Văn hoá truyền thống và Khoa học - 2
Văn hoá
truyền thống
và Khoa Học – 2
Hàn Thuỷ
Lần trước đã
trình bày cái nhìn tổng thể về quan
hệ giữa văn hoá truyền thống và khoa học,
đặt trong bối cảnh rộng hơn của quan hệ giữa văn hoá
« nhân văn » và văn hoá
« khoa học » (KH tự nhiên); và
đã có vài nhận định về hai hình
thức tiếp cận tri thức, sự tiếp cận bao trùm của
triết học và sự tiếp cận khu biệt, định lượng,
của khoa học.
Tiếp tục thế nào
đây ? Dĩ nhiên tác giả không thể ngông
cuồng bàn luận rộng hơn về « triết
Đông » và « triết Tây ».
Từ đầu đã xin giới hạn phạm vi của chủ đề
vào khoa học luận, và nếu có nói ra
ngoài thì cũng chỉ để xác định khung
cảnh mà thôi. Vậy tiếp đây sẽ tìm
hiểu và so sánh Đông/Tây trong chừng
mực có liên hệ đến chủ đề đó.
« Đông » ở đây xin hiểu là
Trung Quốc/ Ấn Độ/ Phật giáo, tuỳ văn cảnh. Tuy
nhiên như thế cũng sẽ quá dài cho một số
báo. Vì vậy bài này, sau khi nêu
ra vài khởi điểm « kinh điển »
trong cái nhìn so sánh, để nói tại
sao người viết đã không khởi đầu như thế ;
xin tiếp tục vài điều căn bản của cái nhận
thức luận « Tây học » trước. Rồi
sẽ đứng trên nhận thức luận đó để nhìn
về cái « Ta học » trong số sau.
Như thế chỉ vì nếu người viết bài này
còn miễn cưỡng được gọi là « Tây
học » thì về văn hoá truyền thống
phải hổ thẹn mà nói là « một
chỗ đất cắm dùi » cũng không có.
Tuyệt đối không có khả năng khởi đi từ vị
thế của Lão Trang, hay Khổng, hay Phật... để nhìn
và đánh giá khoa học hiện đại.
3. Một số phân biệt "Đông" / "Tây"
3.1. Chủ toàn /
chủ biệt
Nói tới "phương Đông" không thể không nhắc tới học giả Cao Xuân Huy (CXH), với "Tư tưởng phương Đông, gợi những điểm nhìn tham chiếu" 1, mà một luận đề nổi bật là : tư tưởng phương Đông thì chủ toàn, và tư tưởng phương Tây thì chủ biệt. Vậy có gì quan hệ với luận đề của người viết bài này như đã phát biểu tiểu đoạn 2.2. kỳ trước : Triết học khởi đầu là bao trùm, và KH khởi đầu là khu biệt ? tiểu đoạn đó nói về đối tượng của TH hay KH, còn học giả CXH chủ yếu nói về nhận thức luận : " Với phương thức chủ toàn, tư tưởng xuất phát từ toàn thể để đi đến bộ phận... toàn thể quyết định bộ phận...", và " Phương thức chủ biệt của tư tưởng xuất phát từ bộ phận để đi đến toàn thể... bộ phận quyết định toàn thể... " (tr. 83-84 sđd). Vậy hai phát biểu này khác nhau nhưng không độc lập, chúng có quan hệ trong chừng mực mà việc xác định đối tượng nhận thức có ảnh hưởng đến phương pháp nhận thức, và ngược lại.
Theo thiển ý, một hệ thống tiên đề của toán học hay của vật lý lý thuyết thì vừa không chủ toàn vừa không chủ biệt. Không phải toàn thể quyết định bộ phận, cũng không phải bộ phận quyết định toàn thể, mà : bộ phận và toàn thể đồng hiện hữu, các bộ phận "quyết định" lẫn nhau, và tổng hợp các quan hệ đó định nghĩa cùng một lúc vừa cái toàn thể, vừa các bộ phận. Thí dụ cổ xưa mà hoàn hảo nhất là hệ thống định đề xác lập không gian và các thực thể hình học của Euclide. Thao tác mô hình hoá là sáng tạo, và khai thác bằng diễn dịch, một hệ thống tiên đề như thế.
