Bạn đang ở: Trang chủ / Tài liệu / Đôi điều về ông Lê Đức Thọ

Đôi điều về ông Lê Đức Thọ

- Nguyễn Ngọc Giao — published 26/05/2025 15:35, cập nhật lần cuối 26/05/2025 16:51
trích HỒI KÝ

Hồi ký


Đôi điều về
ông Lê Đức Thọ



Nguyễn Ngọc Giao



Tháng 2 năm 2020, trong một cuộc họp mặt bạn bè ở nhà riêng của nhà thơ Nguyễn Duy (đường Lê Văn Sỹ, Sài Gòn), một nhà báo, nguyên tổng biên tập một tờ báo lớn, hỏi tôi : « Nghe nói, tháng 4-1975, anh có chuyển tin về nước, và việc này là một trong những lý do ông Lê Đức Thọ sau này ra lệnh ‘cấm cửa’ anh, có đúng vậy không ? ». Tôi không ngạc nhiên lắm vì người hỏi là một nhà báo kỳ cựu, nắm nhiều thông tin ‘nội bộ’, khác nào Huy Đức với những tiết lộ trong Bên thắng cuộc. Tôi trả lời anh : « Vâng, đúng như vậy. Tôi có thể kể cụ thể việc này, nhưng trước hết, xin cho biết : anh nghe nói như thế nào về cái thông tin mà tôi chuyển về năm 1975 ? ». « Người ta nói với tôi, cuối tháng 4-1975, trong lúc đang diễn ra chiến dịch Hồ Chí Minh, anh đã gửi tin, theo đó để ngăn chặn đường tiến quân của ta, Mỹ sẽ dùng bom nguyên tử nhỏ ». Lần này thì tôi thật sự ngạc nhiên, không phải vì bản thân cái thông tin « vịt cồ »  ấy, mà vì chính sự việc một cái « thông tin » như vậy có thể được phát ra rồi loan truyền, hay tam sao thất bản, trong « giới thạo tin », tức là « bên trong nội bộ » ở Việt Nam. 

Đây không phải lần đầu tôi được nghe loại « fake news » như vậy ở trong nước. Lần đầu tiên có lẽ là mùa hè năm 1978. Năm đó, tôi về nước cùng Xuân Phương, vợ tôi, và hai cháu trai, sáu và ba tuổi. Chúng tôi thuê xe Saigon Tourism lên Đà Lạt chơi. Một buổi tối, được mời tới ăn nhà một bà con. Không khí thời ấy « dân chủ », anh lái xe Saigon Tourism cũng được mời ăn. Quanh bàn, ngoài ông bà chủ nhà, có anh chị Việt kiều (chị là con gái ông bà), có một người khách trong họ, là đại tá Quân đội Nhân dân. Cái « đinh » của bữa ăn gia đình, ông ấy thao thao bất tuyệt với những « thông tin nội bộ » không có trong cả những bản tin « mật » của Việt Nam Thông Tấn Xã dành cho cán bộ « trung cao cấp ». Mùa hè 78, câu chuyện tất nhiên dẫn tới đại sứ Đinh Bá Thi, đại diện Việt Nam ở Liên Hợp Quốc, bị Mỹ trục xuất hồi tháng giêng với cái cớ « liên quan tới gián điệp Trương Đình Hùng », đã tử nạn trên Quốc lộ số 1 trên đường vào nam hồi tháng năm. Tôi còn nhớ trên đường từ Sài Gòn lên Đà Lạt, chiếc xe của chúng tôi suýt bị tai nạn, tôi nói đùa với Xuân Phương : « Nếu vì sao anh tử nạn, thì chắc chắn thiên hạ sẽ đồn ầm lên. Anh Thi, rồi anh, thì đúng là có vụ thanh trừng sau khi Trương Đình Hùng bị bắt ». Nào ngờ, chỉ mấy ngày sau, ở Đà Lạt « thành phố Sương Mù » lại được nghe khẳng định cái chết của đại sứ Đinh Bá Thi là kết quả một cuộc « thanh trừng nội bộ » hay một án mạng có mục đích « phi tang phi chứng ». Lời khẳng định lại được thốt ra từ cái miệng gang thép của một đại tá Quân đội Nhân dân. Không may, hay may thay, anh lái xe Saigon Tourism của chúng tôi, lại nhỏ nhẹ nói : « Cháu được cử ra Hàm Tân đưa bà Đinh Bá Thi, chỉ bị xây xát nhẹ, về Thành phố ». Rồi anh kể lời chứng của bà Thi, của anh lái chiếc xe U-oát (một loại jeep của Liên Xô) đưa ông bà Thi từ Hà Nội vào Thành phố : vài phút trước khi xảy ra tai nạn, bà Thi ngồi cạnh chỗ lái xe, than mệt, ông Thi đổi chỗ, lên ngồi đằng trước, để vợ ngả mình nghỉ phía sau. Người lái xe, để tránh một cái ổ gà (thời ấy đường sá nhiều ổ gà, thậm chí ổ trâu), quặt tay lái sang lề trái. Đúng lúc ấy, một chiếc xe đò chạy từ phía trước lao tới. Người lái xe vội quặt sang phải. Xe U-oát (cao hơn xe jeep) quặt quá nhanh, lật nhào. Đầu ông Đinh Bá Thi (thời ấy không có dây nịt lưng) đập mạnh vào kính trước, người lái xe tay nắm chắc vô lăng, không bị suy xuyển gì, cũng như bà Thi ngồi ghế sau. Đại sứ Đinh Bá Thi tử nạn tại chỗ, vài ngày trước khi nhận chức giám đốc Sở ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là, nếu tôi nhớ không nhầm, một ngày tháng 5-1978.


