Bạn đang ở: Trang chủ / Tài liệu / Báo cũ / Số 150 - 04.2005 / War Wounds

War Wounds

- Nguyễn Lộc — published 06/03/2007 14:50, cập nhật lần cuối 24/11/2012 20:59
Một ông bố và con trai trở lại Việt Nam
 

Những vết thương chiến tranh
Một ông bố và con trai trở lại Việt Nam

 

Tom Bissell

 
Nguyễn Lộc trích và chuyển ngữ.

 

Vì nguyên tác quá dài so với khuôn khổ Diễn Đàn, người dịch xin được chọn lựa theo chủ quan để có thể gởi đến bạn đọc phần nào những gì tác giả muốn nói. Xin xem nguyên tác trên tạp chí Harper's, 12.2004 : War Wounds, A father and son return to Vietnam ; Tom Bissell.
Tom Bissell còn là tác giả tập kí sự Chasing the Sea và tuyển tập truyện ngắn God Lives in St. Petersburg, sẽ do nhà Pantheon xuất bản vào đầu năm 2005.

 
Khởi thủy là cuộc chiến. Khi nhìn lại quãng đời niên thiếu của mình, một cách phải lẽ, đám con cái của nhiều cựu chiến binh Việt Nam cảm nhận được điều này bằng một tín niệm đượm màu thánh kinh Khởi thủy là cuộc chiến. Nó thù lù ra đó, trong quá khứ của lớp cha chú chúng tôi, một ngôi sao đang tắt có sức hủy diệt hết mọi thứ lân la đến bên nó. Ðối với những đứa con trong tuổi đang khôn lớn của nhiều cựu chiến binh, cái xa vời của cuộc chiến hầu như không thể nào ước định được, vì nó xảy ra trước-bạn, trước khi bạn có thể nắm bắt được cái tai ương về chính chỗ đứng của bạn trong dòng thời gian, trước khi bạn nhận thức được rằng, cái hiện thực của bản thân bạn - phòng ngủ của bạn, các đồ chơi và các sách truyện bằng tranh của bạn - thì không hề mắc mớ gì với cái thực tế của cha bạn. Song, xa vời là thế đấy, hệ quả của cuộc chiến lại mật thiết đến độ ta khó có bề lẩn thoát được. Trong mọi bữa ăn, Việt Nam ngồi cùng bàn – vô hình – với gia đình chúng tôi. Mẹ tôi, li dị cha tôi khi tôi mới lên ba, được ông bố đại tá Thủy Quân Lục Chiến, đeo lon con ó, của bà giới thiệu để hai người biết nhau, rốt cục đã không kham nổi những đêm ác mộng, những ngày mộng dữ, mù tịt không biết mình sẽ phải nghiệm sinh về ông chồng nào trong từng mỗi khoảnh khắc của đời mình.

Mẹ tôi xuất thân từ gia đình có truyền thống dài lâu của những người lính đầy huy chương. Bà hiểu cái đám đàn ông từng kinh qua chiến trận. Ðó là chuyện họ đã từng làm. Bất kì bóng tối nào chiến tranh còn váng vất lại trong tâm khảm của những kẻ sống sót – và chiến tranh làm thế, nó hiển nhiên làm thế ; bà hiểu – cần phải được chấp nhận trong cam chịu. Nhưng người anh hùng của chiến trận đã cùng bà thành thân lại chỉ có thể cam chịu trong vật vã. Ông ấy đã không trở về từ Normandy mà từ một xứ sở, trong suốt những năm tháng ban đầu của cuộc hôn nhân hai người, đã trở nên ngấm ngầm đồng nghĩa với thất bại và man rợ. Chiến tranh, đúng lẽ ra, rồi cũng phải chấm dứt. Thế nhưng, người chiến binh anh hùng của bà thì vẫn mãi còn lâm trận.