Mặt khác, thao tác thực nghiệm thì lại là vừa chủ toàn, vừa chủ biệt. Chủ toàn, trong nghĩa một hiện tượng KH riêng lẻ chỉ hiểu được bằng toàn thể lý thuyết KH, một tiên đoán lý thuyết về một hiện tượng cụ thể, để rồi sẽ thí nghiệm xem đúng hay sai, là đi từ toàn thể đến bộ phận bằng diễn dịch. Chủ biệt, trong nghĩa một quan sát hay thí nghiệm cụ thể đúng là chỉ thao tác trên một bộ phận. Rút kết luận trên kết quả thí nghiệm hay quan sát đó để chỉnh lý hay làm giàu thêm mô hình bằng quy nạp, thì đúng là đi từ bộ phận đến toàn thể.
Một khái niệm hẹp hơn khái niệm « chủ toàn » là khái niệm « hợp trội » (emergence), theo đó hợp trội là đặc tính có thể có cho một hệ thống cụ thể, do sự phức tạp của những quan hệ giữa các thành phần mà nảy sinh. Nhưng chỉ có thể coi đó là những tính chất riêng của cả hệ thống, không thể do nghiên cứu những thành phần đơn lẻ mà biết được. Khái niệm này xuất phát từ quan điểm « toàn thể » của lý thuyết hệ thống, cả « toàn thể » lẫn « chủ toàn » có lẽ đều có thể dịch qua tiếng Anh « holism ». Nhưng holism, trong nghĩa triết học, của CXH rất khác với holism trong khoa học hệ thống, mà bạn đọc có thể tìm hiểu rõ hơn trong một bài viết của GS Phan Đình Diệu 2
Tiếp cận
chủ toàn/chủ biệt là một cái nhìn
toàn cảnh sâu sắc, có thể thích đáng
trong việc khảo sát văn chương, đạo lý, v.v.
giữa các nền văn hoá. Nhưng có lẽ nó
đã không còn thích đáng cho chủ
đề khoa học luận.
3.2 Triết và Đạo
"Triết học" là một tân từ do người Nhật tạo ra, vào cuối thế kỷ 19. Theo từ điển thì « triết » là « trí đức », vậy « triết học » là để dịch nguyên ngữ philos-sophia : sự ái mộ trí đức (sagesse). Trước đó, ở Trung quốc và vùng văn hoá ảnh hưởng Trung quốc, chỉ có « Đạo học » chứ không làm gì có « triết học ». Còn Ấn độ thì sao ? Triết học Ấn độ xoay quanh khái niệm « giải phóng khỏi khổ đau », bằng nhiều « con đường » trong đó có bát chánh đạo của đạo Phật. « Đạo » của truyền thống Ấn độ, và « Đạo » của Khổng hay Lão Trang có những khác biệt ; đó thật là một vấn đề triết học lý thú. Ngoài ra hai truyền thống này tương đồng ở sự nhấn mạnh trước hết vào phương pháp xử thế ; với mình, với xã hội và với thiên nhiên (xử thế với thiên nhiên khác với tìm hiểu tự nhiên) ; nếu nói là để đạt đến « trí đức » cũng không sai, mặc dù mục đích tu đạo thường được nêu ra cao hơn thế. Tuy nhiên so với truyền thống « ái mộ » đơn thuần tại Hy Lạp, thì « Đạo » khác nhiều.
Dù sao sự phân
biệt giữa « triết » và « đạo »
đặt nặng trên phương diện đạo đức, tức về
quan hệ giữa con người với chính nó và
với xã hội. Như thế có lẽ đây cũng
không phải là điểm khởi đầu thích đáng
cho chủ đề khoa học luận và văn hoá truyền
thống, trong đó chủ điểm là tự nhiên và
quan hệ giữa con người với tự nhiên.