2-9
Hai ông Lê Đức Thọ (cố vấn đặc biệt) và Xuân Thủy (trưởng đoàn VNDCCH) chụp ảnh chung
nhân dịp Quốc khánh 1968 với những Việt kiều giúp đoàn.
Ngồi : bác Hợi (giúp làm bếp)
Đứng : Lê Ủy, Phạm Gia Thái, Nguyễn Vĩnh Mỹ, Huỳnh Hữu Nghiệp, Nguyễn Ngọc Giao


Tháng giêng 1978, Mỹ (chính quyền Carter, chủ trì là cố vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brzeziński) bắt tay với Bắc Kinh, bao vây Việt Nam. Trong bối cảnh ấy, FBI dàn dựng vụ án « gián điệp Trương Đình Hùng », tên tuổi đại sứ Đinh Bá Thi được nêu ra như người nhận được tin tức tình báo từ tay Trương Đình Hùng. Mỹ quyết định trục xuất đại sứ Việt Nam tại Liên Hợp Quốc (Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành viên LHQ từ mùa thu năm trước). Trên đường từ New York về Hà Nội, đại sứ Đinh Bá Thi ghé qua Paris, nơi nhiều năm anh là phó trưởng đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời tại Hội nghị Paris. 

Tôi đến thăm anh Thi ở sứ quán Việt Nam, lúc đó ở phố Boileau, quận 16. Anh Thi nói ngắn gọn : « Anh Sáu (Lê Đức Thọ) chỉ thị từ nay cắt đứt mọi liên hệ với Trương Đình Hùng : nó như vậy là con bài của bọn Mỹ ». Sau một phút suy nghĩ, tôi nói với anh : « Anh Sáu đã quyết định như vậy, các anh ngừng liên hệ với Hùng là phải. Nhưng  đối với tôi, Hùng là bạn, và tôi sẽ giữ tình bạn với Hùng ». Anh Thi không nói gì thêm, tôi cũng không đoán được anh nghĩ gì. Đó là lần cuối cùng tôi được gặp anh.

*

Còn « quả bom nguyên tử » ?  Tất nhiên không phải vậy. Thông tin mà Trương Đình Hùng gửi cho tôi để chuyển về nước, khoảng ngày 26.4.1975, là Mỹ có thể dùng tên lửa không-đối-địa (air-to-ground missile) để ngăn chận bước tiến của Quân Giải Phóng, chứ không dùng máy bay và B52. Bình thường, khi có thời gian, Hùng viết thư, chua rõ « độ tin cậy » và « nguồn tin ». Tin lần này khẩn cấp, Hùng chỉ nhắn bằng điện thoại, qua một anh bạn Mỹ rất thân với chúng tôi, vỏn vẹn một câu, không thể nào đánh giá độ đáng tin của thông tin và nguồn tin. Nhiệm vụ « hộp thư » của tôi là có sao chuyển vậy, thế thôi.

