Phụ lục
NHỮNG THÁCH
THỨC ĐỐI VỚI AN NINH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA TA
MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ ĐỐI SÁCH
(Viết
theo yêu cầu của Thường trực BCT
và đã gửi các đồng chí
Thường trực BCT ngày 20.6.1993)
Những biến đổi lớn trong chính trị thế
giới những năm gần đây cũng như những biến đổi lớn của tình hình kinh
tế thế giới và những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật đã tác động
tổng hợp vào sự hình thành cục diện chiến lược ngày nay với những xu
thế mới ngày càng thể hiện rõ nét.
Bối cảnh chung này đã thúc đẩy tất cả
các nước lớn nhỏ, đã phát triển hay đang phát triển, phải điều chỉnh
lại chiến lược, điều chỉnh lại thứ tự ưu tiên các mục tiêu chiến lược
của mình sao cho phù hợp đặc điểm tình hình thế giới mới và những xu
thế chung hiện nay.
Một vấn đề lớn đặt ra cho mỗi nước là
sớm xác định được những cơ hội và nhất là những thách thức trở ngại cho
việc thực hiện mục tiêu chiến lược của mình. Đối với ta, trong khi phấn
đấu thực hiện mục tiêu chiến lược là sớm đưa đất nước “ra khỏi
khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế – xã hội, phấn đấu vượt qua tình
trạng nước nghèo và kém phát triển cải thiện đời sống của nhân dân,
củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển
với nhịp độ mới vào đầu thế kỷ 21”, để bảo đảm hoà bình và ổn
định chúng ta cần tìm ra được câu trả lời cho những vấn đề cấp bách là:
hiện nay về mặt đối ngoại đất nước ta đang đứng trước những thách thức,
đe doạ chủ yếu gì? có thể từ đâu đến và dưới dạng nào ? Đâu là mối đe
doạ trực tiếp nhất, thúc bách nhất cần đối phó ? Phương hướng xử lý,
trong đó có vấn đề tập hợp lực lượng để đối phó với những đe doạ, thách
thức đó sao cho phù hợp với khả năng còn rất hạn chế về mọi mặt của ta ?
I. Những thách thức đe doạ
an ninh và phát triển của ta có thể xuất xứ từ đâu và dưới những dạng
nào ?
Hơn 2 năm qua kể từ Đại hội Đảng lần
thứ 7, trên cơ sở những thành tựu trong công cuộc Đổi mới trong nước,
việc triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá quan hệ theo
hướng “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, chúng ta đã cải thiện
một bước đáng kể vị trí nước ta trên quốc tế. Quan trọng nhất là ta đã
phá được một bước quan trọng thế bị cô lập về chính trị, tạo môi trường
quốc tế thuận lợi hơn cho việc giữ vững hoà bình và đẩy mạnh phát triển
kinh tế.
Tuy nhiên, trong tình hình quan hệ đối
ngoại của ta đã bị đảo lộn ghê gớm với sự tan rã của hệ thống các nước
bạn bè ở Liên Xô và Đông Âu thì những kết quả này mới chỉ là bước đầu
và chưa thật vững chắc. Về chính trị, ta chưa tạo được hậu thuẫn quốc
tế thay thế cho những chỗ dựa truyền thống mà ta vừa mất đi. Về kinh
tế, đất nước ta còn ở tình trạng lạc hậu về kinh tế, KHKT so với nhiều
nước trong khu vực và chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế – xã
hội. Ngày nay quan hệ giữa ta và các nước chủ yếu dựa trên cơ sở lợi
ích tương đồng, trên từng mặt, từng vấn đề; hoàn toàn khác với phương
thức tập hợp lực lượng truyền thống trước đây và đối với bất cứ đối tác
nào cũng đều có hai mặt hợp tác và đấu tranh rất phức tạp. Trong khi
đó, những đe doạ thách thức đã và đang nảy sinh từ những phía khác
nhau, trước mắt và trong tương lai gần.
Trên cơ sở dự báo chiến lược, những
đối tượng chính trước mắt hoặc sau này có thể tạo nên những đe doạ
thách thức chủ yếu đối với sự nghiệp an ninh và phát triển của ta là:
Trung Quốc, Mỹ, Nhật và Thái Lan .
Sau đây là những dạng thách thức đe
doạ mà mỗi đối tượng có thể gây ra đối với ta:
1. Trung Quốc: Sau
hơn 1 năm bình thường hoá, quan hệ Việt –Trung có nhiều mặt được thúc
đẩy như trao đổi đoàn qua lại, mở một số cửa khẩu, buôn bán biên
giới... Song mặt tiêu cực và hạn chế đang nổi lên, nhiều hiệp định đã
ký kết và nhiều thoả thuận ở cấp cao chưa được thực hiện. Đặc biệt từ
đầu năm 1993, Trung Quốc dùng nhiều biện pháp tổng hợp để tăng sức ép
và tạo thêm nhiều khó khăn cho ta, gây tình hình không ổn định cho ta
cả bên trong lẫn bên ngoài nhằm làm chậm đà phát triển kinh tế của ta
và kìm hãm việc mở rộng quan hệ đối ngoại của ta trước hết là ở khu vực
Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương. Những thách thức và đe doạ của
Trung Quốc đối với ta đang được thể hiện ngày càng rõ nét dưới các dạng
chính sau đây:
a. Xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của ta trên bộ và trên biển: trong khi trên bộ, Trung Quốc không có
dấu hiệu nào muốn giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lại còn
làm xấu thêm tình hình (xâm canh xâm cư, xây kè cống làm thay đổi dòng
chảy các sông suối biên giới có lợi cho Trung Quốc, lấn sang phía ta)
thì trên biển Trung Quốc liên tiếp có những bước leo thang nghiêm trọng
từ tranh chấp ngoài biển Đông, Trung Quốc đã từng bước ngày càng lấn
sâu vào thềm lục địa, ngay trong khu vực ta đã phân lô ký kết với các
công ty nước ngoài và đang thăm dò khai thác dầu khí (đầu tháng 5.93,
Trung Quốc cho tàu “FENDOU 4” vào thăm dò địa chấn ở khu vực lô 6 nằm
sâu trong thềm lục địa của ta) bộc lộ ý đồ biến một số khu vực trong
thềm lục địa của ta thành vùng tranh chấp, đang chuẩn bị dư luận để đưa
đảo Bạch Long Vĩ vào diện tranh chấp.
b. Phá môi trường quốc tế hoà bình ổn
định của Việt Nam với những hoạt động: ở Campuchia, thông qua Khmer Đỏ
khuấy động vấn đề người Việt Nam ở Campuchia đồng thời làm cho tình
hình Campuchia khó đi vào ổn định; lôi kéo 3 nước (Thái, Miến, Lào)
thành một cụm liên kết kinh tế ở Đông Nam Á lục địa thượng lưu sông
Mêkông gắn với Trung Quốc, tách rời Việt Nam; khủng hoảng biển Đông kéo
dài cũng có tác động phá môi trường phát triển của Việt Nam.
c. Gây mất ổn định chính trị, kinh tế
bên trong Việt Nam: nêu trở lại “vấn đề người Hoa”, đẩy số người Hoa đã
bỏ về Trung Quốc từ những năm 78, 79 trở lại Việt Nam; thông qua Khmer
Đỏ dồn đuổi Việt kiều ở Campuchia về nước; gây sức ép với Hồng Kông đưa
toàn bộ số thuyền nhân ở đó về Việt Nam trước năm 1997; để hàng lậu từ
Trung Quốc tuồn vào Việt Nam qua con đường tiểu ngạch bán hàng vào Việt
Nam với giá rất rẻ gây rối loạn thị trường, gây ảnh hưởng tiêu cực đến
sản xuất ở nước ta.
d. Kìm hãm phát triển kinh tế đối
ngoại của Việt Nam: tiếp tục bắt giữ tàu thuyền của ta (số lượng nhiều
hơn 1992: 28 chiếc); chống việc ICAO trả lại vùng FIR Hồ Chí Minh cho
Việt Nam.
2. Mỹ
có thể thách thức đe doạ an ninh và
phát triển của Việt Nam qua các dạng:
a. Mỹ là nước lớn duy nhất hiện nay
chưa bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và còn
tiếp tục chính sách cấm vận gây trở ngại cho các tổ chức quốc tế (Quỹ
tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới...) và các nước khác trong việc
viện trợ tài chính và hợp tác với ta phát triển kinh tế.
b. Tiến hành diễn biến hoà bình: thông
qua những cái gọi là đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền ép ta đa
nguyên, đa đảng; kích động các vấn đề tôn giáo, dân tộc thiểu số để gây
tình hình phức tạp làm mất ổn định chống ta.
c. Nuôi dưỡng những phần tử phản động
hoặc thoái hoá biến chất còn lại ở Việt Nam và các lực lượng phản động
người Việt đang ở nước ngoài khi có điều kiện thuận lợi thì gây bạo
loạn, lật đổ như đã làm ở một số nước.