Thuở bé, tôi từng kinh hoàng với những đêm cha tôi, say be bét, lẻn vào phòng tôi, đánh thức tôi dậy, và suốt hàng giờ mỗi bận, cố gắng giải thích cho tôi, đứa con trai mười tuổi của ông, tại sao các quyết định của ông – những quyết định mà ông tự ôn lại cho mình không chút nương tay, những quyết định đã khiến những người bạn thân của ông phải bỏ mạng – lại là những quyết định duy nhất mà ông đã có thể làm. Những đêm khác, ông lại da diết nhớ những người đàn bà khác nhau ông từng theo đuổi ở Việt Nam, mà số người ấy có thể nhiều đến mức dị thường, mang đến trí tưởng tượng còn non nớt của tôi những hình ảnh kì cục, trong đó tôi là một đứa bé trai Á châu.

Lúc trẻ, tôi hay ngắm cái [chiến thương] bội tinh "purple heart" (ông gọi nó, "cái huy chương ngu ngốc") lồng trong khung kính của ông, cạnh đó là bức ảnh cha tôi thời đang thụ huấn ở Quantico. Chữ BISSELL in stencil ngang ngực trái của ông. Vòm cây xanh thân thuộc của Virginia sừng sững sau ông. Ông trông na ná một Harrison Ford trẻ trung và đang mỉm cười, súng trong tay, mắt ông dịu dàng một cách vô tư lự. Tôi muốn tìm lại người đàn ông ấy. Tôi tin rằng tôi sẽ tìm ra ông ở Việt Nam, nơi ông đã được hình thành và đã bị phá hỏng, đã bị giết và đã phục sinh. Khi, qua điện thoại, tôi báo với cha tôi rằng, tôi đã có vé máy bay, chúng tôi có thể lên đường trong vài tháng tới, ông im lặng, im lặng như tôi vẫn từng nghe thấy nơi ông. Ông nói, "Trời !"

*

Sau mấy tiếng đồng hồ lái xe, xuôi ven biển, men theo những con đường được chăm sóc tử tế đến không ngờ, xuyên qua những quãng khiến ta cảm thấy như những đường hầm xanh um của miền quê Việt Nam. Miệng cha tôi phát ra những tiếng khoái trá khi ông cắm cúi trên tờ Viet Nam News ông vớ lấy ở phi trường thành phố Hồ Chí Minh, nơi chúng tôi ghé qua vài tiếng trước khi lên đường ra Huế, ở miền trung Việt Nam.

Chúng tôi băng qua cái ngổn ngang thôn ổ của nhiều làng. Tôi nhìn thấy những nguời đàn bà đội nón lá nông dân, những chiếc thúng đầy lúa, tất thảy những cái khuôn sáo về cảnh trí vẫn gắn liền với Cuộc chiến tranh Việt nam. Có điều, đây không phải là những người đàn bà VC, và sẽ không có G.I. bám theo, thọc lưỡi lê vào các thúng gạo, tìm kiếm vũ khí giấu ở trong. Khuôn sáo chẳng mang một nghĩa lí gì, mà đây phải đâu là khuôn sáo, chúng chính là những tất yếu của cuộc sống người Việt. Tôi đã minh thị được rằng, khuôn sáo cung ứng khá nhiều thông tin nhưng chúng không định nghĩa được sự việc là bao, và đột nhiên nhận thấy cách chúng ta dùng tên gọi Cuộc chiến tranh Việt Nam nó có vẻ kì kì sao ấy, một câu không có tính từ mà càng nghĩ tôi càng thấy dị hợm. Nó nhằm vơ lấy cả một dân tộc và ném dân tộc ấy vào cuộc xung đột triền miên.

Sau một lúc, tôi hỏi: "Mình đang ở đâu?"

Hiền nói : "Gần tới đèo Hải Vân rồi", và chỉ về phía trước nơi con đường lúc nhúc những xe đò đang ngoằn ngoèo bò lên rặng Trường Sơn. Bên trái chúng tôi, bức tường thành cây thông lá dài và rậm đột nhiên vỡ ra, lồ lộ một vực dốc đứng. Ngoài kia bờ vực là cái bất tận xanh ngát của Biển Đông, một cõi hỗn mang với những chóp màu trắng cực kì xao động khiến cho tôi chừng như chờ được nhìn thấy khuôn mặt của đấng tạo hóa (tạm dịch Yahweh – nl) lướt ngang qua đó.

