Tôi đọc thơ ở nước ngoài
Đúng ra thì năm 1999 tôi đã có cơ
hội ra nước ngoài đọc thơ. Nhưng đó là một
« quả pháo xịt » : chương
trình giới thiệu văn học đương đại Việt Nam do
« Nhà văn hoá thế
giới » Berlin tổ chức khá công phu trong khuôn
khổ « Năm văn hoá VN »
đã chỉ có mặt vài nhà văn Việt Nam hải ngoại và
thêm nhà thơ Lê Đạt lúc ấy
đang ở Pháp... Còn các nhà văn
trong nước được mời và được giới thiệu trân trọng
trong brochure của Nhà văn hoá thế giới
thì không ai được phép xuất cảnh. Chỉ vì
một tin... vịt truyền đi trong giới hữu trách, nghe
đâu xuất phát từ sứ quán VN tại Đức :
«Tụi nhà văn phản động trong nước và
hải ngoại gặp nhau ở đây sẽ nhân cơ hội ra
một tuyên bố về nhân quyền ».
Tôi là người đầu tiên trong số các nhà văn trong nước được mời đi Đức trong dịp ấy bị từ chối quyền xuất ngoại (vì đối với những người "có trách nhiệm" thì "tiền sự lưu truyền văn hoá phẩm phản động" 39 tháng tù khá nguy hiểm cho an ninh quốc gia). Nguyễn Duy thì hào hứng trả lời báo Lao Động rằng anh sẽ nhân dịp sang Đức mà nhảy đại qua... Kosovo để làm phóng sự chiến trường cho bản báo. Sau đó thấy anh im re.
Sau này được biết buổi giới thiệu thơ tôi tại Berlin vẫn được tiến hành, bản tiếng Việt do anh Trương Hồng Quang, tiến sĩ văn học, đọc... giùm tác giả (từ cái duyên ấy, tôi với anh sẽ thành chiến hữu : hiện nay chúng tôi là thành viên Ban biên tập Talawas Chủ nhật - phụ trang chuyên giới thiệu sáng tác văn học của mạng Talawas), một bạn người Đức đọc bản dịch tiếng Đức của chị Thái Kim Lan.
Chuyến xuất ngoại đầu tiên của tôi là vào mùa thu năm 2000, nhờ một học bổng "dịch giả lưu trú" của Bộ Văn hoá Truyền thông Pháp và phía trong nước thì có sự can thiệp của một nữ đồng nghiệp mà tiếng nói được "cơ quan chức năng" tin nghe. Buổi giao tiếp đầu tiên của tôi với công chúng nước ngoài diễn ra trong dịp ấy, dẫu rất khiêm tốn nhưng tôi sẽ nhớ mãi. Đó là buổi trao đổi về việc dịch thơ, cụ thể là qua tập Thơ Apollinaire song ngữ của tôi (xuất bản trong nước năm 1997). Nhà phê bình văn học Đặng Tiến, giảng viên Khoa Đông phương học của Đại học Paris 7, người tổ chức buổi trao đổi, đã cẩn thận photocopy một số trang trong quyển sách phát cho cử toạ (nghiên cứu sinh văn học Việt Nam của trường cùng một số nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu người Việt - trong số đó có nhà sử học và dịch giả Lê Thành Khôi) và cầm cương cuộc trao đổi rất khéo léo. Ông cũng "cẩn thận" nhắc nhở mọi người " không đi ra ngoài chuyện dịch thuật " (hẳn là để tránh những rắc rối có thể xảy ra, cho tôi cũng như cho chính ông). Thế nhưng, cuối buổi trao đổi, lại có không ít tiếng nói đề nghị tôi đọc thơ. May là trước đó tôi đã có vài bài được người bạn vong niên Dương Tường dịch ra tiếng Pháp. Tôi bèn đọc bài Mùi mưa hay bài thơ của M. (l'Odeur de la pluie ou le poème de M.) cả hai thứ tiếng. Tôi cảm nhận đươc sự xúc động của người