3. Nhật Bản
trước mắt là một đối tượng hợp tác chính của ta để thực hiện yêu cầu
phát triển nhanh kinh tế Việt Nam, song ta vẫn phải dự phòng về lâu dài
những khả năng xấu từ phía Nhật:
a. Trước hết là cùng với việc tăng
cường đầu tư viện trợ, Nhật sẽ từng bước thao túng kinh tế Việt Nam và
đưa Việt Nam và cả Đông Nam Á vào quỹ đạo Nhật Bản phục vụ cho tham
vọng bá quyền khu vực và thế giới của Nhật Bản về kinh tế cũng như về
chính trị.
b. Mặt khác, cùng với tham vọng về
chính trị và kinh tế được thực hiện từng bước, chủ nghĩa quân phiệt
Nhật có thể được phục hồi nhằm trở thành một siêu cường toàn diện ở khu
vực và trên thế giới. Nguy cơ này sẽ có hậu quả trực tiếp tới khu vực
Đông Á trong đó có Việt Nam.
4. Thái Lan hiện
là một bộ phận của ASEAN mà ta đang tích cực tranh trủ hợp tác cả về
kinh tế lẫn chính trị. Nhưng chủ nghĩa “Đại Thái” xưa nay là nguy cơ
truyền thống đối với an ninh và phát triển của Việt Nam, hiện vẫn tồn
tại và đầy tham vọng.
Thái luôn coi Việt Nam là một đối thủ
tiềm tàng về kinh tế cũng như về chính trị. Vì vậy thách thức của Thái
đối với ta có thể đến từ hai phía:
a. Về kinh tế, Thái có lợi ích kiềm
chế nhịp độ phát triển của Việt Nam (vấn đề Uỷ ban Mêkông, FIR Hồ Chí
Minh) đồng thời tận dụng được Việt Nam như một thị trường tiêu thụ hàng
Thái và một nguồn cung cấp nguyên liệu (lâm
sản, hải sản, khoảng sản).
b. Về chính trị, quân sự, Thái có lợi
ích biến Lào và Campuchia từ những đồng minh của Việt Nam thành vùng
chịu ảnh hưởng Thái nhiều hơn. Đồng thời Thái vẫn có thể cung cấp căn
cứ địa cho các lực lượng phản động Việt Nam thâm nhập phá hoại nội địa
ta.
II. Nguy
cơ lớn nhất và thúc bách nhất đe doạ an ninh và phát triển của ta là từ
đâu ?
Trong 4 đối tượng có thể tạo nên nguy
cơ đe doạ ta, có những nước lớn cỡ toàn cầu hoặc khu vực như Mỹ, Trung
Quốc, Nhật; riêng Thái Lan là nước ngang tầm với ta
nên mức độ thách thức đối với ta không so được với các nước lớn. Trong
các dạng thách thức khác nhau của cả 4 đối tượng, có nhiều điều mới
trên cơ sở giả định hoặc dự phòng để cảnh giác, song có những điều đang
là hiện thực, đang là những vấn đề thực tế và thúc bách đặt ra trước
mắt ta. Vì vậy với khả năng rất hạn hẹp về mọi mặt của ta, ta cần phân
biệt rõ đâu là nguy cơ lớn nhất trực tiếp đe doạ những lợi ích sống còn
của dân tộc Việt Nam để tập trung trí lực và vận dụng cao độ sách lược
đối ngoại đối phó lại. Trước hết chắc chắn đó không phải là Nhật hay
Thái Lan. Đó chỉ có thể là Mỹ hay Trung Quốc.
1. Chiến lược của
Mỹ và ý đồ Mỹ đối với Việt Nam
Sau sự tan rã của Liên Xô và sự kết
thúc chiến tranh lạnh, Mỹ gặp phải nhiều thách thức hơn là cơ hội.
Thách thức bởi những vấn đề kinh tế – xã hội cấp bách trong nước, thách
thức bởi những đối thủ vốn là đồng minh cũ của Mỹ trong chiến tranh
lạnh như Nhật, EC. Vì vậy, mục tiêu chiến lược của Mỹ phải điều chỉnh
lại một cách thực tế và khiêm tốn hơn: cố gắng duy trì vị trí số một
trên thế giới và ở châu Á - Thái Bình Dương, hiện đang trở thành vũ đài
chính của thế giới. Trước thách thức ngày càng lớn của các trung tâm
kinh tế phương Tây, việc xoá CNXH ở châu Á chưa phải là ưu tiên hàng
đầu của Mỹ hiện nay.
Khoảng cách về so sánh lực lượng giữa
Mỹ và các cường quốc khác không còn quá lớn như trước, để thực hiện
được mục tiêu chiến lược trên, phương hướng của Mỹ chủ yếu là tạo một
cân bằng lực lượng giữa các đối thủ có tiềm năng đe doạ vị trí số một
thế giới của Mỹ, dùng đối thủ này kiềm chế đối thủ kia, thông qua hợp
tác để kiềm chế các đối thủ, tăng cường vai trò các thể chế quốc tế
(như LHQ) trong việc xử lý các xung đột khu vực, tạo thành một thế ổn
định chung có lợi cho Mỹ.
Ở châu Á - Thái Bình Dương cũng vậy,
Mỹ đang cô lập nên trật tự khu vực mới trên cơ sở tam giác chiến lược
mới Mỹ – Nhật – Trung thay cho tam giác Mỹ – Xô - Trung ngày trước,
trong đó Mỹ vừa tranh thủ và họp tác với Trung Quốc mà chủ yếu là với
Nhật, vừa cảnh giác kiềm chế cả hai, chủ yếu là Trung Quốc.
Riêng với Trung Quốc, Mỹ rất coi trọng
vai trò của đất nước có hơn 1 tỷ dân này trong kế hoạch tạo lập một
trật tự quốc tế mới. Mỹ cần thúc đẩy và tranh thủ sự hợp tác của Trung
Quốc trong nhiều vấn đề, nhất là trong việc xử lý các cuộc xung đột khu
vực trong Hội đồng Bảo an LHQ mà Trung Quốc là một thành viên có quyền
phủ quyết. Vì vậy chắc chắn Mỹ sẽ không vì Việt Nam mà làm ảnh hưởng
xấu đến quan hệ với Trung Quốc. Mỹ sẽ không trực tiếp can thiệp vào các
tranh chấp song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc nếu tranh chấp đó
không đụng chạm đến lợi ích của Mỹ và đến ổn định của cả khu vực.
Song cũng vì lợi ích chiến lược của
Mỹ, Mỹ không thể khuyến khích hoặc làm ngơ để Trung Quốc tự do bành
trướng xuống Đông Nam Á. Trong chiến lược châu Á - Thái Bình Dương của
Mỹ, chính quyền Clinton đã tỏ ra coi trọng vai trò Đông Nam Á hơn
trước. Có thể vì đây là một vùng khá năng động về phát triển kinh tế,
đồng thời lại có một cơ chế tiểu khu vực có sức sống và gắn bó với lợi
ích kinh tế của Mỹ. Song mặt khác vì đây đang là hướng bung ra của
Trung Quốc trong ý đồ lấp “khoảng trống quyền lực” sau khi Liên Xô tan
rã và Mỹ thu bớt sự có mặt quân sự ở Đông Nam Á. Lợi ích của Mỹ là tạo
ra được ở đây một Đông Nam Á ổn định và đủ mạnh để cản bước Trung Quốc
trong chiến lược “biên giới mềm” và “mở rộng không gian sinh tồn”. Ý đồ
của Mỹ là từng bước thúc đẩy việc mở rộng ASEAN thành một tổ chức chung
cho cả 10 nước Đông Nam Á, có khả năng trở thành một đối trọng đáng kể
đối với Trung Quốc bảo đảm ổn định khu vực. Trong kế hoạch tạo lập một
cơ chế an ninh khu vực của châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ, Nhật và phương
Tây nói chung đều đã lấy ASEAN làm cốt lõi về tổ chức. Hội nghị thường
niên giữa ASEAN và 6 nước đối tác đang trở thành diễn đàn trao đổi về
an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nga cũng tỏ thái độ ủng hộ
phương hướng này. Riêng Trung Quốc không mặn mà.
Vậy có khả năng Mỹ đồng tình
hay cấu kết với Trung Quốc chống Việt Nam không
? Trước đây Mỹ và Trung Quốc hợp lực chống Việt Nam trong vấn đề
Campuchia là vì cả hai cùng có yêu cầu chung là đánh vào Liên Xô và xoá
bỏ ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Nay Liên Xô đã sụp đổ, thế chiến
lược ở châu Á - Thái Bình Dương đã thay đổi, nếu Mỹ lại đi với Trung
Quốc chống Việt Nam thì chẳng khác gì là đẩy Việt Nam vào tình thế hoặc
chủ động liên minh với Trung Quốc hoặc phải khuất phục trước sức mạnh
của Trung Quốc, từ đó tạo điều kiện cho Trung Quốc từng bước khống chế
cả Đông Nam Á một cách dễ dàng và nhanh chóng trở thành một trong những
đối thủ đe doạ vị trí số 1 của Mỹ trên toàn cầu. Điều này hoàn toàn
ngược lại mục tiêu chiến lược của Mỹ.