Sáng 30.4.75, ngủ dậy ở Paris, thì Sài Gòn đã được giải phóng. Đêm hôm trước, những chiếc trực thăng cuối cùng của không lực Mỹ đáp xuống sân thượng đại sứ quán Mỹ hay trụ sở của CIA để đưa người ra những chiến hạm của Hạm đội 7 ngoài Biển Đông. Sau này, tôi có dịp hỏi chuyện ông Phạm Xuân Ẩn, « điệp viên hoàn hảo », được biết « thỏa thuận » cuối cùng là Mỹ chỉ dùng trực thăng vận để đưa người, và yêu cầu phía Việt Nam không pháo kích vào máy bay lên thẳng. Mỹ sẽ chỉ phản ứng nếu trực thăng của họ bị tấn công.

Sáng 30.4.75, chúng tôi đến sứ quán làm việc, để phân công sứ quán làm gì, hội Liên hiệp Việt kiều tại Pháp làm gì trong những ngày tiếp theo. Buổi trưa, lúc nghỉ, đại sứ Võ Văn Sung kéo tôi ra một góc, dưới cầu thang, nói riêng : « Hôm trước, Giao đưa tin của Trương Đình Hùng, nói Mỹ có thể dùng tên lửa ; mình thấy đó là tin ‘phịa’, nên quyết định không chuyển về nước ”. Câu chuyện tưởng chấm dứt ở đó, với tâm trạng của tôi là khâm phục anh Sung đã nhận định sáng suốt và cả quyết lấy trách nhiệm.

Bảy năm sau, mùa hè 1982, ông Lê Đức Thọ chỉ thị “cấm cửa” tôi, trên cơ sở 7 tội trạng, nếu tôi nhớ không lầm. Một trong 7 « tội » đó là đã chuyển tin nhảm về nước giữa chiến dịch Hồ Chí Minh, « khiến cho Bộ chính trị mất một ngày để bàn luận ».

Bây giờ nhìn lại, có thể nêu ngay hai nhận xét :

Một là, cái « tội » ấy không có cơ sở : nhiệm vụ của tôi là « hộp thư », không chuyển tin mới là có lỗi. Vả lại, Bộ chính trị chắc chắn là nhận được nhiều thông tin để cọ xát, phân tích và quyết định (như ông Phạm Xuân Ẩn sau này đã cho tôi biết).

Nhận xét thứ hai liên quan tới lời nói riêng của đại sứ Võ Văn Sung. Như vậy là, trái với lời anh nói với tôi, anh đã chuyển tin về. Khi viết mấy dòng này, tôi vẫn đánh giá Võ Văn Sung (1928-2018) là nhà ngoại giao tài năng, nhạy bén. Nhưng sự việc này cho thấy một mặt tối của bộ máy chính quyền, nó khiến những con người xuất sắc phải ứng xử không trung thực, dối trên lừa dưới.

Cái tội « chuyển tin sai, làm mất thời giờ của Bộ chính trị » là vô căn cứ, còn 6 « tội » kia thì sao ? Đó là những « tội » gì, thú thực tôi cũng không nhớ xuể nhưng ngay ở đây, tôi xin kể lại hai cái, qua đó tôi hiểu thêm được cá tính ông Lê Đức Thọ, ít nhất ở thời điểm 1982.

Cái tội thứ nhất, liên quan tới việc mời những văn nghệ sĩ sang Pháp. Cái thứ nhì, liên quan tới đại tướng Văn Tiến Dũng và tình hình Campuchia.