nghe trong và sau khi tôi đọc bài thơ ấy. Bài thơ nói về tâm trạng của đôi vợ chồng đoàn tụ sau hơn một nghìn đêm « mưa trắng đêm » khi « anh đánh mất mùi anh trên những sàn đá lạ ». Bài này sau đó đã được giới thiệu cùng một số bài thơ khác của tôi trong tạp chí Europe (Avril 2002), tạp chí văn chương uy tín của Pháp. Thơ do Dương Tường và Trương Quang Đệ dịch. Người giới thiệu là nhà thơ nữ Marie Etienne, nguyên ủy viên chấp hành của Hội La Maison des Écrivains, biên tập viên báo Aujourd'hui Poème. Trong một lá thư cho tôi bà viết : « Điều mà tôi yêu trong các bài thơ của Hoàng Hưng, đó là ông đã phục dựng cái thực tại khách quan, bên ngoài thông qua lăng kính của tinh thần, của cái thực tại bên trong, chủ quan, mộng mị và nhạy cảm. Cho nên trong thơ ông có những ghi nhận chính xác về các sự vật, nơi chốn hay biến cố, nhưng những cái đó truyền đạt tới chúng ta đã được phóng đại, biến dạng, sửa đổi bởi những gì mà tác giả nhìn thấy và bởi những gì rung lên trong ông ».
Nghĩ rằng "đầu xuôi đuôi lọt", song đến khi được hai trường đại học Mỹ University of Washington và Columbia College Chicago mời vào đầu năm 2003 thì tôi đã phải quyết định xin nghỉ hưu trước hạn để chắc chắn không bị cản trở từ phía cơ quan chủ quản. Quả đúng như tôi dự đoán : ông tổng biên tập báo Lao Động, nơi tôi làm việc, cho biết nếu tôi còn là người của báo thì chắc chắn sẽ không được phép đi Mỹ (thời điểm ấy nhiều nhân vật trong nước được mời đi Mỹ với tư cách cá nhân chứ không qua "con đường tổ chức" đã bị từ chối quyền xuất cảnh).
Ngoài mối lo trên, tôi còn lo nhiều về khả năng giao tiếp của mình với công chúng Mỹ. Tuy đã sống phần lớn bằng nghề dịch sách báo tiếng Anh từ 15 năm, và đã tự dịch một ít thơ của chính mình in trên tạp chí Mỹ, đây là lần đầu tiên tôi phải viết một tiểu luận văn học bằng tiếng Mỹ để đọc và trao đổi trước một thính đường người Mỹ, mà lại là giới đại học. Với một người tự học tiếng Anh chỉ để đọc và dịch sang tiếng Việt như tôi, đó là cả một thử thách.
Phải thành thực thú nhận rằng bài tiểu luận tiếng Anh với đề tài « quá trình hiện đại hoá thơ Việt Nam và con đường thơ của riêng tôi » dài khoảng 22 trang A4 đã được hoàn thành một cách vất vả, nhờ sự giúp đỡ rất tận tình của hai người bạn là nhà văn Châu Diên (tức nhà giáo Phạm Toàn ở Trung tâm Giáo dục thực nghiệm) và Giáo sư Mart Stewart ở Đại học Western Washington - ông trở thành bạn tôi sau một năm làm việc về chương trình Hoa Kỳ học ở Việt Nam và rồi lại thành chồng của nhà văn Lý Lan ở TPHCM. Còn người giúp tôi luyện phát âm cho đúng giọng Mỹ là anh bạn trẻ Adam dạy ở Trung tâm Anh ngữ Apollo Hà Nội. Sau mấy ngày nhận "trò chuyện có thù lao" tại nhà tôi để giúp tôi luyện giọng, biết về con người và công việc của tôi, Adam đã thành người bạn vong niên đáng yêu để đàm thoại miễn phí .
"Nai nịt" như thế, mà vẫn hết sức hồi hộp trước buổi "ra quân" đầu tiên.