Ðến đỉnh đèo chúng tôi phải dừng lại vì hơi bị kẹt xe, cha tôi ra khỏi xe để chụp ảnh. Tôi đi theo ông. Trời lạnh chừng như tuyết có thể rơi, mây sà xuống thấm đẫm. Cha tôi muốn được chụp ảnh, ông đưa máy ảnh cho tôi.

Tôi nhìn chăm chăm cái món đồ cổ lỗ ấy, một chiếc Yashica FX-7.

Ông tự hào tuyên bố : "Lần đầu tới Việt Nam cha đã có máy ảnh này"

"Đây là cái máy ảnh mà bố đã dùng để chụp hết thảy các phim dương bản ấy à ?" Bộ phim đèn chiếu của John C. Bissell về Việt Nam là một bộ phận quan trọng thời tuổi nhỏ của tôi ở Michigan. "Bố, máy ảnh này ba mươi tám tuổi rồi !"

Ông nhìn tôi. "Không, bậy nào. " Ông giơ tay lên, huơ huơ một cách vu vơ. "Nó ... bao nhiêu hà ? Ba mươi hai tuổi."

"Nó ba mươi tám tuổi rồi, Bố. Suýt soát bốn mươi."

"Không, làm gì đến, vì 1960 cộng bốn mươi năm là 2000. Cha tới đây năm 1965, vậy thì..."

"Vậy thì bây giờ là 2005 trừ đi hai."

Cha tôi im lặng, rồi đột ngột ông tái mét : "Ôi Chúa tôi. Holy shit."

"Cũng khó tin, nhỉ ?"

"Tôi đâu ngờ mình già tới vậy, cho đến phút này."

Ông sờ sờ lên mặt, vẻ lo lắng, trong khi tôi đưa ông vào tầm nhìn của ống kính.

*

Một lúc sau, do tôi cứ khăng khăng, chúng tôi dừng lại Đài tưởng niệm Mĩ Lai, ngoài thị xã Quảng Ngãi vài dặm Sơn Mĩ là một tiểu khu được phân ra làm nhiều xã, với Mĩ Lai là xã nổi tiếng hơn cả. Năm 1968, trong một khu vực của Mĩ Lai, những tội ác chiến tranh đầy tai tiếng của Mĩ đối với những người dân làng Việt Nam đã xảy ra : Đâu khoảng chừng từ 150 đến 570 thường dân không vũ khí đã bị làm thịt một cách tàn bạo khiếp đảm theo nhiều cách. Cha tôi đã không muốn đến đây, vì nhiều lí do, có những lí do dễ hiểu, có những lí do hơi khó hiểu hơn. Một trong những cái "hơi khó hiểu" là mối quan hệ bè bạn mập mờ của ông với đại úy Ernest Medina, chỉ huy đại đội C, một đơn vị trong Lữ đoàn 11, Sư đoàn 23 Bộ binh, trách nhiệm phần lớn các vụ tàn sát ở Mĩ Lai Medina, một người Mĩ bản địa (người "da đỏ", gọi theo thói thường -- nl), bị vụ Mỹ Lai làm tiêu tùng cuộc đời binh nghiệp nhiều triển vọng của ông, cuối cùng đã quay về sống ở phía bắc bang Wisconsin, và cha tôi thỉnh thoảng vẫn gặp ông. Cha tôi vẫn cho rằng Medina là một "người tốt", ông này tuyên bố không hề ra lệnh cho những vụ việc đã xảy ra và không giải thích được việc ấy. Trên đường đến đây, cha tôi có càu nhàu là tôi không hiểu cho rằng những vụ như Mĩ Lai vẫn xảy ra luôn, chỉ có tầm cỡ là nhỏ hơn thôi. Tôi nhìn ông, kinh ngạc. Tôi hiểu ông muốn nói gì, và ông biết tôi hiểu ông muốn nói gì, nhưng phải nghe chính ông nói ra những lời hàm chứa ý dung dưỡng việc sát nhân ấy thì thật cũng quá sức. Tôi có thể vặn lại, và tôi suýt vặn lại : Thế bố đã từng làm điều như vậy ư ? Nhưng tôi đã không hỏi, vì không nên để cho bất kì một người cha nào bị con mình hỏi câu ấy. Vì không người cha nào phải nghĩ rằng, dù trong thoáng chốc, con của ông ta tin là ông có thể làm như thế. Vì tôi biết rằng cha tôi không thể làm như thế. Và tôi đã tự nhủ như thế, khi chúng tôi đi gần đến Sơn Mĩ.