1978-1986 là những năm Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Những chính sách « cải tạo xã hội chủ nghĩa » sai trái, chủ trương « học tập cải tạo » kéo dài, chinh sách kỳ thị thành phần thi hành trong tinh thần bần cố nông Mao-ít… tiến hành trong điều kiện thiên tai liên tiếp và nhất là chính sách cấm vận và chiến tranh của liên minh Trung Quốc – Mỹ đã gây ra những thảm họa khôn lường, trong đó trước hết phải kể nạn bi kịch của đồng bào vượt biển. Trong bối cảnh ấy, cũng như phong trào Việt kiều ở các nước phương Tây khác, phong trào ở Pháp gặp vô vàn khó khăn, để giữ vững đoàn kết nội bộ và nhất là để mở rộng quan hệ với cộng đồng (ngày càng tăng lên về số lượng với các đợt thuyền nhân). Trong ban lãnh đạo phong trào, một số người chia sẻ với tôi điều này : văn hóa là mẫu số chung của cộng đồng Việt Nam hải ngoại, văn hóa là ngôn ngữ qua đó phong trào có thể gặp gỡ, đối thoại với các giới đồng bào. Từ suy nghĩ ấy, trong chuyến về nước mùa hè năm 1981, tôi tham khảo ý kiến anh Thép Mới (phó tổng biên tập báo Nhân Dân, phụ trách văn phòng Nhân Dân tại Thành phố Hồ Chí Minh), lập danh sách những văn nghệ sĩ mà Hội người Việt Nam tại Pháp có thể mời sang Pháp : Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Bùi Xuân Phái.. .(Hà Nội), Nguyễn Khải, Trịnh Công Sơn… (Thành phố Hồ Chí Minh). Anh Thép Mới chỉ cách cho tôi : mời các văn nghệ sĩ Hà Nội thì đặt vấn đề với ông Hoàng Tùng (Ban bí thư Trung ương, tổng biên tập báo Nhân Dân), mời các văn nghệ sĩ Thành phố Hồ Chí Minh thì đặt vấn đề với ông Võ Văn Kiệt (bí thư Thành ủy TP.HCM, ủy viên Bộ chính trị), như vậy là vừa đúng quy tắc, vừa trúng người tinh tế, nắm bắt được sự tế nhị của việc mời văn nghệ sĩ sang một nước phương Tây trong bối cảnh đầu thập niên 1980. Cuộc gặp hai vị này diễn ra suôn sẻ, họ không cần nghe tôi trình bày nguyên ủy, mà chấp nhận ngay. Được bật đèn xanh, tôi mới viết thư chính thức cho ông Trần Quang Huy lúc đó là Trưởng Ban Việt kiều Trung ương. Về lại Pháp, tôi báo cáo công việc, và chúng tôi vui mừng thấy mở ra những triển vọng khả quan.

Sau một năm chờ đợi, tháng 8-1982, cùng một lúc với « bản án » của ông Sáu Thọ, tôi được biết là ông đã « bật đèn đỏ », không cho các văn nghệ sĩ kể trên sang Pháp. Có thể ông Lê Đức Thọ đã cân nhắc lợi hại. Đưa một nhà văn như Nguyễn Tuân, một nhạc sĩ như Trịnh Công Sơn sang Pháp đầu thập niên 1980 là một quyết định không dễ dàng. Mười hai năm sau, khi nhà thơ Nguyễn Duy được Trung tâm William Joiner mời sang Boston, anh kéo dài chuyến viễn du bằng cách ở thêm hai ba tuần để ghé California, thì trong nước đã ồn ào đồn đại Nguyễn Duy « chọn tự do ». Mặc dầu trước đó, mùa hè 1989,  Trịnh Công Sơn « cuối cùng » đã sang Pháp theo lời mời của trung tâm văn hóa Nhà Việt Nam (tôi phụ trách trung tâm này trong thời gian 1985-1990), và đã trở về « bình an nguyên vẹn ». Nhưng qua vụ đại tướng Văn Tiến Dũng, tôi thấy có một cách lý giải khác, xin kể dưới đây.