Tôi nói chuyện tại Trung tâm Đông Nam Á của Trường Nghiên cứu Quốc tế thuộc Đại học Bang Washington ở Seatle trong một chương trình ngoại khoá, giảng viên và sinh viên đươc thông báo đến nghe tùy thích. Nhũng buổi như thế ở đại học Mỹ thường chỉ đủ thính giả trong phạm vi một lớp học. Với Thơ lại càng không trông mong hơn.
Điều bất ngờ không phải ở số người dự, mà lại ở chỗ khác : nhiệt tình của thính giả. Theo quy định thông thường, một buổi thuyết trình loại như thế chỉ gói gọn trong vòng một giờ, diễn giả trình bày khoảng 40 phút, 20 phút còn lại dành cho "Q-A" (hỏi đáp). Nhưng tôi đọc xong bài viết của mình thì chuông báo hết giờ ! (Vì biết đây có thể là lần đầu tiên thính giả của mình được nghe những thông tin về thơ Việt Nam, tôi phải dẫn giải dài dòng về lịch sử phát triển của nó trước khi vào hai trọng tâm là « quá trình hiện đại hoá thơ từ sau 1954 » và « con đường thơ của riêng tôi »). Điều tôi nhấn mạnh trong bài này là tinh thần giải phóng thơ khỏi nhiệm vụ phục vụ chính trị và trung thành với truyền thống mà Đảng Cộng Sản luôn đặt lên hàng đầu cho văn nghệ sĩ, là tinh thần mở cửa tiếp thu tinh hoa thơ hiện đại thế giới của các nhà thơ Nhân Văn - Giai phẩm và một số nhà thơ trẻ sau "Đổi mới". Tôi coi những nỗ lực hiện đại hoá thơ của họ là đóng góp vào việc giải phóng tư duy, giải phóng cá nhân, rất cần thiết trong quá trình dân chủ hoá và xây dựng xã hội công dân của Việt Nam.
Có lẽ nhận thấy sự hào hứng của người nghe, Ban tổ chức quyết định cứ cho tiếp tục. Thế là cuộc Q-A diễn ra ngoài giờ quy định, khá sôi nổi, kéo dài đến gần hết giờ thứ hai. Thính giả hỏi về nhiều vấn đề : quan hệ thơ truyền thống và thơ hiện đại, thế hệ thơ trẻ hiện nay, những khó khăn trong việc dịch thơ. Sau khi nghe tôi đọc thơ mình bản tiếng Anh (do Dương Tường, Linh Đinh - nhà thơ Mỹ gốc Việt và chính tôi dịch - với sự nhuận sắc của nhà thơ Mỹ Joseph Duemer), thính giả đề nghị tôi đọc nguyên bản tiếng Việt. Nhạc tính độc đáo của thơ Việt rõ ràng gây ấn tượng với họ. Một ghi nhận đáng lưu tâm : ngay cả giới trí thức đại học cũng tỏ ra ngại ngần vì "sự khó đọc" của thơ hiện đại. Trả lời băn khoăn của họ về chuyện này, tôi nói : « Khi đọc thơ hiện đại, các bạn hãy vượt qua thói quen đọc thứ thơ lười (lazy poetry), là thứ thơ chỉ cho mình đọc một cách thụ động, để tích cực tham dự vào bài thơ với những phát hiện của riêng mình ». Tôi dẫn chứng bài Đường phố 1 của tôi (trong tập Người đi tìm mặt xuất bản năm 1994). Khi tập thơ ra đời, vị viện trưởng Viện Văn học thời ấy, trong bài viết có những lời ưu ái với tôi, đã trích toàn bộ bài thơ và nói rằng ông thực sự không hiểu chút nào ! Trong khi ấy, các bạn trẻ từng sống ở Sài Gòn nhận ra ngay những ấn tượng về đường phố hỗn loạn của thành phố thời hậu chiến.