3.3 Nhận thức luận
Có lẽ không có một cách tiếp cận nào duy nhất và thích đáng để sắp xếp hay so sánh toàn bộ tư tưởng nhân loại. Do đó khi đã hạn chế đối tượng là khoa học luận, một bộ phận của nhận thức luận theo truyền thống triết học Âu châu, thì có lẽ cách tiếp cận thích hợp nhất với người viết bài này là dựa trên nhận thức luận Âu châu, để vừa tìm hiểu tinh thần khoa học, vừa tìm hiểu nhận thức luận theo truyền thống Ấn Độ và Trung Quốc. Có cần thêm chăng : những gì người viết học hỏi được về hai truyền thống văn hoá ấy, là các sách vở Anh/Mỹ và Pháp.. dễ hiểu là họ cũng theo hướng nghiên cứu đó... đây là một sự kiện tự nó nuôi dưỡng nó, không biết rằng như thế là hay, hay dở. Chỉ biết trong tình trạng học thuật chung và của riêng mình hiện nay, người viết không có chọn lựa nào khác.
Những truyền thống văn hoá Ấn Độ và Trung Quốc có gì khác trong phương pháp và thái độ nhận thức ? Hy vọng rằng khi cọ sát với truyền thống Âu châu ta có thể hiểu hơn những phương pháp và thái độ nhận thức đó, (và dĩ nhiên cả cái sánh đôi của nó là bản thể luận). Để cuối cùng, sau khi đã tìm hiểu những nghịch lý của cơ học lượng tử, mới có thể trở về câu hỏi mấu chốt của loạt bài này : nhận thức luận và bản thể luận của Khổng, Lão Trang, và nhất là của Phật giáo, có thể giúp ích gì cho việc nắm bắt khoa học hiện đại.
Vậy xin trở lại những
căn bản của nhận thức luận, mà công cụ chủ
yếu là lôgích học, lôgích hình
thức và lôgích biện chứng. Khoa học tự
nhiên, như là một diễn ngôn giả thiết và
diễn dịch (hypothético-déductif) chỉ dựa trên
luận lý hình thức. Nhưng trong quá khứ
điều này đã không rõ ràng như
thế. Vì vậy trong đoạn dưới đây, khi chủ
yếu bàn về lôgích hình thức (của
Aristote), có tìm cách đặt nó bên
cạnh lôgích biện chứng, để hy vọng có
ích hơn khi tìm hiểu tư tưởng cổ nhân,
khi mà lý luận không hẳn đã rạch
ròi dễ hiểu.
4. Lôgích hình thức và lôgích biện chứng
Các nguyên tắc
lôgích hình thức của Aristote khẳng định
những điều phải tuân thủ khi dùng nó để
nói về thế giới đời thường, với những giới
hạn của lôgích đó. Trong đời thường
thì một sự vật có thể vừa là A vừa
là không A, tuỳ sự vật được nhìn nhận
dưới những khía cạnh nào, hay/và ở thời
điểm nào, và lôgích hình thức
không áp dụng được cho sự thống nhất mâu
thuẫn ấy. Lôgích hình thức là môn
học về sự diễn ngôn thuần lý, không ai
có thể diễn ngôn thuần lý về mọi chuyện
trên đời, tuy vậy hiển nhiên là diện áp
dụng của nó rất lớn, lôgích hình
thức làm cơ sở cho toàn bộ nền KH tự nhiên.
Aristote đã nêu ra ba nguyên tắc sau đây
:
4.1. Nguyên tắc đồng nhất :
A chính là A, trong đó A là tên gọi 3 của một sự vật, một tập hợp sự vật bất kỳ, một thuộc tính, hay một quan hệ bất kỳ nào đó ; tên gọi này, ở những nơi khác nhau trong thế giới diễn ngôn (univers du discours), phải chỉ định cùng một thứ. Đây giản dị là đòi hỏi sự nhất quán trong tính đại diện của ngôn ngữ, nếu ở nơi này dùng biểu tượng "A" 4 để nói về một cái gì, thí dụ : Socrate là người (A = chuỗi ký tự "Socrate"), thì ở nơi khác "A" vẫn nói về cái đó, thí dụ : do đó Socrate sẽ chết (A = chuỗi ký tự "Socrate", vẫn chỉ định một con người ấy, tức cùng một thứ mà người nói và người nghe nhận ra được (theo Aristote nói, vì sự vật ấy có bản chất rõ ràng). Hiển nhiên không có nguyên tắc này thì loài người không thể có ngôn ngữ hay tư tưởng gì cả, vì không ai có thể hiểu ai.