Mặt khác, một nước Việt Nam đổi mới,
độc lập với Nga, Trung Quốc cũng như không chịu sự chi phối của Nhật,
cải thiện quan hệ và hoà nhập với các đồng minh của Mỹ ở Đông Nam Á là
phù hợp với lợi ích của Mỹ về hoà bình, ổn định, nhằm duy trì ảnh hưởng
của Mỹ và hạn chế các thách thức nổi lên đối với vị trí của Mỹ ở khu
vực. Việt Nam tuy không có một vị trí quan trọng trong chiến lược toàn
cầu của Mỹ, nhưng Việt Nam vẫn là một nhân tố mà Mỹ không thể không
tính đến trong chiến lược của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam
Á. Hơn nữa về kinh tế Mỹ có lợi ích tranh thủ thị trường và nguồn nhiên
liệu của Việt Nam. Mỹ không muốn vắng mặt trong khi các đối thủ của Mỹ
đi mạnh vào thị trường Việt Nam.
Bên cạnh những lợi ích có phần nào
trùng hợp với ta như trên, mặt tiêu cực trong chính sách của Mỹ đối với
ta không nhỏ. Mỹ không thể từ bỏ ý đồ diễn biến hoà bình với ta. Tuy
nhiên Mỹ có làm được hay không chủ yếu còn tuỳ thuộc vào khả năng giữ
vững ổn định chính trị trong nước của ta, tức là tuỳ thuộc vào bản lĩnh
chính trị của Đảng ta và sự vững vàng cảnh giác của cán bộ và nhân dân
ta và sự gắn bó giữa dân với Đảng. Ở đây nhân tố vững mạnh bên trong có
ý nghĩa quyết định. Thắng lợi của công cuộc Đổi mới, sự ổn định về kinh
tế – xã hội ở nước ta và việc không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng
trong quá trình đa dạng hóa và mở rộng quan hệ quốc tế sẽ là đảm bảo
tốt nhất hạn chế tác động của mọi thủ đoạn diễn biến hoà bình. Mặt khác
cũng phải thấy rõ không phải Mỹ tập trung chống phá Việt Nam với bất cứ
giá nào vì Mỹ có những ưu tiên chiến lược lớn hơn và hơn nữa hiện nay
Mỹ đang có những lợi ích trùng hợp với ta ở khu vực mà ta có thể tranh
thủ lợi dụng để phục vụ hữu hiệu cho mục tiêu chiến lược của ta.
2. Chiến
lược của Trung Quốc và ý đồ của Trung Quốc đối với Việt Nam
Trái với Mỹ, Trung Quốc thấy ở những
biến đổi lớn trong cục diện thế giới ngày nay, một “cơ hội ngàn năm có
một”. Đối với Trung Quốc cơ hội đang tăng lên, còn thách thức giảm đi.
Trong khi Mỹ cảm thấy cần co bớt lại để củng cố và phòng ngự là chính
thì Trung Quốc nuôi tham vọng lớn là muốn vươn lên trở thành một cực
trong trật tự thế giới đa cực mới. Trong khi hiện đại hoá trên 4 mặt
vẫn là cứu cánh chính để thực hiện mục tiêu đó, Trung Quốc không ngừng
tranh thủ mọi cơ hội có được để thực hiện kế hoạch bành trướng, gây mất
ổn định của nước khác (Campuchia, Myanmar) để mưu lợi cho mình. Do hiện
nay thế cũng như lực chưa đủ mạnh, nên họ thực hiện ý đồ một cách tính
toán thận trọng tuỳ theo diễn biến của tình hình khu vực, phản ứng của
các đối thủ và thực lực của chính họ.
Trước mắt Trung Quốc đang ra sức thực
hiện ý đồ nhanh chóng trở thành một cường quốc ở châu Á - Thái Bình
Dương, có địa vị ngang hàng với Mỹ, Nhật ở khu vực này. Trung Quốc đặt
mục tiêu lấn chiếm toàn bộ biển Đông ở vị trí ưu tiên hàng đầu. Trung
Quốc coi trọng vị trí chiến lược của biển Đông, vì kiểm soát được biển
Đông tức là khống chế được cả Đông Nam Á và cả con đường giao lưu huyết
mạch từ Thái bình dương qua Ấn Độ Dương, và cũng là khu vực giầu tài
nguyên nhất là dầu khí (trữ lượng dầu ở khu vực này ngang Vịnh Ba Tư)
mà Trung Quốc đang cần để đẩy nhanh tốc độ phát triển.
Đáng chú ý là trong khi Trung Quốc mở
một chiến dịch hoạt động ngoại giao rộng lớn nhằm tranh thủ tăng cường
quan hệ hợp tác phát triển với tất cả các nước công nghiệp hoá phương
Tây, tranh thủ các nước đang phát triển và không liên kết hòng khôi
phục vai trò lãnh đạo thế giới thứ ba, cải thiện quan hệ với các nước
láng giềng cùng chung biên giới, đặc biệt là gần đây tăng cường lôi kéo
các nước khu vực Đông Nam Á để phá thế “quần lang đấu hổ”, thì Trung
Quốc luôn tập trung mũi nhọn gây sức ép và lấn dần Việt Nam trên mọi
vấn đề, mặc dù ta đã dùng đủ phương sách để tỏ rõ thái độ cầu hoà và
hữu hảo với họ. Phải chăng vì Trung Quốc cho rằng Việt Nam là điểm yếu
và dễ tính để lấn nhất lúc này (khó về quân sự, nghèo về kinh tế, đơn
độc về chính trị) mà lại chiếm một vị trí chiến lược quan trọng ở Đông
Nam Á và là trở ngại lớn nhất cho kế hoạch biển Đông của Trung Quốc.
Những hoạt động bất lợi đối với Việt
Nam của Trung Quốc sẽ không dừng lại ở trạng thái hiện nay mà sẽ còn
được tiếp tục đẩy tới vì Trung Quốc cho rằng tình thế hiện tại đang rất
thuận lợi cho việc Trung Quốc lấn ép Việt Nam mà chỉ gặp phải phản ứng
quốc tế ở mức thấp nhất vì Mỹ chưa bỏ cấm vận Việt Nam; quan hệ hợp
tác, đầu tư giữa các nước và Việt Nam còn chưa phát triển; vấn đề
Campuchia đang còn thu hút nhiều sự chú ý của dư luận quốc tế; cơ chế
an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương chưa hình thành. Trung Quốc
đặt năm 1997 thành một mốc thời gian quan trọng trong quá trình xây
dựng sức mạnh mọi mặt của Trung Quốc: năm 1997 là năm Trung Quốc thu
hồi Hồng Kông và cũng có thể là năm thực hiện một bước kế hoạch hình
thành “vành đai kinh tế Đại Trung Hoa” bao quanh Đông Nam Á; năm 1997
là năm quân đội Trung Quốc sẽ được trang bị hàng không mẫu hạm và các
trang bị tối tân khác, đặc biệt về hải không quân để có thể vươn ra
khắp biển Đông; có tin Trung Quốc đang cố rút ngắn mục tiêu của năm
2000 xuống năm 1997 sẽ tăng tổng sản phẩm quốc dân lên gấp 4 lần. Sức
ép của Trung Quốc đối với ta sẽ phát triển thuận chiều với sự phát
triển các mặt của Trung Quốc.
3. Những phân tích tình hình trên đây
có thể dẫn đến kết luận: Trước mắt cũng như trong tương lai dự báo
được, Trung Quốc là nguồn xuất xứ chính của những thách thức đe doạ đối
với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cũng như đối với an ninh và phát
triển của Việt Nam. Những thách thức đe doạ trên nhiều mặt của Trung
Quốc đối với ta đều đang là những vấn đề hiện thực, đang xảy ra và ta
đang phải xử lý, khác với những thách thức đe doạ của các đối tượng
khác, kể cả Mỹ, có phần nào còn là giả định và dự phòng. Những mâu
thuẫn về lợi ích trên các mặt giữa ta với Trung Quốc có nhiều hơn với
các đối tượng khác.
III. Kiến nghị đối sách
1. Xét về so sánh lực lượng giữa Việt
Nam và Trung Quốc, Việt Nam là nước nhỏ so với Trung Quốc là nước lớn,
có trọng lượng và ảnh hưởng chính trị rộng lớn hơn ta nhiều. Nếu tách
riêng mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc với những vấn đề tranh chấp
hiện có cũng như tiềm tàng thì tình hình hoàn toàn bất lợi cho ta.
Nhưng nếu gắn mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc vào trong tổng thể quan
hệ quốc tế của thế giới và khu vực, thì ta có khả năng vận dụng được
những xu thế lớn của thời đại, như tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các
quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu được quốc tế hoá cao và xu thế
chung muốn duy trì và củng cố hoà bình và ổn định để đẩy mạnh phát
triển kinh tế, để cải thiện thế chính trị của ta trong cuộc đấu tranh
nhằm giải quyết các vấn đề tranh chấp với Trung Quốc bảo vệ lợi ích
chính đáng của ta.