Mở ngoặc về việc "nói tiếng Mỹ" của tôi. Tuy thấy trong lớp học có một số nghiên cứu sinh thạc sĩ và tiến sĩ người Việt, tôi vẫn quyết định tự mình xoay xoả mà không cầu viện. Tôi nói chậm và ngắn nhưng tự tin ở việc chọn đúng từ ngữ thích hợp để diễn đạt ý mình cùng với sức truyền cảm trực tiếp của tiếng nói mình. Tôi cũng không quên xin lỗi thính giả về tiếng Mỹ của một người tự học. Mọi người thích thú khi biết thời gian tự học của tôi chủ yếu là ... ở trong tù, với tài liệu chủ yếu là... những số báo Moscow News (nhật báo tiếng Anh của Liên Xô, ấn phẩm tiếng Anh duy nhất lưu hành chính thức tại Việt Nam hồi trước " Đổi mới", mà anh ruột tôi, một bác sĩ làm việc tại "Ban bảo vệ sức khoẻ Trung ương" gửi vào).
Bài nói chuyện của tôi đã khiến nhà thơ Paul Hoover, chủ biên tuyển tập nổi tiếng Thơ Hậu hiện đại Mỹ quan tâm đến thơ Việt Nam. Ông đã đem in nó vào tạp chí văn học New American Writing (Sáng tác mới) do ông chủ biên, vào năm 2003 (có thể đây là một trong số tiểu luận đầu tiên về văn học đương đại Việt Nam viết từ trong nước Việt Nam thống nhất được in ở Mỹ) và sau đó ông đã cùng nhà thơ Nguyễn Đỗ bạn tôi làm một tuyển thơ đương đại Việt Nam và một tuyển thơ Nguyễn Trãi.
Cũng chính Paul Hoover là người viết bài bình luận hai bài thơ Người về và Mùi mưa hay bài thơ của M. (1) của tôi làm tài liệu cho lớp Sáng tác Văn học của trường Columbia College Chicago. Sau đây là một đoạn trong bài viết :
« Thơ của Hưng làm tôi nhớ đến những tiểu thuyết hư cấu mang tính hiện sinh. Chúng xảy ra trong một thời gian rất rõ nhưng cũng có một tính cách phi thời gian. Nhiều năm tháng được nén lại trong một bài thơ trữ tình ngắn nói về mất mát và đau khổ. Con người đau khổ có thân xác và kinh nghiệm cụ thể, nhưng theo một nghĩa khác, cũng là một gương mặt tiêu biểu. Tôi nghĩ đến cuốn tiểu thuyết “Người đàn bà trong cồn cát” của tác giả Nhật Bản Kobo Abe. Một ngày nọ có một người đàn ông trượt chân thụt xuống một vực cát trong khi đang bước đi giữa sương mù ở một nơi xa xôi. Thế rồi ông ta trở thành chồng của một trong số nhiều người đàn bà của cồn cát mà nghề nghiệp là xúc cát suốt đời. Thực vậy, ông ta đã tìm ra số phận của chính mình, không lay chuyển được, không thể nào thoát khỏi (và cuối cùng thì có lẽ ông không muốn thoát khỏi). Chúng ta được ban cho phải sống trong những thế giới đầy đau khổ. Nhưng con tim vẫn có khả năng trỗi dậy, mặc dù đã bị chôn vùi nhiều năm tháng (“Mùi mưa”) ; một cái vỗ vai có thể thình lình thức tỉnh ta trở về với đời sống từng đã nhìn lướt qua mặt ta.
Tôi không biết có bài thơ nào khác để so sánh với thơ Hưng. Bên dưới cái bề mặt bình thản, kể chuyện, thơ (Hưng) rất phức tạp và xúc động. Có lẽ trong đời thực, Hưng đã cảm thấy bị lưu đày giữa ngay xứ sở của mình và bị dời khỏi những hoàn cảnh sống và làm việc của chính mình ».