Tôi được gặp đại tướng Văn Tiến Dũng, lần đầu tiên, khi ông làm trưởng đoàn đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam tham dự đại hội 22 của Đảng cộng sản Pháp (tháng 2.1976), và tôi được cử làm phiên dịch cho ông. Tại hội trường Saint-Ouen (ngoại ô bắc Paris), tướng Văn Tiến Dũng và bà Nguyễn Thị Bình xuất hiện trong hào quang của toàn thắng 1975 (đó cũng là đại hội mà ĐCS Pháp chính thức từ bỏ chủ trương “chuyên chính vô sản” – đây là một câu chuyện khác). Từ Paris về, đại tướng ngừng nghỉ ở Mạc Tư Khoa, kể lại chiến dịch Hồ Chí  Minh để nhà báo Hồng Hà (em ruột Thép Mới) viết thành cuốn hồi ký Đại thắng mùa Xuân (xuất bản năm 1976). Sách ra, một vài anh em chúng tôi cùng ông bạn Georges Boudarel đã dịch ngay sang tiếng Pháp (Et nous prîmes Saigon, Ed. Le Sycomore) từ đó đã được dịch sang tiếng Anh (Our Great Spring Victory: An Account of the Liberation of South Vietnam, Monthly Review Press, NY, 1977).

Có lẽ vì vậy, nên khi về nước mùa hè 1981, tôi được mời tới nhà đại tướng ở phố Điện Biên Phủ uống trà, ăn bánh gai và được tặng một cuốn sách vừa xuất bản.

Sau mười lăm phút mời chào xã giao, tôi bèn đặt câu hỏi : mùa khô vừa qua, ta đánh đấm ra sao ở Campuchia ? Hỏi cho phải phép, nhưng cũng là tư lợi : trên báo Đoàn Kết, thỉnh thoảng tôi cũng phải viết bài bình luận về chiến sự ở Campuchia.

Một năm sau, câu chuyện này trở thành một gạch đầu dòng cho bản cáo trạng. Theo lời kể của anh Huỳnh Trung Đồng, chủ tịch Hội người Việt Nam tại Pháp (HNVNTP), thì ông Lê Đức Thọ nói như sau : « Thằng Giao muốn tìm hiểu tình hình chiến sự ở Campuchia. Nó biết tôi phụ trách khu vực K, mà nó không hỏi tôi, lại đi hỏi Văn Tiến Dũng ».

Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy có thêm một nguyên nhân nữa có thể giải thích quyết định « cấm cửa » đối với tôi : ông Thọ có thể đã dựa vào những báo cáo của cấp dưới. Tôi nhớ lại một lời nhắn của « điệp viên » nổi tiếng ngang với « điệp viên hoàn hảo » Phạm Xuân Ẩn. Đó là nhà toán học Nguyễn Đình Ngọc (1932-2006). Tôi được gặp anh Ngọc ở Viện Henri Poincaré, Paris một hai lần ngắn ngủi. Lúc đó, anh đã bảo vệ xong luận án tiến sĩ và giảng dạy ở Trường đại học Brest, tôi thì tập tễnh làm luận án (không xong). Quan hệ với bậc đàn anh chỉ ở mức xã giao lễ độ. Sau 1975, mới biết anh là điệp viên và được phong thiếu tướng công an, mấy lần tôi về nước, chắc anh cũng biết, nhưng tôi không có dịp gặp. Sau 1982, tôi nhận được lời nhắn của anh, qua lời một người bạn thân của chúng tôi : « Anh Sáu Thọ quyết định dựa trên những báo cáo không trung thực của công an Việt kiều ». Tôi không biết ai là « công an Việt kiều », càng không rõ báo cáo của họ không trung thực đến độ nào. 

Nhưng có một báo cáo đã cấu thành một trong 7 « trọng tội » của tôi, là theo lời ông Lê Đức Thọ do anh Huỳnh Trung Đồng thuật lại : « Thằng Giao đã làm giao liên giữa Trương Đình Hùng và cha mẹ, ba lần anh em chặn được ». Đúng là tôi đã làm « giao liên » ba lần cho Hùng và gia đình. Lần thứ nhất, vào tháng 12.1975, khi tôi về nước lần đầu tiên sau ngày 30.4.75. Lúc ấy, bưu điện chưa nối lại giữa Việt Nam và các nước (ít nhất là các nước phương Tây). Tôi nhớ chuyến đó, va li của tôi có chứa hai ba trăm bức thư của bà con gửi nhờ gửi về cho gia đình, trong đó có thư của Hùng. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, tôi được anh Thép Mới, phó tổng biên tập báo Nhân Dân, phụ trách bộ phận phía nam của tờ báo, tiếp đón và giúp đỡ. Do tình hình tế nhị của Hùng và của luật sư Trương Đình Dzu, theo đúng « nguyên tắc tổ chức », tôi đã trao bì thư của Hùng cho anh Thép Mới để « cơ quan hữu quan » kiểm duyệt. Vài ngày sau, anh Thép Mới trả lại bì thư, nói ; « Không có vấn đề gì, cứ chuyển cho gia đình ». Tôi gửi thư qua bưu điện, đằng sau phong bì, tôi ghi tên tôi, nhưng không ghi địa chỉ riêng, mà ghi địa chỉ của cơ quan anh Thép Mới : 22, đường Tú Xương, Q.3. Sau tôi được biết ông có lại tìm tôi, nhưng tôi không có mặt nên không được tiếp kiến, lần đó cũng như sau này.