Vì bên cạnh những chỗ mạnh so với ta
trên mặt trận đối ngoại Trung Quốc có những điểm yếu cơ bản mà ta có
thể và cần biết cách khai thác để có thể hạn chế Trung Quốc trong chính
sách lấn ép ta trên nhiều mặt. Những điểm yếu đó là:
a. Để thực hiện ưu tiên tối cao là đẩy
nhanh hiện đại, Trung Quốc cần Mỹ hơn là Mỹ cần Trung Quốc. Do đó tuy
giữa Mỹ - Trung Quốc có đấu tranh và thoả hiệp, nhưng rõ ràng Trung
Quốc ngại phản ứng của Mỹ, không dám thách thức Mỹ trong khi thế và lực
của Trung Quốc còn có hạn. Thế giới cũng như các nước khu vực đều coi
Mỹ là đối trọng có hiệu quả nhất trong việc kiềm chế Trung Quốc. Cũng
vì thế Trung Quốc rất không muốn Mỹ cải thiện quan hệ và đi tới bình
thường hoá quan hệ với Việt Nam.
b. Trong lúc chưa xây dựng được lực
lượng
kinh tế cũng như quân sự đủ mạnh,
Trung Quốc rất ngại các nước khu vực Đông Nam Á - đối tượng bành trướng
trước mắt của Trung Quốc – liên kết với nhau, đặc biệt là giữa ASEAN và
Việt Nam, thành thế “quần lang đấu hổ” chống lại nguy cơ chung. Chính
vì vậy mà Trung Quốc đang tìm mọi cách lôi kéo phân hoá Đông Nam Á
thành những mảnh riêng biệt, thậm chí có thể chống đối nhau.
c. Trước xu thế mạnh mẽ của chung trên
thế giới và trong khu vực muốn có ổn định để tập trung ganh đua phát
triển kinh tế, Trung Quốc rất ngại bị dư luận quốc tế, trước hết là dư
luận khu vực, coi là “nhân tố gây mất ổn định” ở châu Á - Thái Bình
Dương và thế giới. Cuộc vận động của Mỹ, Nhật, nhất là ASEAN, nhằm từng
bước thúc đẩy việc hình thành một diễn đàn và tiến tới một cơ chế về an
ninh tập thể khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay chính là nhằm
kiềm chế Trung Quốc.
2. Để có thể tận dụng những điểm yếu
của Trung Quốc vào việc cải thiện thế chính trị trong cuộc đấu tranh
không cân sức này, ta nhất thiết cần phải chọn lựa và hình thành một
chiến lược đối ngoại hết sức linh hoạt phù hợp với chiều hướng diễn
biến chung của chính trị và kinh tế thế giới, thích ứng với những đặc
điểm lớn của cục diện quốc tế hiện tại. Cuộc đấu tranh chống lại những
thách thức đe doạ của đối tượng đặc biệt này là một nhiệm vụ hết sức
thúc bách, đòi hỏi những biện pháp tổng hợp song điển và trên mặt trận
ngoại giao là chính.
Với sự kết thúc trạng thái thế giới
phân thành 2 cực đối lẫn nhau, do tính tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng
tăng giữa các nước trên toàn cầu và trong mỗi khu vực, việc không ngừng
mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá để hoà
nhập vào đời sống chung của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng cả về
chính trị lẫn kinh tế. Đồng thời trong bối cảnh quốc tế hiện nay, an
ninh của một nước tuỳ thuộc rất lớn và trước hết vào mối quan hệ với
các nước trong khu vực. Đặc biệt việc xử lý các vướng mắc trong quan hệ
quốc tế và khu vực của ta vừa qua cho thấy việc xử lý tốt mối quan hệ
với các nước lớn là cực kỳ quan trọng đối với lợi ích an ninh và phát
biểu của nước ta. Kinh nghiệm xương máu của dân tộc ta trong những thập
kỷ qua cho thấy cần có chính sách quan hệ cân bằng giữa các nước lớn,
khôn khéo lợi dụng những sai khác về lợi ích giữa họ với nhau, và tuyệt
đối không để bên ngoài hiểu là Việt Nam có ý đồ đi với nước lớn này
chống nước nọ, gần lợi ích của ta với lợi ích an ninh và phát triển của
các nước láng giềng trong khu vực để taọ cho nước ta một thế quốc tế
thuận lợi hơn.
3. Những trọng điểm trong chiến lược
đối ngoại của ta phải là các nước lớn trong tam giác chiến lược châu Á
- Thái Bình Dương và khối các nước ASEAN, những nhân tố có khả năng tác
động nhiều tới Trung Quốc.
a. Với Mỹ:
Quan hệ với Mỹ là một bộ phận quan
trọng trong chính sách đa dạng hoá quan hệ đối ngoại của ta. Hiện nay
Mỹ là nhân tố duy nhất có khả năng làm đối trọng và kiềm chế Trung
Quốc, do đó ta cần kiên trì và quyết tâm kéo Mỹ đi vào bình thường hoá
quan hệ. Kéo Mỹ vào vấn đề Mỹ có lợi ích trực tiếp
ở Việt Nam, nhất là lợi ích trong lĩnh vực dầu khí ngoài khơi Việt Nam,
khiến Mỹ không thể làm ngơ trước tình hình “bất ổn định” do Trung Quốc
khiêu khích, xâm lấn gây ra. Một nhà nghiên cứu Mỹ về châu Á đã đánh
giá “một dàn khoan của Công ty Mobil Oil (Mỹ) ở biển Đông có giá trị
ngang với cả một Hạm đội 7”.
Thúc đẩy bình thường hoá quan hệ
với Mỹ trước hết là việc bỏ cấm vận có ý nghĩa rất quan trọng
đối với yêu cầu an ninh, ổn định và phát triển kinh tế của ta, giúp ta
cải thiện với các đối tượng khác và tạo thêm điều kiện thuận lợi cho ta
đối phó với các thách thức hiện nay. Triển khai mạnh mẽ quan hệ với Mỹ
cũng như với các đối tượng khác không phải để tạo một tập hợp lực lượng
chống Trung Quốc vì điều đó trái với phương châm đối ngoại “làm bạn với
tất cả” của ta, cũng không phù hợp với các tính toán chiến lược của Mỹ
cũng như của các nước khác.
Việc ta vừa giữ hoà khí với Trung Quốc
vừa có quan hệ bình thường với Mỹ và thúc đẩy quan hệ với Nhật, phương
Tây và ASEAN và các nước khác sẽ tạo ra cho ta thế mạnh trong quan hệ
cân bằng với các đôí tượng.
Trong tình hình hiện nay việc hợp tác
giải quyết tốt vấn đề POW/MIA là khâu thiết yếu để tháo gỡ trở ngại cho
quan hệ Việt – Mỹ. Đồng thời đẩy mạnh công tác vận động trong nội bộ Mỹ
(lobby) với khẩu hiệu có tính sách lược dễ tranh thủ dư luận Mỹ thúc
đẩy Mỹ sớm bỏ cấm vận, thu hút các công ty Mỹ vào làm ăn ở Việt Nam vừa
tạo áp lực vừa tạo điều kiện cho chính quyền Mỹ đi vào bình thường hoá
quan hệ với ta sớm nhất. Mặt khác ta cần quan tâm
có chủ trương, chính sách và biện pháp thích đáng để vô hiệu hoá ý đồ
của Mỹ và các nước phương Tây dùng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” gây sức
ép với ta.
Song song với các bước cải thiện quan
hệ Việt Nam và Mỹ, cần kết hợp mở rộng đường lối “hoà hợp dân tộc” bằng
những chính sách cụ thể đối với Việt kiều ở Mỹ và các nước khác nhằm
chuyển họ thành những lực lượng mạnh mẽ hỗ trợ cho công cuộc hiện đại
hoá nền kinh tế và KHKT của nước nhà. Việc làm này tất nhiên sẽ tác
động trở lại đối với việc tăng cường quan hệ hợp tác của ta với Mỹ và
các nước có người Việt sinh sống.
b. Với ASEAN:
ASEAN hiện được coi là tổ chức khu vực
có sức sống mạnh nhất mà các nước lớn, trong đó có Trung Quốc, phải
tính đến trong chính sách châu Á - Thái Bình Dương của họ. Giữa ta và
các nước ASEAN có nguyện vọng chung là hoà bình, ổn định và phát triển,
đồng thời cũng phải lo đối phó với thách thức bên ngoài, từ Trung Quốc
và Nhật Bản. Tăng cường hợp tác khu vực vừa phù hợp với xu thế hiện nay
vừa tạo thế cho ta trong quan hệ với các nước lớn ngoài khu vực, nhất
là Trung Quốc. Để thúc đẩy quan hệ này, ngoài việc tăng cường quan hệ
song phương bằng các biện pháp xây dựng lòng tin, cần sớm gạt những tồn
tại trong quan hệ tay đôi giữa ta và một số nước ASEAN qua việc hợp tác
giải quyết vấn đề vùng chồng lấn với Inđônêxia, Malaysia, Thái Lan,...
cần có các bước đi mạnh mẽ tham gia các cơ chế hợp tác khu vực vì an
ninh và phát triển phù hợp với khả năng và lợi ích của ta; đặc biệt là
cần tích cực tham gia quá trình trao đổi về cơ cấu an ninh khu vực và
sớm tính việc tham gia ASEAN. Nói chung ta cần tích cực, chủ động tăng
cường các điểm đồng giữa ta và các nước ASEAN, xử lý khéo léo những
khác biệt, tránh để những khác biệt ảnh hưởng tới quan hệ hợp tác.
c. Với các nước và
các đối tượng khác, đặc biệt là với Nhật Bản, Nga, Cộng đồng châu Âu,...
ta cần tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác về nhiều mặt nhằm tận dụng
tối đa khả năng hợp tác kinh tế, KHKT, kinh nghiệm quản lý của các nước
này cho công cuộc phát triển đất nước và qua đó góp phần tạo thế cân
bằng lực lượng có lợi cho ta ở khu vực, tranh thủ tập hợp dư luận rộng
rãi hỗ trợ cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của ta, tạo
nên một mạng lưới lợi ích kinh tế – chính trị, che chắn thêm cho ta
trước mưu đồ xâm lấn của Trung Quốc.
d. Với Trung Quốc:
- Bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc là một yêu cầu chiến lược của ta. Do Trung Quốc thi hành
chính sách 2 mặt nên đối sách của ta cũng gồm 2 mặt vừa hợp tác vừa đấu
tranh, vừa chủ động thúc đẩy quan hệ trên cơ sở những thoả thuận đã đạt
được, vừa kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đồng thời giữ vững
phương châm không để trở lại tình trạng đối đầu với Trung Quốc cũng như
không đặt các nước trước sự lựa chọn hoặc Việt Nam hoặc Trung Quốc.