Columbia College Chicago là một trong những trường đại học có uy tín về các khoa văn hoá nghệ thuật (liberal arts), có lớp cử nhân và cao học sáng tác văn học (creative writing). Hàng năm trường mở liên hoan Thơ Mùa Xuân, mời các nhà thơ có tiếng trong nước đến đọc thơ cùng với các nhà thơ trẻ của trường. Tôi là nhà thơ người nước ngoài đầu tiên được mời tham dự chương trình này. Trong một tuần lễ ở Chicago, tôi có nhiều buổi đọc thơ ở trong và ngoài trường, nhưng quan trọng nhất là buổi đọc trên hội trường. Khi tôi bước vào, hội trường đã kín chỗ và tiếng những ca khúc chiến đấu của Việt Nam thời chống Mỹ đang vang vang trên loa phát thanh. Ban tổ chức chuẩn bị khá chu đáo : bản tiếng Anh của những bài thơ tôi đọc được phóng lên màn hình treo bên trên đầu tôi, để khi tôi đọc tiếng Việt, thính giả theo dõi đựoc ý nghĩa câu thơ cùng lúc thưởng thức nhạc điệu của nguyên tác. (Nhạc điệu của thơ tiếng Việt quan trọng không kém ngữ nghĩa của nó. Sau khi nghe tôi đọc thơ tại một nhà sách ở Chicago, một trí thức Việt kiều tới gặp tôi và nói : « Tôi đã đọc những bài thơ này bằng mắt, thơ rất hay, nhưng không ngờ khi nghe tác giả đọc mình lại thấy mạnh mẽ đến thế »).
Cũng như ở Seatle, phần hỏi đáp sau khi đọc thơ diễn ra rất sôi nổi, nhưng thính giả - chủ yếu là sinh viên - quan tâm nhiều hơn đến hoàn cảnh sáng tác của tác giả. Sau buổi đọc, một số em lên sân khấu chào tôi và bày tỏ sự xúc động của mình khi nghe thơ. Tôi thấy họ đều rất chân thành. Và, ở đây cũng như ở hầu hết các buổi đọc thơ của tôi ở Mỹ, Đức, Pháp trước và sau đó, hai bài thơ Người về và Mùi mưa được sự chia sẻ nhiều nhất của thính giả. Có lẽ vì những bài thơ ấy nói lên tâm trạng khá phổ biến của con người trong thời đại hiện nay, như nhà thơ Robert Creeley (1926-2005), nguyên Đồng Chủ tịch Viện Hàn lâm thơ Hoa Kỳ, đã viết trong một lá thư gửi cho tôi năm 2001 : « Đọc bản dịch các bài thơ của ông, tôi rất xúc động vì những xúc cảm về sự lạc lõng và mất mát trong đó. Chắc là cả thế giới chúng ta đã đi đến cùng một chỗ đắng cay như thế. »
Sau khi rời Chicago đi New York, tôi viết thư tới GS Tom Nawrocki, người tổ chức chưong trình Thơ mùa Xuân để cảm ơn thì được ông trả lời : « Chính chúng tôi phải cảm ơn ông đã đem đến cho trường một không khí thơ sôi nổi. Nhiều ngày sau khi ông chia tay, sinh viên còn bàn tán về những buổi đọc thơ của ông. Chúng tôi đã học được nhiều điều ở ông ».
Năm 2005, tôi được Khoa Viết văn của trường University of San Francisco mời sang đọc thơ và nhân đó lại có buổi trao đổi rất thú vị về tập bản thảo Ác mộng (30 bài thơ về thời gian tù đày) với sinh viên lớp Văn học Việt Nam tại trường UCLA Berkeley do cô giáo Nguyễn Nguyệt Cầm hướng dẫn. Tôi thực sự xúc động trước sự quan tâm và hiểu biết về Việt Nam của những bạn trẻ người Việt sinh trưởng trên đât Mỹ, phần lớn chưa có dịp về thăm quê cha đất tổ. Tôi cũng thực sự sung sướng cùng với vợ tôi tham dự đêm liên hoan rất vui vẻ với các em sinh viên buổi tối hôm ấy tại ngôi nhà xinh đẹp trên đồi của vợ chồng Peter Zinnoman - Nguyễn Nguyệt Cầm. Chúng tôi đã trẻ lại trong không khí đầy sức sống của các em. Nhưng sau những phút ấy tôi không khỏi trạnh lòng. Ngay tại đất nước mình, do sự kỳ thị gay gắt đối với những cây bút bị coi là "chiên ghẻ ", mình chưa bao giờ có những phút hạnh phúc được chia sẻ với bạn đọc như thế. (Mãi cho đến cuối năm 2005, điều ấy mới tới với tôi, sau 45 năm xuất hiện trên thi đàn, đó là buổi nói chuyện tại Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội và buổi đọc thơ tại Viện Goethe Hà Nội - nhưng mà Viện Goethe thì vẫn là "lãnh thổ ngoại quôc" trên đất Việt Nam !)
