, những cây bút... Nhưng chỉ với một thước đo, một ống kính, một tiêu chuẩn : nhân phẩm. Cứ như rằng là phải thế mới cướp lại tương lai, tạo lại nhân cách, cho hắn, cho ta.
Tôi sợ hắn vì thế. Bực hắn cũng vì thế.
Ngạc nhiên thú vị cũng vì thế. Người Việt thì nhan nhản chính trị gia, thiếu chi kẻ viết chính trị. Nhưng triết lý chính trị như hắn, hiếm.
Bạn cứ đọc những trang Niềm tin khủng khiếp mà xem. Ðã mấy ai phân tích đến gốc đến rễ được như hắn lý do đã đưa đẩy những người yêu tự do, giàu lòng nhân ái, dũng cảm, lao mình vào cuộc chiến đấu hầu như vô vọng cách đây năm sáu chục năm, những người có đủ trí tuệ để tiếp thu những hiểu biết cần thiết về thời đại để chiến đấu và chiến thắng, đâm đầu vào con đường của ảo vọng uốn nắn tình cảm, lý trí con người, coi dân tộc như lũ trẻ ngây ngô cần được che chở, bảo vệ, cần phải trường kỳ giáo dục, cải tạo ?
Ðã mấy ai như hắn gạt qua những suy luận hời hợt sáo mòn đi tìm ý nghĩa khái niệm tự do ?
Ðã mổ xẻ quan hệ giữa văn hoá và chính trị được như bài Chính trị, kích thước cơ bản của con người ?
Mấy khi được đọc về cội nguồn mối quan hệ nhà văn-tác phẩm-độc giả, về chỗ bí hiểm khiến cho nghệ thuật là nghệ thuật, đậm đặc như trong những trang Vẫy gọi nhau làm người ? Mấy ai như hắn tìm tòi đến điểm sâu kín khiến cho cái Ðẹp xúc cảm lòng người bất chấp không gian, thời gian, văn hoá khác biệt nhau ?
Có ai nói rằng, hắn ngông cuồng xông vào những câu hỏi muôn đời hóc búa ấy mà không gục ngã ấy là vì hắn vào ra các thuyết sartriêng, marxiêng, Hannah Arendtiêng, nhuần nhuyễn, chẳng mấy ai trong người Việt kiêm trị được như hắn, thì tôi cũng xin cúi đầu chấp thuận. Nhưng theo riêng ý tôi cái gì đã cứu rỗi hắn, chẳng phải ở nơi hắn rộng bề căn bản triết học. Mà vì hắn chẳng giống một ai. Ðầu Ngô mình Sở. Ðúng hơn là thân Việt, đầu Tây. Suy luận triết Tây mà hồn là hồn Việt : "... ta thừa biết, người ta chỉ có thể cố ý quên những gì người ta nhớ mãi. Người Việt còn vương vấn với Việt Nam không bao giờ quên được những gì đã khiến Việt Nam thành Việt Nam hôm nay, khiến mình làm mình hôm nay, không bao giờ quên được chính mình." Tuy nhiên, nếu có quên được hắn cũng chẳng khứng quên đâu : "Hơn thế, những sai lầm ta nỡ quên cũng là những sai lầm ta và con em ta sẽ mắc lại" (tr. 251).
Cái nhức nhối đeo đuổi hắn có lẽ cũng do cái duyên nợ của hắn với ngôn ngữ. Hắn cảm đến gốc rễ, đến bản chất ngôn ngữ : "Có những vết thương không dày xéo da thịt, mà thấm vào hồn, đọng trong ngôn ngữ, do đó không thể nhờ thời gian hàn gắn. Vì ngôn ngữ là hình thái tồn tại vượt thời gian của con người,(...), thời gian không là liều thuốc trị bệnh ngôn ngữ." (tr. 251).
Từ đấy một bước là đi tới phê bình văn học.
Hắn chẳng ngần ngại gạt qua bên cung cách phê bình thường tình. Không chấp nhận cái "… nghệ thuật phê bình thường thu gọn vào kiến thức và hình thức : câu này, ý này, từ điển tích nào ra... dùng chữ, đặt câu tinh xảo, mới lạ như thế nào...."(tr. 216). Ngang nhiên vác cái ống kính "nhân phẩm" vạn năng của hắn ra soi. Thế mà lạ thay, lại bật ra những góc cạnh ngầm khiến chúng ta ưa thích văn Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Ðỗ Kh, Cung tích Biền, Trần Vũ, v.v.
Ðã hết đâu, còn mặt phản diện. Cái kính ấy, hắn đem phân tích xem quan điểm máy móc về lịch sử của Nguyễn Khải đã ảnh hưởng nhân vật trong Gặp gỡ cuối năm ra sao. Chịu thầy, đúng thì có phần đúng. Nhưng mà ai nghe lọt tai nổi cái giọng ayatollah hạ lời phán quyết dứt điểm : "... Nguyễn Khải chưa thể sáng tác được một tác phẩm nghệ thuật". Tuy nhiên đó chỉ là một trong những lý do làm tôi bực bội.
Cái khó chịu chính khi đọc hắn là day dứt những câu hỏi "Sống phải làm gì ?". Mà vậy tức là đương nhiên đưa sách của hắn vào hàng tác phẩm nghệ thuật mất rồi. Lại còn y chang cái ý nghĩa, cái tiêu chuẩn của chính hắn đưa ra. Có đáng bực không chứ ? Thế là phải đọc đi đọc lại. Rồi lại bực tức thích thú.
Bực
hắn thì bực thật. Nhưng tôi cũng xin thắp nén hương van vái cho bao
nhiêu gan
ruột mà hắn đã trải ra trên suốt bốn trăm trang giấy ấy vuốt dịu cho
hắn bớt
được phần nào cái nhức nhối khó nguôi.
Nguyên Thắng
(8.96)
Các thao tác trên Tài liệu