Lần thứ nhì là mùa hè năm 1978. Hùng đã bị đưa ra tòa về tội « làm gián điệp », cung cấp thông tin cho « Bắc Việt », vừa đính hôn với chị Carolyn Gates. Hùng chỉ nhờ tôi mang về cho gia đình tấm hình hai vợ chồng sắp cưới chụp ở Washington Monument để cha mẹ biết mặt con dâu tương lai.  Vỏn vẹn một tấm ảnh, không một dòng chữ, chụp bằng máy Polaroid, bìa cứng và dày. Theo đúng « nguyên tắc », tôi trao tấm hình cho anh Nguyễn Ngọc Hà, chủ nhiệm Ban Việt kiều TP. HCM, đề nghị « các anh xem, nếu không có gì, chỉ là tấm ảnh có giá trị tình cảm, xin đừng om lại, mà gửi cho ông bà Dzu ». Vài ngày sau, anh Hà trao lại tấm ảnh, nói « không có vấn đề gì, cứ gửi ». Vì quên ghi địa chỉ ông bà Dzu, tôi nhờ anh Hoàng Mạnh Đễ, giảng sư Đại học Khoa học Sài Gòn, tìm địa chỉ và gửi.

Lần thứ ba, đặc biệt hơn : đầu thập niên 80 (tôi không nhớ chính xác năm nào), Hùng đã ở trong tù (tòa án Washington kết án 15 năm tù giam), được tin ông bà Dzu và em trai út (tên là Vương, nếu tôi nhớ không lầm) bị quản chế ở ngoài Hà Nội ; anh nhờ tôi mua áo ấm cho cha mẹ và em (lúc đó là mùa đông, Hà Nội ẩm nên lạnh buốt) và gửi về địa chỉ một bà cô ở phố Hàng Cân, Hà Nội. Tôi ra tiệm Tati phố Rennes, gần ga Montparnasse, mua áo, đóng hộp và gửi bưu điện, đề rõ người gửi là tôi và địa chỉ cá nhân. 

Tóm lại, đúng là tôi đã ba lần làm giao liên cho Hùng. Lần đầu, thư đã được « duyệt » trước khi chuyển, hai lần sau là một tấm ảnh và ba cái anorak, hoàn toàn không có một dòng chữ hay thông điệp, tất cả đều được chuyển công khai. Cụm từ « anh em chặn được » trong bối cảnh Hùng bị nghi là người của CIA và luật sư Dzu bị quy vào những âm mưu chống đối, mang những hàm ý mà mọi người có thể dự đoán.

Nhân đây, tôi cũng xin mở ngoặc để nói thêm về việc quản chế ông bà Dzu, theo lời kể của Hùng khi đã đoàn tụ với gia đình ở Sài Gòn, sau khi anh được trả tự do năm 1986 (trước kỳ hạn). Ông Dzu cho biết, trong thời gian bị quản chế, đích thân ông Lê Đức Thọ đã tới gặp và đặt chỉ một câu hỏi : « Tại sao bao nhiêu vụ âm mưu bạo loạn mà chúng tôi phá được, trong danh sách « chính phủ tương lai », bao giờ cũng có tên anh ? ». Ông Dzu chỉ có thể trả lời : không có quan hệ gì với những người bạo loạn cả, việc họ để tên ông vào danh sách « chính phủ » cũng là dễ hiểu vì tên tuổi ông như một chính khách đối lập với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, thì ở miền Nam, ai cũng biết. Vài năm sau, ông Thọ chấm dứt lệnh quản chế, và nói, theo lời ông Dzu : « chúng tôi đã kiểm tra lời khai của anh và thấy là đúng ». Em trai của Hùng trúng tuyển Đại học Bách khoa. Ông bà Dzu trở về Sài Gòn, villa của họ đã bị trưng dụng, nghe đâu chính ông Mai Chí Thọ, chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP.HCM (em ruột Lê Đức Thọ), đã giải quyết chỗ ở cho ông bà. Còn anh Trương Đình Hùng, được trả tự do sớm, với điều kiện phải rời nước Mỹ. Anh chị đã sang Amsterdam làm việc cho cơ quan phát triển của Liên Âu (EU), được cơ quan gửi sang công tác ở Hà Nội mấy năm trước khi định cư ở Malaysia (anh mất năm 2014 tại Penang).