Cuối năm 2005, tôi bất ngờ nhận được lời mời tham dự Vietnam Kongress (Hội nghị Việt Nam) do Nhà hát Volksbuhne (Nhân dân) Berlin tổ chức. Lời mời được đưa ra rất bột phát sau khi anh Leineweber Goetz, người tổ chức hội nghị cùng với ông Franz Xavier Augustin, Viện trưỏng Viện Goethe Hà Nội đọc được các bản dịch tiếng Anh thơ tôi (trong số đó khoảng 30 bài in trên các tạp chí văn học khác nhau của Mỹ, Canada). Điều đáng kể trong cuộc này là : trong chương trình hội nghị kéo dài từ trưa đến đêm, gồm nhiều cuộc nói chuyện, trao đổi với sự góp mặt của những người liên quan đến Việt Nam đến từ nhiều nước, Ban tổ chức cố tình xếp tôi là người cuối cùng, và thơ của tôi lại đi sau ngay bài nói chuyện của nhà báo Bùi Tín ! Tôi hơi lo vì thấy giờ của mình cứ bị đẩy lui mãi do các tiết mục trước kéo quá lố. Lại thêm ngay trước đó, bài nói của anh Bùi Tín bị hai kẻ gây sự làm mất vui. Mãi đến hơn 8 giờ tồi, tôi mới được đăng đàn. Tuy đã muộn, số người ở lại nghe thơ cũng còn khá đông. Trong đó tôi thấy có cả hai nhân vật "gây sự" kia. Tôi đã sẵn sàng chuẩn bị ứng xử với tình huống xấu, vì hôm nay tôi sẽ nói về tập Ác Mộng sau khi 3 lần bản thảo bị các nhà xuất bản trong nước từ chối. "Quá tam ba bận", tôi chỉ kiên nhẫn đến thế thôi. Giờ là lúc tôi tự cho phép cho mình công bố rộng rãi những bài thơ gan ruột ấy tại bất cứ nơi nào, dưới bất cứ hình thức nào có thể. (Sau đó Diễn Đàn là cơ quan truyền thông đầu tiên giới thiệu Ác mộng, tháng 12.2005, tiếp theo là Talawas công bố đầy đủ trên trang Chủ nhật).
Nhưng may mắn là buổi đọc thơ diễn ra suôn sẻ, hào hứng. Thú vị nhất có lẽ là khi tôi đọc bài Một ngày kể chuyện đôi trai gái yêu nhau bằng tiếng gõ qua bức tường phòng giam (Goetz đọc bản tiếng Anh rất đạt, anh là một nhà hoạt động sân khấu mà).
Trong các buổi đọc thơ ở nước ngoài, phần trao đổi thường không hạn chế trong chuyện văn chương, mà người nghe bao giờ cũng muốn biết chuyện "thế sự" là bối cảnh của tác phẩm. Trường hợp của tôi, một cây bút độc lập không thuộc tổ chức văn học chính thống nào và "có vấn đề", được mời đích danh với tư cách hoàn toàn cá nhân, thường gặp phải những câu hỏi nhạy cảm. Sau đây là một số câu hỏi tôi cho là lý thú và thấy mình cũng đã trả lời thoả đáng.