Không
thể đối lập "A chính là A" của
lôgích hình thức, với "A và không
A" của lôgích biện chứng. Hai mệnh đề đó
nói về hai chuyện hoàn toàn khác nhau
: A trong mệnh đề đầu vừa là cái biểu đạt
(signifiant)
vừa là cái được biểu đạt
(signifié) 5
, và A trong mệnh đề sau là,
và chỉ có thể là, một thuộc tính
nào đó của một cái gì đó
được biểu đạt. Nguyên tắc đồng nhất không
hề khẳng định là vạn vật bất biến, nhưng
lôgích hình thức chỉ áp dụng được
cho những sự vật trong khung cảnh mà bản chất của
chúng không thay đổi 6,
vì bản chất của
một sự vật – đối tượng của diễn ngôn –
chính là cái làm cho người ta nhận
ra nó. Với lôgích biện chứng thì khi
bản chất của sự vật thay đổi, nó không còn
là nó nữa, mà vẫn là nó ; việc
nhận diện sự vật trong quá trình biến đổi
và gián đoạn này nằm ngoài lôgích
hình thức.
4.2 Nguyên tắc không mâu thuẫn :
"A và không A không thể cùng đúng". "A" ở đây là một mệnh đề, và mệnh đề đó không thể vừa đúng vừa sai. Mệnh đề ít nhất gồm chủ thể (sujet) và thuộc tính (attribut) ; Aristote viết : không thể nào mà trong cùng một hoàn cảnh một thuộc tính vừa thuộc về một chủ thể, vừa không thuộc về nó. Thí dụ : nếu mệnh đề "Socrate (chủ thể) còn sống (thuộc tính)" đúng, thì mệnh đề "Socrate không còn sống " là sai, hoặc ngược lại. Để ý điều kiện "trong cùng một hoàn cảnh", để thấy Aristote rất minh bạch về giới hạn áp dụng của lôgích hình thức, xác định bằng nguyên tắc đồng nhất. Vì nếu tính đến những hoàn cảnh khác nhau thì hiển nhiên hai mệnh đề của thí dụ trên đều có lúc đúng. Lôgích học ngày nay đã chứng minh là chỉ cần có một mệnh đề vừa đúng vừa sai thì bất cứ mệnh đề nào cũng vừa đúng vừa sai. Do đó nguyên tắc không mâu thuẫn này phải được tuân thủ một cách tuyệt đối phổ quát, cũng như nguyên tắc đầu, nếu không thì không thể có ngôn ngữ.
Mặt khác, chính nguyên tắc thứ hai này và mệnh đề lôgích biện chứng thường nghe "A và không A cùng hiện hữu", hay "sự thống nhất của hai mặt đối lập ", mới là có vẻ tuyệt đối ngược nhau. Chúng đều nói về một thuộc tính của một chủ thể, trong cùng một không gian và thời gian. Giải quyết thế nào đây ? chỉ có lối thoát nếu khái niệm phủ định hình thức (négation formelle) khác với khái niệm phủ định biện chứng (négation dialectique). Và đúng như thế. Cái "không A" của phủ định hình thức là bất kỳ một thuộc tính nào khác với "A" trong cùng một phạm trù ; thí dụ qua màu sắc thì : "không đen" luôn luôn có nghĩa, nó là sự có thể là bất cứ màu (hay pha trộn) gì khác : xanh, đỏ, tím, vàng 7 ....
Vậy phủ định biện chứng của màu đen là gì ? không thể nói chung chung như thế được, câu hỏi đó vô nghĩa. Lôgích biện chứng không áp dụng cho diễn ngôn, nó áp dụng cho những hoàn cảnh cụ thể (có thể rất bao quát, như cả một thời đại...) với những sự vật mà bản chất thay đổi (nói cách khác cần sử dụng lôgích biện chứng trong tầm nhìn mà sự vật thay đổi về bản chất, tuy rằng bản chất của một sự vật là cái người ta nhiều khi không dễ đồng ý với nhau). Vậy cái "không A" của phủ định biện chứng là cái sẽ (hoặc đã) thay thế cái "A" trong quá trình biến đổi của một chủ thể nhất định, dưới một góc nhìn nhất định theo đó "A" hiện (hoặc đã) là bản chất của chủ thể ấy. Vậy, tuỳ văn cảnh mà người ta vẫn phân biệt được hai loại phủ định, hình thức hay biện chứng ; diễn ngôn biện chứng vẫn có thể, và phải, tuân theo những nguyên tắc của lôgích hình thức. Đó là những nguyên tắc tối thiểu cho diễn ngôn.