Những khuôn viên được đánh dấu bằng những hàng cọ cao, gió rít, những con đường gập ghềnh, với hàng giậu xanh tỉa xén vuông vắn và nhóm tượng, nhóm tượng xé lòng : xác những phụ nữ bị bắn chồng chất lên nhau, những trẻ con van xin, những nắm tay bất khuất giơ cao. Đây là những trường hợp đầu tiên tôi nhìn thấy điêu khắc Cộng sản mà không bị khích động đến độ phải cầm búa tạ lao vào chúng ngay tức khắc. Trong khi đó cha tôi quan sát bia mộ liệt kê tên tuổi của một số nạn nhân Sơn Mĩ.

" Con không thấy điều gì ? " ông hỏi khi tôi đến gần bên.

Một cột số ghi tuổi nạn nhân như thế này : 12, 10, 8, 6, 5, 46, 14, 45. Hầu hết là nữ. "Con không thấy đàn ông, trai tráng."

"Ấy là vì không có trai tráng nào quanh đây. Đây là một làng VC."

"Bố. Bố."

"Thì chỉ là một nhận xét thôi mà. Cả vụ này có khả năng là một tác vụ trả thù. Thật ra, tôi biết nó là vụ trả thù. Có thể họ bảo, “Mình sẽ dạy chúng một bài học”, rồi họ tàn sát mọi người. Đó là một vi phạm slight mọi điều luật và qui định cả về đạo lí lẫn thành văn, quân sự lẫn dân sự."

Chúng tôi lần bước qua bên nhà bảo tàng, tôi để ý thấy các cây cọ mang nhiều biển nhỏ đánh dấu những vết đạn còn thấy được do đám lính bắn trong cuộc tàn sát. ("Giết vài cái cây !", trong ngôn từ lính Mĩ ở Việt Nam, tương đương với câu "Bắn thả giàn đi !") "Chúa ơi," cha tôi kêu khẽ, dừng lại để lần ngón tay trên thân cây cọ nhằng nhịt những lỗ đạn bắn Gương mặt ông chợt trông ma quái "Năm trăm người..."

...

Tôi gặp Hiền và cha tôi đứng bên chiếc hào nơi vùi xác nhiều nạn nhân của cuộc tàn sát Mĩ Lai. Cạnh đấy là một bích họa kiểu Guernica với những chiếc trực thăng gieo chết chóc và lính Mĩ, nét mặt hung ác, úp chụp lên trên những phụ nữ và trẻ con Việt Nam không một phương cách tự vệ.

Hiền nói : "Tại sao có một kẻ giết chóc, như Calley, trong lúc một kẻ khác, như Colburn lại cố gắng ngăn ngừa ? Khác nhau chỗ nào ? "

Cha tôi nhìn đăm đăm chiếc hào. Ông bảo Hiền : " Chỉ là... chiến tranh ". Hiền gật, nhưng tôi biết anh ta không thỏa mãn với câu ấy. Tôi không thỏa mãn với câu ấy. Hình như, cha tôi cũng thế Ông nói thêm, vẻ tra vấn, "Tôi đoán, rốt cuộc lại đó là chuyện kỉ luật". Sau khi Hiền bỏ đi, cha tôi xoa ngực ông, qua lớp áo "Nhói tim."

Tôi nói, "Ừ."