Biện pháp tối ưu lúc này là chủ động tạo nên cục diện các nước lớn và
ASEAN có lợi ích kinh tế, an ninh ngày càng lớn trong quan hệ với Việt
Nam. Cục diện đó cộng với sự lớn mạnh càng nhanh càng tốt của bản thân
chúng ta sẽ là sự răn đe có hiệu quả nhất đối vơí mọi hoạt động lấn
chiếm của Trung Quốc.
- Kiên quyết đấu tranh hạn chế ý đồ
lấn chiếm của Trung Quốc ở biển Đông, đặc biệt ở vùng thềm lục địa của
ta; áp dụng các biện pháp khôn khéo nhưng có hiệu quả ngăn chặn hoạt
động của Trung Quốc mà không dẫn đến đối đầu về quân sự.
- Xúc tiến việc xác định phạm vi của
quần đảo Trường Sa để xem xét khái niệm “khai thác chung”, phá ý đồ
Trung Quốc lợi dụng vấn đề này chia rẽ phân hoá giữa ta và ASEAN.
- Chuẩn bị khả năng đưa ra toà án quốc
tế hoặc trọng tài quốc tế vấn đề Trung Quốc vi phạm thềm lục địa của ta.
- Đến một lúc nào đó ta nên tính đến
khả năng mở cảng Cam Ranh thành một thương cảng cho các tàu quốc tế ra
vào, kể cả tàu Mỹ, tạo sự có mặt của nhiều quốc gia ở khu vực biển
Đông, ngăn ý đồ độc chiếm của một nước. Song tất nhiên ta phải có chính
sách và luật pháp chặt chẽ để bảo đảm chủ quyền và an ninh quốc gia.
ĐẠI SỰ KÝ 1975 - 1991
(Dùng cho Hồi ức và
Suy nghĩ)
1975
01.02
|
TNS M. Mansfield báo cáo trước
Quốc hội Mỹ sau khi đi thăm Trung Quốc về: Trung Quốc tán thành để 2
nước Việt Nam tiếp tục tồn tại. Trung Quốc cho rằng một nước Campuchia
thống nhất trung lập là điều chủ yếu trong một Đông Dương ổn định.
|
17.04
|
Giải phóng PhnomPenh.
|
30.04
|
Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn
thắng. Giải phóng Sài gòn.
|
04.05
|
Quân Polpot tấn công đảo Phú Quốc
và từ đó liên tiếp tấn công biên giới trên bộ và trên biển của ta.
|
05.05
|
H. Kissinger: với việc mất Việt
Nam, sẽ có sự sắp xếp lại lực lượng quan trọng ở Đông Nam Á, Campuchia
và Lào sẽ là chư hầu của Hà Nội, còn Thái Lan và
Inđônêxia sẽ tự động liên minh với Việt Nam. Trung Quốc sẽ giữ không
cho Việt Nam có bất kỳ hành động quyết liệt nào.
|
?.05
|
Thông điệp miệng của ta nhờ Liên
Xô chuyển tới Mỹ tỏ ý muốn hai bên có quan hệ tốt.
|
12.06
|
Mỹ gửi đến Đại sứ quán ta tại
Paris thông điệp: “Về nguyên tắc, Mỹ không hận thù gì Việt Nam, đề nghị
trên cơ sở đó tiến hành bất cứ quan hệ nào giữa hai bên. Mỹ sẵn sàng
nghe bất cứ gợi ý nào đó Việt Nam đưa ra”.
|
11.07
|
Thông điệp ta trả lời: nhắc Mỹ
nghĩa vụ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh.
|
10.07 và 05.09
|
Tiếp xúc giữa bí thư thứ nhất ĐSQ
Việt Nam Đỗ Thanh và bí thư thứ nhất ĐSQ Mỹ Pratt ở Paris.
|
27-29/07
|
Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt
Nam do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dẫn đầu đi thăm Campuchia.
|
09.08
|
Vụ Watergate – Nixon từ chức. Phó
tổng thống G.Ford lên thay.
|
11.08
|
Tại Hội đồng Bảo an, Mỹ phủ quyết
Việt Nam vào LHQ
|
07.12
|
G. Ford công bố “học thuyết Thái
Bình Dương mới” gồm 6 phương hướng chính: sức mạnh Mỹ đã cân bằng lực
lượng ở Thái Bình Dương, liên minh với Nhật, bình thường hoá quan hệ
với Trung Quốc, quan hệ mạnh với ASEAN, giải quyết xung
đột khu vực, hợp tác kinh tế trong vùng.
|
21.12
|
Đoàn hạ nghị sĩ Mỹ do G. V.
Montogomery vào Hà Nội nhận 3 bộ hài cốt giặc lái Mỹ. Thủ tướng Phạm
Văn Đồng tiếp đoàn.
|
tháng 12
|
H. Kissinger phát biểu ở Paris
sau khi đi thăm Trung Quốc: Mỹ đang tính toán việc sử dụng Trung Quốc
để hạn chế ảnh hưởng của Việt Nam ở khu vực.
|
1976
|
|
10.01
|
Mỹ thông qua Liên Xô thăm dò việc
tiếp xúc với ta, song khẳng định không thực hiện Điều 21 (bồi thường
chiến tranh)
|
26.03
|
H. Kissinger gửi công hàm cho bộ
trưởng ngoại giao ta: Mỹ sẵn sàng thảo luận với Việt Nam để phát triển
quan hệ mới giữa hai nước.
|
10.04
|
Bộ trưởng Ngoại giao ta trả lời:
nêu lại những vấn đề tồn tại giữa hai nước (điều 21 và vấn đề MIA).
Trên cơ sở giải quyết những vấn đề đó sẽ bình thường hoá quan hệ với Mỹ.
|
07.05
|
Tổng thống G. Ford bác kiến nghị
của quốc hội Mỹ yêu cầu tạm thời ngừng cấm vận buôn bán với Việt Nam
trong 6 tháng.
|
08.05
|
Công hàm của ngoại trưởng Mỹ H.
Kissinger gửi Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh: sẵn sàng mở cuộc thảo luận
về việc thiết lập mối quan hệ mới giữa hai nước, song chỉ khi nào vấn
đề MIA được giải quyết về thực chất thì mới có tiến bộ đi tới bình
thường hoá quan hệ.
|
19.06
|
Thông điệp của BNG ta phê phán Mỹ
“đơn phương tuyên bố xoá bỏ Hiệp định”, lẩn tránh nghĩa vụ đối với điều
21 đồng thời lại đòi Việt Nam thi hành điều 8b của Hiệp định: nhắc lại
lập trường ta gắn 2 vấn đề với nhau. Bước đầu sẵn sàng gặp đại diện Mỹ
ở Paris để trao đổi ý kiến.
|
19.07
|
Mỹ gửi thông điệp trả lời đồng ý
mở cuộc thảo luận tại Paris giữa người thứ 2 của hai sứ quán
|
01.08
|
Ta trao trả Mỹ tất cả 27 người Mỹ
bị kẹt lại ở Nam Việt Nam sau ngày 30.4.75
|
27.08
|
Thông điệp của ta gửi Mỹ xác định
người gặp (tham tán Trần Hoàn) và nói gặp (luân phiên giữa hai sứ quán
tại Paris).
|
Tháng 11
|
Tổng tuyển cử Mỹ – Jimmy Carter
(Dân chủ) trúng cử Tổng thống
|
Tháng 12
|
Đại hội IV với luận điểm “3 giòng
thác cách mạng trong thế tiến công”
|
1977
|
|
06.01
|
Mỹ thông qua Liên Xô đưa ra kế
hoạch 3 bước bình thường hoá quan hệ với Việt Nam:
Việt Nam cho biết tin về MIA ở Việt Nam; Mỹ chấp nhận Việt Nam vào LHQ
và sẵn sàng lập quan hệ ngoại giao cũng như bắt đầu buôn bán với Việt
Nam; Mỹ có thể đóng góp khôi phục Việt Nam bằng cách phát triển buôn
bán, cung cấp thiết bị và các hình thức hợp tác kinh tế khác.
|
11.01
|
Ngoại trưởng C.Vance: Việc tiến
tới bình thường hoá quan hệ Mỹ - Việt Nam là phù
hợp với lợi ích của hai nước.