Trên thực tế, tại một thời điểm nhất định, trước một chủ thể nhất định mà mọi người đồng ý là "A", mà nói rằng trong chủ thể đã có sẵn cái "không A" rồi, tức "A và không A đồng hiện hữu 8 ", thì ai cũng đồng ý thôi, không có gì vĩnh cửu. Nhưng nếu hỏi rằng cái "không A" là cái gì, và bao giờ bản chất của sự vật trở thành cái "không A" đó ? thì câu trả lời sẽ là một nhận định... biện chứng, nó tuỳ thuộc việc đánh giá toàn bộ biến chuyển của sự vật cụ thể ấy và môi trường chung quanh nó, theo hiểu biết của người nhận định. Đánh giá đó không thể gọi là KH theo những tiêu chuẩn của KH tự nhiên. Trên thực tế lịch sử có những kinh nghiệm đánh giá đúng, có những kinh nghiệm đánh giá sai, dù người nói ra có là thiên tài.
Một điểm rất thực
tế : trong lôgích hình thức thì mệnh
đề « không (không A) » chính
là mệnh đề A. Cái màu không phải
màu không đỏ thì chính là màu
đỏ vậy. Trong lôgích biện chứng dĩ nhiên
phủ định của phủ định của A không phải là
A. Để ý rằng « A » ở đây
có thể là một khái niệm, mà cũng
có thể là một sự vật, biến chuyển trong một
khung cảnh luôn luôn thay đổi. Như trên đã
nói, xác định « phủ đinh biện chứng
của A » cũng là xác định một khung
cảnh tư duy hay một môi trường cụ thể khác
trước, trong đó tư tưởng, hay sự vật, hiện hữu
và biến chuyển.
4.3. Nguyên tắc loại trừ trường hợp thứ ba :
Và cuối cùng là "hoặc A hoặc không A", A ở đây vẫn là một mệnh đề. Nói cách khác "bất cứ mệnh đề nào (có nghĩa) cũng hoặc đúng, hoặc sai". Aristote viết : "nếu một thuộc tính là sai cho một chủ thể nào đó, thì thuộc tính ngược lại phải đúng cho chủ thể ấy". Thí dụ : Socrate hoặc là người, hoặc Socrate không phải là người, một trong hai mệnh đề phải đúng. Nguyên tắc thứ hai nói trên không bắt buộc một mệnh đề là phải hoặc đúng hoặc sai ; nguyên tắc thứ ba này thêm vào sự bắt buộc ấy. Nhưng lôgích học ngày nay cho thấy trong một thế giới diễn ngôn phức tạp có vô tận chủ thể và thuộc tính thì nguyên tắc này sai, có những mệnh đề bất khả định (indécidable). Những mệnh đề loại này không có trong một thế giới diễn ngôn hữu hạn, tức là trong đại đa số trường hợp.
Mặt khác nguyên
tắc này thường bị vô tình hay cố ý
hiểu sai để nguỵ biện ; thí dụ : nó không
tốt, tức là nó xấu. Phủ định hình
thức của một thuộc tính không phải là
một thuộc tính ở đối cực (opposé), không
tốt có thể là xấu, mà cũng có thể
là dửng dưng. Nhiều khi không có tên
gọi cho phủ định hình thức của một khái
niệm. Không đen là... không đen, không
phải luôn luôn là trắng. Nhưng người
ta
thường bị lẫn lộn phủ định và đối cực, hiểu
một cách trực giác mơ hồ như cái khác
biệt nhất, và nó thường có tên ; có
thể cái nhìn phân cực này chịu ảnh
hưởng của hiện tượng lưỡng-tính phổ biến trên
trái đất : ngày/đêm, trời/trăng, đực/cái.
Nếu loài người có ba giới tính và
trái đất có hai mặt trăng thì sự nhầm
lẫn này có lẽ sẽ bớt đi nhiều.