Hơn bốn mươi năm đã trôi qua, đôi khi nhớ lại, tôi có vài suy nghĩ. Trước hết phải nói, lúc đó, cũng như bây giờ, tôi vẫn giữ hai kỷ niệm qua đó, tôi đánh giá cao về công lao và cá tính của Lê Đức Thọ. Kỷ niệm thứ nhất, tại trụ sở phái đoàn VN ở Choisy-le-Roi : một hôm, vào buổi chiều, tôi từ dãy nhà văn phòng, bước vào ngôi nhà biệt thự vốn là nhà riêng của Maurice Thorez (tổng bí thư ĐCS Pháp), lúc đó là nơi ở và văn phòng của các ông Lê Đức Thọ (cố vấn đặc biệt) và Xuân Thủy (trưởng đoàn), thì thấy trong sảnh, ông Lê Đức Thọ nằm dài như thiếp ngủ trên ghế sofa trường kỷ. Hỏi anh bí thư riêng, mới biết « anh Sáu vừa xong một phiên họp với Kissinger ». Cảnh tượng ấy cho tôi hình dung sự cam go của những phiên họp bí mật kéo dài suốt mấy năm trời, mỗi phiên họp là một cuộc đấu trí liên tục với một đối thủ sắc sảo và gian xảo có hạng. Kỷ niệm thứ hai, cũng vào buổi chiều, nơi phòng ăn ở dãy nhà đối diện, có đặt máy truyền hình. Mấy anh trong tổ báo chí ngồi “duyệt” một cuốn phim truyện mà sứ quán Liên Xô cho mượn để chiếu vào tối giải trí cuối tuần. Trong thập niên 60, phim Liên Xô, Tiệp, Hung… thường được coi là “xét lại” – thí dụ như “Khi đàn sếu bay qua” của Mikhail Kalatozov, “Người thứ 41” của Grigori Tchoukhraï bị phê phán như vậy và cấm chiếu ở Hà Nội. Ông Lê Đức Thọ tình cờ đi qua : “ Các cậu làm gì vậy ? ”. Sau khi nghe trả lời, ông « Sáu Búa » chỉ đánh một câu : « Dẹp cái chuyện duyệt này đi. Ngày ngày coi TV Pháp, sao các cậu không duyệt ? ».


1973
Tác giả dịch cho ông Lê Đức Thọ trong một cuộc họp báo
ở Paris, nửa năm sau ngày ký kết Hiệp định Paris 1073.


Qua hai việc mắt thấy tai nghe vừa kể trên, tôi đánh giá cao – đến bây giờ cũng thế – sự kiên định, sáng suốt, cả quyết và óc thực tế của ông. Mặt khác, phản ứng của Lê Đức Thọ trong việc cấm đoán Nguyễn Tuân, Trịnh Công Sơn… sang Pháp năm 1982, cũng như phản ứng của ông về cuộc tướng Văn Tiến Dũng gặp tôi, cho thấy khía cạnh « tự ái » của một « lãnh chúa », không bỏ qua một hành động nào mà mình nghi là « nó muốn qua mặt mình ». 