Cha đã từng thấy TQLC Mĩ trả thù, nhưng họ chỉ giết đàn ông chứ không giết đàn bà và trẻ con. Kinh thật. Khi chúng ta đến đây chúng ta là... là những crusaders ! Chúng ta có bổn phận giúp đỡ người ta. Chúng ta có bổn phận cải thiện cuộc sống cho họ, mang lại cho họ dân chủ. Và cách chúng ta làm thì đầy đạo lí... Ông thở dài, xoa mồm, lắc đầu, với mọi dáng điệu đang kiếm tìm một nghĩa lí Vụ Mĩ Lai xảy ra hai năm sau khi cha tôi rời Việt Nam Chiến tranh Việt Nam năm 1966 không phải là chiến tranh Việt Nam của năm 1968, cuộc chiến đến lúc ấy đã đốn sụm cả nút những nhân vật và thiện ý, kể cả nơi những kẻ đã hoạch định và chủ xướng cuộc chiến. Kennedy, McNamara, Johnson : đến năm 1968 họ đều đã mất ngôi vị. Tôi nghĩ tới một câu chuyện cha tôi có lần đã kể tôi nghe, vụ ông được lệnh chở một tù binh Việt cộng về Tam Kỳ bằng trực thăng. Ông mô tả tù binh ấy là "một chú nhỏ bị đe dọa, sợ gần chết, bị trói chặt nhưng vẫn còn giẫy giụa. Và hắn ta đã chống cự và chống cự và chống cự đến 45 phút. Hắn biết mình sẽ bị ném ra khỏi trực thăng. Hắn biết thế. Nên khi đến Tam Kỳ, họ hỏi cha, "Cậu học được gì nào ?" Cha nói, "Tôi học được rằng, cái thằng nhóc kia muốn giết tôi vì hắn ta nghĩ rằng tôi sẽ tống nó ra khỏi trực thăng !” Và goddamnit, có lúc tôi suýt làm vậy thật." Hai chúng tôi đã cười với nhau, tàn nhẫn. Chuyện giặc giã. Cha tôi không thể nào ném một người bị trói ra khỏi trực thăng, dù trong tình huống nào. Nhưng tôi tưởng tượng ra ông -- tôi tưởng tượng ra chính tôi -- ở tại Mĩ Lai này, trong những phút giây đầu tiên của cái xung động kinh khiếp ngày hôm ấy, của cái tự do độc hại của cò súng chờ sẵn trong tâm trí bạn bè, đồng chí, và tôi không ưa lắm những điều khả thể mà tôi nhìn thấy.

Cha tôi đột nhiên ngẩng nhìn quá cái hào khốn nạn kia, sang đến cánh đồng xanh non gần đó. "Giá có Hiền ở đây." Có phải cha tôi, sau cùng, đã có được cho anh chàng một câu trả lời khá hơn rằng, tại sao có những người làm chuyện giết chóc khi kẻ khác lại nghĩ đến chuyện cứu vớt ? Thật ra, không phải ông chỉ muốn biết đó là ngô hay lúa mì hay gì khác đang mọc lên bên kia .

*

Qui Nhơn là nơi cha tôi giạt vào bờ cùng với hàng ngàn TQLC vào tháng Tư năm 1965, một tháng sau khi những ngừoi lính TQLC Mĩ đầu tiên được phái đến Đông Nam Á, qua ngã Đà Nẵng, rạch ròi với vai trò đội quân tham chiến

Phải mất khoảng mười lăm phút dò dẫm trên bãi biển để tìm ra nơi ông đổ bộ : một rặng cọ lưa thưa, như nhờ phép lạ nên chẳng đổi thay từ dạo 1965, giúp đỡ trí nhớ của ông về nơi chốn ấy. Chúng tôi đứng nhìn biển bất tận trong nhằng nhịt bóng những con cò và các giàn giáo của khu du lịch đang được xây dựng cách đó chừng vài ba chục thước. Tôi bắt đầu hỏi ông này nọ, nhưng thật nhẹ nhàng ông bảo, hãy để yên cho ông một lúc Tôi biết ngay, mình có lỗi. Ông không thể nói lúc này, ông nhìn đăm đăm ra biển trong nỗi bối rối lẫn niềm hạnh ngộ Tôi lặng im. Đây là nơi mà người đàn ông tôi gọi là cha đã được sinh ra. Cứ như ông đang nhìn vào chính bản thân ông qua tấm màn che đẫm máu của kí ức.

Lúc sau, ông nói : "Họ bảo chúng tôi, đây là một cuộc đổ bộ chiến đấu. Sẵn sàng để đón nhận điều tệ hại nhất. Những con tàu chở chúng tôi tự dìm trong nước, các tàu đổ bộ và xe lội nước lội vào bờ. Chúng tôi lên bờ, trang bị đầy mình, súng lên cò, sẵn sàng chiến đấu. Chúng tôi có xe tăng, xe tải, và Ontos."