|
03.3
|
Chính quyền J. Carter quyết định
nới lỏng cấm vận với Việt Nam.
|
09.03
|
Mỹ cho phép công dân Mỹ đi thăm
Việt Nam, Campuchia, Bắc Triều Tiên, Cuba, kể từ 18.3.77.
|
17.03
|
Uỷ ban của tổng thống Mỹ do
Leonard Woodcock dẫn đầu sang thăm Việt Nam.
|
30.04
|
Polpot bắt đầu chiến tranh biên
giới chống ta.
|
03-04.05
|
Vòng 1 đàm phán Việt Nam – Mỹ tại
Paris về bình thường hoá quan hệ hai nước: Mỹ đề
nghị lập ngay quan hệ ở cấp đại sứ, trao đổi sứ quán có quan hệ lãnh
sự; Mỹ không cản Việt Nam vào LHQ; Mỹ có khó khăn về mặt pháp luật nên
không thực hiện Điều 21 được mà hứa sẽ thực hiện khi có quan hệ, bỏ cấm
vận buôn bán và xét viện trợ nhân đạo.
|
02-03.06
|
Vòng 2 đàm phán Việt – Mỹ tại
Paris. Mỹ nêu lại các đề nghị đã nói ở vòng 1.
|
19-20.12
|
Vòng 3 đàm phán Việt Nam – Mỹ tại
Paris, Mỹ đề nghị nếu hai bên chưa lập quan hệ ngoại giao đầy đủ thì có
thể lập Phòng quyền lợi (Interest Section), nhưng như thế thì chưa bỏ
cấm vận được. Song ta vẫn giữ lập trường “cả gói” 3 vấn đề: quan hệ
ngoại giao, bồi thường và MIA.
|
-tháng 12
|
Liên Xô đưa quân vào
Afghanistan - đỉnh cao của quá trình Liên Xô bành trướng, cả thế giới
bên ngoài.
|
31.12
|
Chính quyền Polpot đơn phương cắt
quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
|
1978
|
|
08.01
|
Z.Brezinski: Điều lý thú là đây
là trường hợp đầu tiên của một cuộc chiến tranh qua tay người khác
(proxy war) giữa Liên Xô và Trung Quốc, Việt Nam được Liên Xô ủng hộ và
Campuchia được Trung Quốc ủng hộ.
|
05.05
|
Phó tổng thống Mỹ W.Mondale phát
biểu khi đi thăm 5 nước ASEAN: “Mỹ sẽ đẩy mạnh việc bình thường hoá
quan hệ với Trung Quốc vì nó giữ thế ổn định khu
vực: Chính sách của Trung Quốc ở Đông Nam Á về một số mặt là song hành
với Mỹ. Mỹ đã đưa ra đề nghị hợp lý với Việt Nam và vẫn giữ lập trường
thiết lập quan hệ mà không có điều kiện tiên quyết. Họ vẫn giữ lập
trường là Mỹ trước hết phải cam kết viện trợ. Nhân dân, Quốc hội và
chính quyền Mỹ không cho phép làm điều đó.”
|
11.05
|
R.Oakley, trợ lý ngoại trưởng Mỹ:
“Việt Nam, với 50 triệu dân, là quốc gia cộng sản lớn thứ 3 trên thế
giới và mạnh nhất về quân sự ở Đông Nam Á. Thái độ Việt Nam với các
nước khác là quan trọng trong các thập niên tới. Quan hệ ngoại giao và
sự có mặt của Mỹ ở Hà Nội có thể phục vụ lợi ích bạn bè Mỹ ở châu Á
cũng như lợi ích của Mỹ và Việt Nam.”
|
19.05
|
Đặng Tiểu Bình tuyên bố: “Trung
Quốc là NATO phương Đông” (có công giữ 40 sư đoàn Liên xô tại biên giới
Xô-Trung), “Việt Nam là Cuba phương Đông.”
|
29.06
|
Việt Nam tham gia khối COMEON.
|
05.07
|
Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền
nói tại Tokyo: Việt Nam sẵn sàng bình thường hoá quan hệ
với Mỹ không có điều kiện tiên quyết.
|
20.05 (7?)
|
Brezinski cố vấn an ninh
của tổng thống Mỹ đi thăm Trung Quốc.
|
27.07
|
Nghị quyết TƯ.09 (khoá IV): Trung
Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất. Mỹ là kẻ thù cơ bản và lâu
dài, quyết tâm đánh đổ chế độ diệt chủng Polpot.
|
21.08
|
Đoàn 7 hạ nghị sĩ Mỹ do
G.V.Montgomery sang Việt Nam về vấn đề MIA.
|
22-27.09
|
Vòng 1 đàm phán Việt Nam – Mỹ
(Nguyễn Cơ Thạch – R.Holbrooke) tại New york. Ta chấp nhận đề nghị của
Mỹ đưa ra tháng 5.77, tức là bình thường hoá quan hệ không
điều kiện. Việc ta chuyển đổi lập trường quá muộn nên không đem lại kết
quả.
Holbrooke nói: Mỹ coi trọng châu
Á lo sợ việc Liên Xô đã cản trở Cam Ranh.
|
01.10
|
Việt Nam tuyên bố bác đề nghị của
Polpot ngày 29.9.98, đòi Campuchia ngừng bắn và rút khỏi biên giới
trước rồi mới có thể bắt đầu thương lượng.
|
03.11
|
Việt Nam và Liên Xô ký hiệp ước
hữu nghị và hợp tác.
|
30.11
|
R. Oakley gặp Trần Quang Cơ tại
Nữu ước nói: Mỹ không thay đổi lập trường bình thường hoá quan hệ với
Việt Nam, nhưng phải chậm lại vì cần làm rõ 3 vấn đề Campuchia, hiệp
ước Việt – Xô và vấn đề người di tản Việt Nam.
|
15.12
|
Trung Quốc và Mỹ ra
thông cáo chung chínn thức công nhận nhau và thiết lập quan hệ ngoại
giao từ ngày 1.1.79.
|
16.12
|
M.Mansfield đại sứ Mỹ ở Nhật:
“chỉ sau khi những khó khăn giữa Trung Quốc và Việt Nam được giải quyết
mới có lý do chính đáng để hy vọng giaỉ quyết quan hệ ngoại giao Mỹ -
Việt Nam.”
|
1979
|
|
07.01
|
Ta giúp bạn đánh đuổi Polpot và
giải phóng PhnomPenh.
|
11.01
|
Thành lập nước CHND Campuchia.
|
29.01 – 04.02
|
Đặng Tiểu Bình đi thăm
chính thức Mỹ, Hội đàm J. Carter - Đặng
|
16.02
|
Carter nêu 6 nguyên tắc sử xự khi
Trung Quốc xâm lược Việt Nam: không can thiệp trực tiếp, khuyến khích
các bên kiềm chế, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia và Trung Quốc rút
quân khỏi Việt Nam; xung đột không đe doạ lợi ích trước mắt của Mỹ;
không vì Việt Nam xâm lược Campuchia mà đặt lại vấn đề bình thường hoá
quan hệ với Trung Quốc; quyền lợi đồng minh của Mỹ không bị đe doạ.
|
17.02
|
Trung Quốc tấn công Việt Nam trên
toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta. “Dạy cho Việt Nam một bài học”
(lời Đặng Tiểu bình).
|
17.02
|
Bộ ngoại giao Mỹ ra tuyên bố phản
đối cả 2 cuộc xâm lược (Việt Nam vào Campuchia, Trung Quốc vào Việt
Nam) và kêu gọi 2 bên rút quân ngay.
|
18.02
|
Chính phủ Liên Xô ra tuyên bố
phản đối Trung Quốc xâm lược Việt Nam.
|
19.02
|
Ký hiệp ước hoà bình, Hữu nghị và
Hợp tác Việt Nam – Campuchia tại PhnomPenh.
|
Cuối tháng 2
|
Đặng nói với các nhà báo
ở Bắc Kinh: “Chúng tôi có thể dung thứ việc Liên Xô có ở Việt Nam 70%
ảnh hưởng, miễn là 30% còn lại dành cho Trung Quốc”.
|
05.03
|
Trung Quốc tuyên bố rút quân khỏi
lãnh thổ Việt Nam.
|
Tháng 3
|
Trung Quốc tuyên bố huỷ
Hiệp ước Hữu nghị, đồng minh tương trợ Trung – Xô ký 15.2.1950 giữa Chu
Ân Lai và Krourchev dịp Mao thăm Liên Xô.
|
Tháng 4
|
Đàm phán vòng 1 Việt Nam - Trung
Quốc tại Hà Nội
|
Tháng 4
|
L. Breinev làm TBT. Đại
hội ĐCS Liên Xô thứ 26
|
07.10
|
Sihanouk gửi 2 thư và 1 điện
(ngày 7, 23/10 và 11/11). Ta không trả lời.
|
Tháng 10
|
Bộ Ngoại Giao phát hành cuốn “Sự
thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua”.
|
10.12
|
LHQ quyết định vẫn để Khmer đỏ
giữ ghế của Campuchia tại LHQ.
|
1980
|
|
05.01
|
Hội nghị ngoại trưởng 3 nước Việt
Nam – Lào – Campuchia lần thứ 1 tại PhnomPenh. Đàm phán vòng 2 Việt Nam
- Trung Quốc tại Bắc Kinh. Không kết quả. Trung Quốc cắt cầu đàm phán.