Lê Đức Thọ từ trần tháng 10.1990 vì ung thư. Đầu năm ấy, ông có qua điều trị trong thời gian ngắn ở bệnh viện quân y Pháp Val-de-Grâce. Khi tôi nghe tin này, tôi định tới thăm nhưng ông đã rời Paris về Hà Nội, điều trị ở bệnh viện quân y 108. Nghe nói, mùa xuân năm ấy, khi được hỏi về vụ « Tâm thư » mà anh Bùi Văn Nam Sơn và tôi được coi là «chủ mưu » (tên họ hai chúng tôi, trong nhiều năm, được trưng ở « Viện bảo tàng tội ác Mỹ ngụy », đường Võ Văn Tần, Sài Gòn, phòng « Những âm mưu thù nghịch sau 1975 »), ông « Sáu Búa » phán : « Thằng Giao, phải cấm nó 10 năm ». Như vậy là ông kéo dài thêm một thập kỷ lệnh cấm cửa mà ông đã phán từ mùa hè 1982. Mùa hè 1990, trước khi về nước, anh Huỳnh Trung Đồng gợi ý tôi viết thư cho ông Thọ, anh sẽ mang về trao tận tay.

Tôi bỏ ra cả một buổi để viết 6 trang thư, bút Rotring mực tàu đen trên giấy trắng, giải thích ý nghĩa và mục tiêu « Tâm thư », và nhất là bác bỏ 7 « tội » mà ông đã căn cứ trên đó để ra lệnh cấm cửa và loại trừ tôi. Rất tiếc là do căn tính « quân tử tàu », tôi không giữ lại một bản chụp. Gần đây, có dịp gặp một nhà báo, cựu sĩ quan cấp tá, đang viết về nhân vật Lê Đức Thọ và có quan hệ thân thiết với người con gái ông Lê Đức Thọ, giữ hồ sơ lưu trữ của cha, tôi nêu câu hỏi, và được anh trả lời là không có khả năng tìm lại lá thư năm ấy, tôi cũng tin như vậy. Ngày nay, nếu nặn óc, chắc tôi cũng tìm ra đủ 7 cái « tội » ấy (ở trên, tôi đã nói tới 3 tội rồi). Nhưng quan trọng hơn là ông đã phản ứng ra sao. Sau hè, trở lại Pháp, anh Huỳnh Trung Đồng kể lại là đã vào bệnh viện thăm ông và trao lá thư. Lúc đó, ông không thấy gì nữa, nên yêu cầu anh đọc cho nghe. Sau khi nghe xong, ông Thọ trao lá thư cho thư ký giữ, và chỉ nói : « Anh bảo thằng Giao đừng đi quá xa nữa ».

Tôi không rõ hàm ý chữ « xa » của ông là như thế nào. Chỉ biết, mãi đến mùa thu năm 2001, tôi mới được visa trở về nước sau hơn 19 năm bị cấm cửa. Lúc đó, anh Dũng, anh ruột của vợ tôi, Thanh Thiện, bị ung thư nặng. Trong một buổi “làm việc” với một sĩ quan công an, anh ta nói : « Anh được cấp thị thực về nước vì lý do nhân đạo ». Tôi ngắt lời anh :

– Anh cũng như tôi, chúng ta đều biết, người ra lệnh cấm cửa tôi từ năm 1982 là anh Lê Đức Thọ. Năm 1990, nghe nói anh Sáu Thọ nói phải cấm cửa tôi thêm 10 năm.  Nay anh Thọ mất đã 11 năm rồi. Nói thật với anh, nếu bây giờ phải viết về công tội của Lê Đức Thọ, tôi thú thực là chưa biết phải viết sao cho đúng, cho công bằng. Tốt hơn hết là ta bỏ qua chuyện này. Tôi sẵn sàng nghe những gì anh muốn thông báo với tôi.

Nguyễn Ngọc Giao

Các thao tác trên Tài liệu

Các số đặc biệt
Các sự kiến sắp đến
Tiếng Tơ Đồng - GALA 25 ans 31/05/2025 15:00 - 19:00 — Théâtre l'Agoreine - 63B Bld du Maréchal Joffre - 92340 Bourg-la-Reine
France-Vietnam : un portail entre les cultures - Transferts du modèle français à la description de la grammaire vietnamienne 05/06/2025 16:30 - 20:00 — BnF site François-Mitterrand | Salle 70 ou via ZOOM
Các sự kiện sắp đến...
Ủng hộ chúng tôi - Support Us