"Ontos ?"

"Xe bọc sắt sơ sài có trang bị sáu súng không giật ; Chúng bắn đủ thứ đạn. Đạn xuyên phá. Đạn chống người. Willy Peter, đó là phốt-pho trắng, một trong những thứ chết người mà mình có thể bị bắn trúng. Khi đạn nổ ra, nó phun chất phốt-pho trắng, nếu bỏ nước vào, nó lại cháy bùng lên. Nó hút lấy dưỡng khí để cháy và mình phải lấy bùn để dập tắt. Vũ khí thật đáng yêu."

"Bố lúc ấy bao nhiêu tuổi mà có được từng thứ ấy trong tay ?"

"Cha 23 tuổi. Một trung đội trưởng. Nhưng cha cũng là người chỉ huy đại đội, và tôi có tất cả những lính bộ binh và quân nhu dưới quyền. Có thể tôi là một trong những đại đội trưởng trẻ nhất ở Việt Nam, nếu không phải là người trẻ nhất." Về điểm này, tôi có thể nói là ông vẫn tự hào. "Mọi người hoan hô chúng tôi. Rất vẻ vang. Cha quá đỗi thất vọng khi nói chuyện với những người không có mặt ở đó. Họ đều bảo, “Chẳng ai muốn chúng ta đến Việt Nam”. Coi đó, nhất định là họ hồ hởi mở rộng vòng tay ra đón chào chúng tôi mà."

"Đến lúc nào thì tình trạng xấu đi ?"

Ông chỉ tay về những ngọn đồi xa quá Qui Nhơn  -- một miền an lạc với những tam giác xinh đẹp, gồ ghề với đá cẩm thạch lờ mờ và những những chiếc cựa sắc bằng đá trắng chìa ra, vài thác nước trắng sủi bọt đổ xuống mặt những ngọn đồi "Coi thì đẹp đẽ vậy đó, nhưng VC ở trỏng, như chúng tôi đã phát hiện. Chỉ sau hai ngày là chúng tôi bắt đầu bị bắn. Chúng tôi thật thiếu kinh nghiệm, lúc đầu bọn mình bắn lẫn nhau. Một cậu, thật thê thảm, ngủ gục lúc canh gác và ngồi xoay người ngược hướng trong hố cá nhân. Cậu ấy thức dậy, thấy có người, và khai hỏa. Giết hết cả toán hỏa lực của cậu ta."

*

Tuy Phước không hẳn là một cái làng, nó là một chuỗi đảo dàn trải ra trên một cánh đồng rộng lớn bị những cơn mưa mùa dìm trong nước Chúng tôi chạy giữa những đảo ấy, dọc theo một con đường thẳng cao trên mặt nước chỉ độ một tấc.

Tôi ngắm cha tôi, vẫn hút thuốc và nhìn ngó quanh quất. Đột nhiên trông ông già hẳn ra. Ông trông không tệ Thật sự thì ông trông còn cường tráng hơn tôi, nhưng so với lâu nay thì trông ông già hẳn đi. Cổ ông bắt đầu yếu đi và xệ, mắt ông to hơn và ngả vàng, mớ lông như lông sói phía dưới cổ ông điểm bạc. Tôi 29 tuổi, hơn 6 tuổi so với lúc cha tôi bị thương. Có thể nào để tôi thật sự biết được cái gã thanh niên từng bị bẫy rập ném tung lên, banh xé ra chăng ? Liệu tôi có thể hiểu được người đàn ông này, vẫn còn đang bay bổng và trong một nghĩa nào đó vẫn còn bị xé toạc ? Đời chúng ta, nói cho cùng, chỉ là thuộc về ta một phần. Những phần đời đổi thay nhiều nhất của chúng ta chính là những phần thâm nhập vào cuộc đời của những người thân yêu : cha mẹ ta, con cái ta, anh chị em ta. Khi những chuyện đời ấy đan chen vào nhau chúng lại đổi thay, nhưng chúng ta không can dự vào để mô tả và giải thích chúng. Từng chuyện, từng chuyện một của chúng ta sẽ bị lôi tuột ra khỏi chúng ta, kéo xuống các hố kí ức chung của con người. Chúng được lưu giữ, nhưng chúng bị đổi thay. Một ngày nào rồi cha tôi sẽ ra đi chỉ trừ những gì tôi còn ghi nhớ về ông và những câu chuyện ông đã kể tôi nghe Tôi đã hiểu sai về ông trong bao nhiêu điều khác ? Có bao nhiêu điều về ông mà tôi chưa từng hiểu đúng ? Còn những gì tôi chưa hề hỏi ông? Và, nhìn ngắm ông, tôi muốn rằng ông sẽ không bao giờ ra đi. Tôi muốn ông mãi mãi ở đây. Còn biết bao điều để chúng tôi nói với nhau.