4.4. Điều quan trọng trong tam đoạn luận :
Là người ai cũng phải chết, Socrate là người, vậy Socrate cũng sẽ phải chết. Tam đoạn luận này chúng ta ai cũng đã học qua. Thế nhưng có thực nó hoàn toàn chặt chẽ không ? Hoàn toàn chặt chẽ, nếu chúng ta chấp nhận hai mệnh đề đầu. Nhưng khi phân tích kỹ chúng ta sẽ thấy có cái gì không đơn giản. Sao nói được là người nào cũng phải chết ? Đây là một sự quy nạp dựa trên quan sát, cũng như biết sáng mai mặt trời sẽ lên vì trong quá khứ đã luôn như thế. Sao nói được Socrate là người ? Chỉ có thể nói thế nếu chấp nhận có những đặc tính chủ yếu làm cho một sinh vật thành con người, và có những đặc tính thứ yếu làm thành một kẻ đặc thù « Socrate ».
Những điều này
cho thấy, lý luận hình thức vừa hoàn
toàn chặt chẽ, vừa hoàn toàn « vô
sinh » (stérile). Nó chỉ có ích
với những tiên đề quy nạp giàu ý nghĩa,
và với điều kiện là trường hợp cụ thể
được khảo sát có thể thích ứng với
tiên đề đó qua một số đặc tính hữu
hạn, theo một quy luật nào đó. Cả hai điều
này nằm ngoài luận lý hình thức.
*
Tóm lại, lôgích hình thức và lôgích biện chứng không hề đối lập, chúng nằm ở hai tầng khác nhau của ngôn ngữ. Diễn ngôn biện chứng là một hình thức lý luận rất phức tạp, với đối tượng là những sự vật có thể thay đổi bản chất, do đó lại càng cần vận dụng chính xác lôgích hình thức. Ở đây đã nhấn mạnh tính đơn giản, hiển nhiên, cơ bản, và phổ quát, của lôgích hình thức, nhân đó có so sánh với lôgích biện chứng, chứ không nói gì thêm về nó, thí dụ như lượng biến thành chất... mà đã nhiều nơi nói đến.
Hàn Thuỷ
1 Di cảo, nxb Văn Học ; 1995, Nguyễn Huệ Chi chủ biên.
2 Phan Đình Diệu : Góp vài suy nghĩ để cùng tư duy tiếp tục về đổi mới. Hội thảo hè 2005 ; http://hoithao.viet-studies.org/
3 Lôgích của Aristote được đời sau gọi là lôgích hình thức, vì ông chỉ bàn về hình thức của các mệnh đề ; chính vì thế mà tầm áp dụng của nó rất phổ quát.
4 Do đó, "A" trong mệnh đề của diễn ngôn về lôgích này là cái biểu đạt của cái biểu đạt ; " A " có thể là bất cứ biểu tượng ngôn ngữ nào, "Socrates", hay "anh", hay "tôi"... như một chuỗi chữ cái ; cái được biểu đạt là con người xương thịt tên Socrates, hay bản thân anh, hay bản thân tôi. Việc dùng chữ "A" này là từ văn bản gốc của Aristote, ông cũng không phải người đầu tiên viết như vậy, nó chứng tỏ trình độ trừu tượng ghê gớm của người Hy Lạp thời ấy.
5 Dĩ nhiên ! vì chính nguyên tắc này bảo rằng sự gắn bó giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt trong ngôn ngữ là phải trước sau như một, không được thay ngựa giữa dòng, thế thôi.
6 Do đó, toán học, con đẻ của lôgích hình thức, chỉ giúp khảo sát được sự biến đổi liên tục về lượng. Một ngoại lệ là « lý thuyết tai biến » của René Thom, được áp dụng trong những nghiên cứu về phát sinh hình thái. Việc áp dụng lý thuyết này còn thiếu khía cạnh định lượng, cho nên nó chỉ giải thích được mà không tiên đoán được.
7 Đồng thời nó không phải là một màu nào cụ thể. Màu xanh thì không đen, nhưng màu không đen không phải là màu xanh.
8 Để ý là biểu tượng "A" trong mệnh đề "A và không A đồng hiện hữu" vẫn tuân theo nguyên tắc đồng nhất của lôgích hình thức, nếu không như thế thì ngay cả việc nói về lôgích biện chứng cũng bất khả.
Các thao tác trên Tài liệu