Tại lớp Đông phương học thuộc Đại học Paris 7 năm 2000, một thính giả hỏi tôi một câu mà nhiều người coi là một cái bẫy : « Trong nước, ông có được quyền tự do sáng tác không ? ». Tôi trả lời không cần suy nghĩ : « Người nghệ sĩ chân chính không bao giờ đợi ai ban cho mình quyền tự do sáng tạo. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, anh ta cũng có sự tự do trong nội tâm. Quyền thiêng liêng ấy chỉ mất khi anh tự nguyện để người ta tước đoạt ». Cũng đề tài này, ở trường Columbia College Chicago một giảng viên khoa viết văn hỏi : « Từ nước mình sang Hoa Kỳ, ông đánh giá thế nào về quyền tự do sáng tác ở đây ? ». Tôi đáp : « Ở đâu thì người sáng tác cũng phải kháng cự sự chi phối của ngoại cảnh. Nếu ở các nước Cộng sản, đó là sự ràng buộc về chính trị, thì ở các nước tư bản, là sự khuynh loát của đồng tiền. Các nhà văn ở Mỹ rõ ràng phải vượt qua thách thức của việc chạy theo thị trường để bảo vệ tiếng nói chân thực của riêng mình ».
Trong buổi trao đổi về tập thơ Ác mộng của tôi tại lớp Văn học Việt Nam của trường Đại học Berkeley, các em hỏi rất nhiều điều trong và ngoài tác phẩm. Một em đề nghị tôi so sánh thơ của mình với tập Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh. Tôi cười lớn và nói đùa : « Nếu ở VN mà đặt một câu hỏi như thế thì sẽ bị đánh đòn vì tội phạm thượng đấy ! » Cả lớp cười ồ, nhưng tôi làm nghiêm ngay : « Tôi nghĩ không nên so sánh, vì bản chất hai tập thơ khác nhau : tôi chỉ là một con người bình thường chủ ý chỉ là ghi lại tâm sự riêng tư trong một nghịch cảnh, còn Hồ Chí Minh, dù ta thích hay không thích, cũng là một vĩ nhân lịch sử, một nhà cách mạng, trong hoàn cảnh ngục tù ông vẫn luôn nghĩ đến mục tiêu chiến đấu của mình. » (2)
Lại có một em hỏi : « Ông nghĩ Việt Nam có thực sự đổi mới không ? » Tôi trả lời : « Chỉ một việc hôm nay tôi ngồi đây trước các bạn đã chứng tỏ Việt Nam có đổi mới. Có điều là những người tâm huyết với dân tộc bao giờ cũng sốt ruột, muốn thúc đẩy quá trình đổi mới nhanh lên, nhanh lên nữa, triệt để hơn nữa, để đất nước không tụt hậu quá xa so với người ta ».
Có thể nói điều tôi tâm đắc nhất từ hàng chục buổi đọc thơ ở các nơi khác nhau ở Pháp, Mỹ, Đức : phẩm chất nhân văn của tác phẩm và bản lĩnh độc lập của nhà văn là cái thuyết phục mọi người, vượt qua mọi biên giới ngôn ngữ.
Hoàng Hưng
(Một phần bài này đã in trên tạp chí Trí Tuệ của Hiệp hội các trường Đại học - Cao đẳng ngoài công lập Việt Nam, số 2 năm 2006. BBT Trí Tuệ có sửa, cắt vài chỗ "nhạy cảm" trong nguyên bản. Bản đăng trên đây do tác giả gửi thẳng cho DĐ)
Ảnh
: HH đọc thơ ở Columbia College Chicago
(1)
Xem hai bài này trong Diễn Đàn số 157.
(2) Thực tế là không ít người khi đọc Ác mộng lập tức liên tưởng đến Nhật ký trong tù. Đơn cử GS Phong Lê, Viện trưởng Viện Văn học trong tiểu luận : Thơ đến với người và thơ đi tìm mình viết sau khi đọc một số bài Ác mộng in trong tập Người đi tìm mặt của tôi : « Viết cho mình, chỉ riêng mình thôi, dường như đó cũng là câu chuyện của tác phẩm lớn Nhật ký trong tù. Tác giả thật ra không hoàn toàn quên tập thơ mình đã viết, như trước đây ta vẫn nghĩ, nhưng quả là ít quan tâm đến nó. Sau một chữ hoàn chấm dứt bài số 134, là bài Mới ra tù tập leo núi. Bài thơ đánh dấu dứt khoát sự chuyển đoạn cuộc đời Bác; từ đây là ra tù, là thôi cả nhật ký và thơ, để bước vào trường hoạt động cách mạng.