Rồi, một người đàn ông đi một mình, chân đất, lân la đến chào Chân tay nhẵn nhụi của ông gầy còm và nâu rám như làm bằng gỗ cây giá tị. Khi ông và cha tôi bắt tay và tán chuyện với nhau (qua sự giúp đỡ của Hiền), tôi nhận ra ông này thuộc vào lứa tuổi của cha tôi. Nếu có tình huống để chính ông này là kẻ từng giăng dây làm bẫy suýt lấy mạng cha tôi thì cũng chẳng phải là chuyện quá đáng Nhưng sự thân thiện rạng rỡ cuả ông ấy thì không chút màu mè, và tôi thấy được sự lúng túng của cha tôi mềm ra và tan biến dưới sự nồng nhiệt của nó. Chỉ trong chốc lát, cha tôi và ông ấy đã cùng cười vang với nhau về một chuyện gì đó.

Tôi lắng nghe cha tôi và người bạn Việt Nam mới quen của ông niềm nở chuyện trò quanh cái điều nhỏ nhặt là họ đã từng phải cầm lấy vũ khí đánh nhau trong thời trai trẻ : Vâng, cha tôi đã từng ở Việt Nam ; không, ông người Việt này suốt bấy lâu nay không phải chỉ sống trong miền Nam. Cuộc đàm đạo của hai người trôi vào một sự im lặng trang trọng, và họ gục gật đầu và nhìn nhau. Người đàn ông, nụ cười trên môi, chợt hỏi cha tôi duyên cớ nào đã mang ông về lại Tuy Phước, vì nơi đây quá đỗi là xa xôi, khuất nẻo. Cha tôi phải ngẫm nghĩ một lúc lâu, tìm cách trả lời, ngước nhìn lên những cụm mây xám trên đầu, một vài mảng trời xanh thoáng hiện. Sau cùng, xoay qua Hiền, ông bảo, "Nói với ổng... nói với ông ta rằng, đã lâu lắm rồi, tôi bị thương ở nơi đây."


Tom Bissell

Nguyễn Lộc trích và chuyển ngữ

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
VIETNAM, DEUX DOCUMENTAIRES sur France 2 et France 5 05/03/2024 - 01/06/2024 — France 2 et France 5
Repas solidaire du Comité de soutien à Tran To Nga 22/03/2024 - 26/04/2024 — Foyer Vietnam, 80 rue Monge, 75005 Paris, Métro Place Monge
Nouvel Obs, soirée Indochine, la colonisation oubliée 25/04/2024 18:30 - 22:00 — 67 av. Pierre Mendès France, 75013 Paris
France-Vietnam : un portail entre les cultures 17/05/2024 10:00 - 11:30 — via Zoom
CONFÉRENCE DÉBAT 24/05/2024 19:00 - 23:00 — la Médiathèque JP Melville (Paris 13e)
Ciné-club YDA: Bố già / Papa, pardon. 25/05/2024 16:00 - 18:15 — cinéma le Grand Action, 5 rue des Ecoles, 75005 Paris
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us
Kênh RSS
Giới thiệu Diễn Đàn Forum  

Để bạn đọc tiện theo dõi các tin mới, Diễn Đàn Forum cung cấp danh mục tin RSS :

www.diendan.org/DDF-cac-bai-moi/rss