Từ đó đến cuối năm 1988, ta nhiều lần gửi công hàm hoặc thư đề nghị nối
lại đàm phán, song Trung Quốc đều bác bỏ.
|
29.7
|
Đại sứ Mỹ ở Thái Abramowitz: Mỹ
không bao giờ công nhận chế độ Polpot; tuy nhiên gạt Polpot ra khỏi LHQ
chỉ càng làm tăng vị thế của Việt Nam. Quan điểm của Mỹ và Trung Quốc
về Campuchia có khác nhau. Mỹ nhìn vấn đề về mặt chiến lược, đặc biệt
lo ngại biên giới Campuchia - Thái Lan.
|
1981
|
|
19.01
|
Tổng thống mới R.Reagan: Quan hệ
Mỹ – Trung dưới thời Carter là không có lợi. Mỹ phải trả giá.
|
19.02
|
Đại sứ Mỹ ở Thái Abramowitz trao
ta bản ghi nhớ: Đáng tiếc Việt Nam, Liên Xô đã phá vỡ ổn định, ngạc
nhiên việc Việt Nam cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh: không hài lòng
việc giải quyết vấn đề MIA trong 2 năm rưỡi qua.
|
18.05
|
Nghị quyết 39 BCT: đấu tranh
chống chủ nghĩa Mao trên mọi hình thái của nó; chống chủ nghĩa bành
trướng bá quyền nước lớn; liên minh và hợp tác toàn diện với Liên Xô.
|
13.07
|
Hội nghị quốc tế về Campuchia ở
Nữu ước. Ngoại trưởng Mỹ A.Haig nói Mỹ không có ý định bình thường hoá
quan hệ với Việt Nam còn đang chiếm đóng Campuchia,
làm mất ổn định Đông Nam Á.
|
12.12
|
Đặng Tiểu Bình tuyên bố
với nghị sĩ Italia Colombo: “Cả Mỹ và Liên Xô đều là những tên bá
quyền”. Từ đó Trung Quốc chuyển từ “chống bá quyền Liên Xô” sang “chống
bá quyền” của “hai siêu”.
|
1982
|
|
14.01
|
Sứ quán Mỹ ở Bangkok gửi message
cho ta qua Lê Văn Hoá: Mỹ muốn một giải pháp chính trị về Campuchia. Mỹ
không nhấn việc đòi Việt Nam rút quân ngay, rút hết mà chỉ đàm phán rút
một phần và có 1 lịch rút quân. Một nước Việt Nam độc lập với
Liên Xô và Trung Quốc là phù hợp với lợi ích của Mỹ. Muốn
biết ý kiến Việt Nam về lực lượng giữ gìn hoà bình của LHQ.
|
16-17.02
|
Hội nghị 3 ngoại trưởng Việt Nam
– Lào – Campuchia lần thứ 5 tại Vientiane.
|
24.03
|
Brejnev tuyên bố ở Taskent: Liên
Xô chưa hề phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa đang tồn tại ở Trung Quốc.
Mong muốn cải thiện quan hệ với Trung Quốc.
|
07.07
|
Hội nghị 3 ngoại trưởng Việt Nam
– Lào – Campuchia lần thứ 6 tại TP. Hồ Chí Minh tuyên bố: Việt Nam và
Campuchia thoả thuận đi bước trước, quyết định sẽ rút một số quân Việt
Nam khỏi Campuchia trong tháng 7.82 và có thể xem xét rút thêm căn cứ
vào tình hình biên giới Campuchia – Thái và sự đáp ứng của Thái Lan.
|
02.10
|
Đàm phán Xô - Trung lần
thứ nhất. Trung Quốc đưa ra 5 điểm về Campuchia và quan hệ Trung Quốc -
Việt Nam: Việt Nam tuyên bố rút quân vô điều kiện khỏi Campuchia; nếu
Việt Nam quyết định rút hết quân khỏi Campuchia thì sau đợt rút quân
đầu, Trung Quốc sẵn sàng đàm phán với Việt Nam về bình thường hoá quan
hệ.
|
?.10
|
R.Childress, cố vấn chính
trị–quân sự Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ nói với Nguyễn Cơ Thạch: đề
nghị đoàn chuyên viên cấp cao nhất vào Việt Nam để thảo luận vấn đề
MIA. Mỹ không muốn Việt Nam rút quân Campuchia để Polpot quay trở lại.
|
10.11
|
Brejnev chết. Trung Quốc
cử ngoại trưởng Hoàng Hoa sang viếng. Khi đi Đặng dặn: phải khéo léo
nói quan hệ hai nước xấu đi từ sau năm 50 để chỉ Kroutchev, từ sau năm
65 xấu đến mức nghiêm trọng để chỉ Brejnev; tránh nói tên.
|
1983
|
|
23.02
|
Hội nghị cấp cao Việt Nam – Lào –
Campuchia họp ở Viêng chăn. Tuyên bố của Việt Nam và Campuchia: hàng
năm sẽ rút một số quân Việt Nam khỏi Campuchia; tất cả quân tình nguyện
Việt Nam sẽ rút hết về nước khi mối đe doạ đối với CHND Campuchia chấm
dứt.
|
01.03
|
Đàm phán Xô - Trung lần
thứ 2. Trung Quốc nêu việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia là 1 trong 3
trở ngại cho bình thường hoá quan hệ Trung – Xô.
|
01.03
|
Bộ Ngoại Giao Trung Quốc: Việt
Nam rút đơn vị đầu tiên khỏi Campuchia, Trung Quốc sẽ nối lại đàm phán.
|
12.04
|
Hội nghị bất thường 3 ngoại
trưởng Việt Nam – Lào – Campuchia tại PhnomPenh tuyên bố rút quân Việt
Nam lần thứ 2 vào tháng 5.83. Rút 1 binh đoàn.
|
02.05
|
Lễ tiễn quân tình nguyện Việt Nam
rút đợt 2.
|
19-20.07
|
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam –
Lào – Campuchia lần thứ 7 tại PhnomPenh khẳng định: quân tình nguyện
Việt Nam sẽ được rút hết khỏi Campuchia khi Trung Quốc chấm dứt đe doạ.
|
1984
|
|
28-29.04
|
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam –
Lào – Campuchia lần thứ 8 tại Vientiane.
|
Tháng 4
|
Chiến dịch mùa khô đánh vào các
Khmer đỏ trên đường biên giới Campuchia - Thái Lan.
|
21-23.06
|
Đợt rút quân thứ 3 của quân tình
nguyện Việt Nam khỏi Campuchia.
|
1985
|
|
|
Liên Xô: Gorbachov lên,
bắt đầu điều chỉnh chính sách đối nội, ngoại. Nhiều lần nói mong muốn
cải thiện, quan hệ Xô - Trung, song không đả động đến “3 trở ngại”, đặc
biệt là việc rút quân Việt Nam khỏi Campuchia.
|
08.01
|
Nguyễn Cơ Thạch thư cho Ngô Học
Khiêm đề nghị nối lại đàm phán.
|
28-29.01
|
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam –
Lào – Campuchia lần thứ 10 tại TP. Hồ Chí Minh tuyên bố: quân đội Việt
Nam sẽ tiếp tục rút dần hàng năm và sẽ rút hết khỏi Campuchia vào năm
1990.
|
21.01
|
Ngô Học Khiêm thư trả lời: sau
khi Việt Nam công khai cam kết và thực hiện rút quân khỏi Campuchia thì
đàm phán mới có ý nghĩa thực tế.
|
23.01
|
Ngoại trưởng Trung Quốc Ngô Học
Khiêm đi các nước Đông Nam Á. Khi đến Singapore nói: “Trung Quốc sẽ
“dạy cho Việt Nam bài học thứ hai”.
|
02.04
|
Đợt rút quân thứ 4 của Việt Nam
khỏi Campuchia.
|
15.05
|
Thứ trưởng ngoại giao Mỹ
Armacost: Về vấn đề Campuchia, Mỹ sẽ để ASEAN, Trung Quốc đi trước, Mỹ
muốn dùng vấn đề Campuchia để ngăn Trung Quốc và Liên Xô cải thiện quan
hệ.
|
1986
|
|
23-24.01
|
Hội nghị ngoại trưởng Việt Nam –
Lào – Campuchia lần thứ 12 tại PhnomPenh.
|
07-10.04
|
Đàm phán Xô - Trung vòng
8 tại Matxcơva, Trung Quốc vẫn nêu “3 trở ngại”, Liên Xô đề nghị gặp
cấp cao (Gorbachov - Đặng). Trung Quốc từ chối.
|
28.05
|
Đợt rút quân tình nguyện Việt Nam
thứ 5 khỏi Campuchia.
|
08.07
|
Nghị quyết 32 BCT: chuyển sang
giai đoạn đấu tranh mới dưới hình thức cùng tồn tại hoà bình với Trung
Quốc, ASEAN, Mỹ; giải quyết hoà bình vấn đề Campuchia.