Ngâm thơ ta vốn không ham
Quả là vậy. Hành động thơ ở đây quả như một chuyện bất đắc dĩ. Nhưng rồi chính những ngẫu nhiên của cuộc sống đã dồn thúc cho sự ra đời cả một tập thơ, với những bài thơ, những câu :
Hoà lệ thành thơ tả nỗi này
...
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn
Hồ Chí Minh lớn ở nhiều bài thơ khác, như cách ta từng phân tích lâu nay. Nhưng tôi nghĩ tác giả vẫn lớn, và càng lớn ở chính những câu này. Cái thật thường đi với cái đẹp. Cái nội tâm thầm kín, sâu xa thường khiến ta rung động và xúc động.
Hoàng Hưng là “Người đi tìm mặt” mình - như tên tập thơ mới đây nhất của anh. Là người đã viết đoạn thơ tôi vừa dẫn. Tôi cố rứt ra khỏi tâm thế băn khoăn khi đọc đoạn thơ trên, nhiều lần, bởi sự ám ảnh về một cái gì còn trong phía tối của cả nội tâm và ngoại giới. Nhưng Hoàng Hưng trong tập thơ này, cũng là người có nhiều bài thơ sáng sủa, sáng suốt, dễ hiểu, và tôi tin đó là thơ đến được với nhiều người. Những bài Người về, Mộng, Đêm vượt đèo trong tập Người đi tìm mặt là những bài thơ hay, không chỉ vì sự dễ hiểu. Bài thơ như sự chưng cất toàn bộ kinh nghiệm, ấn tượng, cảm xúc của cả một phần đời trong thời gian và không gian của chính tác giả, và hẳn không chỉ riêng tác giả. Cuộc đời dẫu bất cứ lúc nào, quả chẳng bao giờ hết được những chuyện bất an, và bất an đâu phải chỉ là ngã cầu thang, đâm xe máy, đắm đò, bị xin đểu, hoặc trấn lột... mà còn biết bao ám ảnh khác trong đời sống tinh thần. Tôi hiểu vì sao Chủ nghĩa hiện đại, cái “modernisme” mà ta kinh sợ và phê phán gay gắt non nửa thế kỷ, vẫn cứ là một hiện tượng thế giới; và những người không tên trong Mê cung của Alain Robbe Grillet. Người xa lạ của Albert Camus, hoặc nhân vật chỉ có tên K. trong Vụ án của Franz Kafka sống trong những âu lo, thảng thốt, không biết thân phận của mình sẽ ra sao trong bao hiểm hoạ vô hình, lại nói được bao vấn đề lớn lao và nghiêm chỉnh của thế kỷ.
(Văn học trong hành trình tinh thần của con người, NXB Lao Động, 1994)
Sốt
Tôi bồng
bềnh tôi nở chật không gian
Tôi nhìn
tôi bay khỏi đất.
Cơn sốt nào
đây cơ thể rùng rùng ù tai
chóng
mặt
Bàn tay em
suối mát
Lòng anh
còn bất an
Tiếng em đều
đều lời kinh xa xăm
Có một
kiếp mình tu chưa trọn kiếp.
Mắt em trên
ngọn cây
Dõi đoàn
tàu oan nghiệt
Kiếp này
anh lại vụng
Có còn
kiếp khác không em?
Giật mình
gối ướt
Tay quờ sang em.
Ngày buồn
ăn cả vào đêm
Em ngồi như núi
lặng im mà buồn.
Anh còn
chao đảo vô thường
Những cơn động
đất điên cuồng dưới da.
Bao giờ cơn sốt
lùi xa
Để
anh lẳng lặng tan ra thành lời
Hoàng Hưng
Các thao tác trên Tài liệu