|
28.07
|
Diễn văn của Gorbachov ở
Vladivodstock nêu những nét lớn của chính sách đối ngoại mới của Liên
Xô đối với châu Á - Thái Bình Dương: xích dần lại với Trung Quốc, giải
quyết “3 trở ngại” để bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (rút quân
khỏi Afghanistan, chấm dứt xung đột biên giới Xô - Trung, giải quyết
vấn đề Campuchia). Với Mỹ, Liên Xô có thể có “cử chỉ đáp ứng”
(responsive gesture) về vịnh Cam Ranh nếu Mỹ rút các căn cứ quân sự ở
Philippin.
|
05-15.10
|
Vòng 9 đàm phán Xô -
Trung tại Bắc Kinh. 70% thời gian bàn vấn đề Campuchia.
|
19.10
|
Liên Xô bắt đầu rút quân
khỏi Afghanistan.
|
Tháng 12
|
Đại hội VI. Nguyễn Văn Linh được
bầu làm TBT. Đỗ Mười làm thủ tướng. Sửa Lời nói đầu của Điều lệ Đảng,
xoá chỗ nói về Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất”.
|
1987
|
|
07.02
|
Vòng 10 đàm phán Xô -
Trung tại Matxcơva. Trung Quốc lại nêu “3 trở ngại” cho việc bình
thường hoá quan hệ Trung – Xô, trở ngại lớn nhất là việc “Việt Nam xâm
lược Campuchia”.
|
Đầu th. 3
|
Ngoại trưởng Liên Xô Schevarnadzé
đến PhnomPenh thúc đẩy giải quyết vấn đề Campuchia.
|
26.03
|
Bộ Ngoại Giao thành lập CP87
chuyên trách nghiên cứu giải pháp Campuchia và vấn đề bình thường hoá
quan hệ với Trung Quốc.
|
19-20.04
|
Lê Đức Thọ gặp Hunxen, Heng
Somrin và Chia Xim ở PhnomPenh, khuyên Campuchia thoả hiệp với diệt
chủng Polpot, thực hiện “giải pháp Đỏ”.
|
08.05
|
Họp BCT về vấn đề Campuchia (sau
khi Lê Đức Thọ đi PhnomPenh, trước khi TBT Linh đi Liên Xô.
|
20.05
|
Bộ Ngoại giao kiến nghị BCT sửa
Lời nói đầu của Hiến pháp chỗ nói về Trung Quốc (đến 27.8.88 mới thực
hiện).
|
10.06
|
Phó tổng thư ký LHQ Ahmed chuyển
tới ta 4 điểm của Đặng Tiểu Bình.
|
17.06
|
Hunxen (đi thăm Lào) nói với
Ngoại trưởng Lào Phun: muốn liên hiệp với phái Polpot không có Polpot
hơn là với Sihanouk với lý lẽ là bọn Polpot có lực lượng nhưng không có
thế chính trị, còn Sihanouk ngược lại không có lực lượng nhưng có thế
chính trị.
|
26.06
|
Nguyễn Cơ Thạch gặp đại sứ Trung
Quốc chuyển thông điệp miệng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi lãnh đạo
Trung Quốc đề nghị mở đàm phán bí mật hai nước.
|
29.07
|
Thông cáo chung Việt Nam –
Inđônêxia sau cuộc gặp Nguyễn Cơ Thạch – Mochtar tại TP. HCM. Thoả
thuận dùng hình thức “cocktail party” để các bên liên quan gặp nhau bàn
giải pháp Campuchia.
|
22.08
|
Thư của Ngô Học Khiêm gửi Nguyễn
Cơ Thạch nói Trung Quốc chưa thể trả lời thông điệp của ta vì Trung
Quốc không muốn chấp nhận việc đã rồi ở Campuchia.
|
27.08
|
Chính phủ CHND Campuchia công bố
chính sách 5 điểm về hoà hợp dân tộc.
|
02.10
|
Thông điệp miệng của ta nhờ Liên
Xô chuyển cho Trung Quốc nhân cuộc gặp vòng 11 Liên Xô - Trung Quốc tại
Mạctưkhoa ngày 6.10.
|
06.10
|
Đàm phán vòng 11 Xô -
Trung tại Bắc Kinh. Đưa công khai việc bàn vấn đề Campuchia vào thông
cáo báo chí.
|
29.11
|
Đợt rút quân thứ 6 của quân tình
nguyện Việt Nam khỏi Campuchia.
|
12.12
|
Hội đàm Hunxen – Sihanouk lần thứ
1 tại Fère-en-Taidenois (Pháp). Thông cáo chung thoả thuận: giải quyết
xung đột Campuchia bằng biện pháp chính trị; vấn đề Campuchia do nhân
dân Campuchia giải quyết; triệu tập Hội nghị quốc tế để bảo đảm thoả
thuận giữa các bên Campuchia. Gặp lại vòng 2 ở Paris và vòng 3 ở Bình
Nhưỡng.
|
22.12
|
Việt Nam và Campuchia tán thành
gợi ý của Liên Xô để Liên Xô gửi thông điệp cho ngoại trưởng Trung Quốc
đề nghị Liên Xô cùng Trung Quốc dàn xếp một cuộc gặp giữa CHND
Campuchia và Khmer Đỏ, Trung Quốc không đáp ứng.
|
30.12
|
BCT quyết định đổi mới quan hệ
giữa ta với Lào và Campuchia, rút chuyên gia, cố vấn ta ở Lào và
Campuchia giải tán đoàn chuyên gia Việt Nam ở Campuchia.
|
1988
|
|
20-22.01
|
Vòng 2 Hunxen – Sihanouk tại
Paris. Không có thông cáo chung. Hai bên nhất trí: chế độ chính trị ở
Campuchia do nhân dân Campuchia quyết định qua tổng tuyển cử có giám
sát quốc tế; triệu tập hội nghị quốc tế về Campuchia theo kiểu Hội nghị
Genève 1954 về Đông Dương.
|
20-29.01
|
Cuba, Angola và trợ lý ngoại
trưởng Mỹ họp ở Luanda đã thoả thuận việc rút toàn bộ quân Cuba khỏi
Angola.
|
01.02
|
Thư Sihanouk gửi thủ tướng Phạm
Văn Đồng: Mối quan tâm luôn luôn giành cho việc khôi phục quan hệ hữu
nghị hai nước láng giềng anh em chúng ta. Như vậy thì giải pháp này sẽ
tới gần.
|
08.02
|
Gorbachov tuyên bố quân
đội Liên Xô sẽ rút khỏi Afghanistan trong 10 tháng kể từ ngày 15.5.88.
|
14-16.03
|
Đụng độ giữa hải quân Việt Nam và
hải quân Trung Quốc ở Trường Sa.
|
20.05
|
Nghị quyết 13 BCT: giải quyết vấn
đề Campuchia trước 1990, phấn đấu bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc.
|
26.05
|
Bộ Ngoại Giao Việt Nam tuyên bố
rút quân đợt 7 gồm 50.000 quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện; số quân
còn lại sẽ rút sâu vào 30km tronglãnh thổ Campuchia dọc biên giới
Campuchia - Thái Lan.
|
Cuối th.5
|
Họp cấp cao Xô - Mỹ
Gorbachov – Reagan tại Matxcơva, có bàn vấn đề Campuchia.
|
13-20.06
|
Đàm phán Xô - Trung tại
Matxcơva. Hai bên bàn tỉ mỉ vấn đề Campuchia. Liên Xô rút ra 5 điểm
đồng với Trung Quốc về vấn đề Campuchia.
|
28.06
|
Quốc hội ra nghị quyết sửa Lời
nói đầu của Hiến pháp (bỏ câu “Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy
hiểm nhất”). Chính thức thông qua ngày 27.8.88.
|
15.07
|
Nguyễn Cơ Thạch gặp đại sứ Trung
Quốc nêu một loạt biện pháp làm giảm căng thẳng quan hệ hai nước, đề
nghị hai bên nối lại đàm phán ở bất cứ cấp nào.
|
25-26.07
|
Họp JIM 1 (Jakarta Infornal
Meeting) tại Bô-go (Inđônêxia). Cuộc họp tiến hành làm 2 bước: bước đầu
chỉ có 4 phái Campuchia; bước sau có thêm Việt Nam, Lào và 6 nước
ASEAN. Mục đích: tạo một khuôn khổ cho các cuộc thảo luận không chính
thức, giữa các bên liên quan trực tiếp và các nước hữu quan trong việc
tìm kiếm một giải pháp toàn diện, đúng đắn và lâu dài cho vấn đề
Campuchia. Cuộc họp đã khẳng định 2 vấn đề then chốt: việc rút quân
Việt Nam trong khuôn khổ một giải pháp chính trị và việc ngăn chặn sự
trở lại của chế độ diệt chủng Polpot.
|
07.11
|
Vòng 3 Hunxen – Sihanouk tại
Paris. Chủ yếu bàn chương trình nghị sự họp cấp cao 3 bên (Hunxen –
Sihanouk – Son San ngày 8.11.88).
|
01.12
|
Hoàn thành đợt rút quân Việt Nam
thứ 7 khỏi Campuchia gồm 50.000 quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện
Việt Nam ở Campuchia.
|
1989
|
|
05.01
|
TBT Nguyễn Văn Linh dẫn đầu đoàn
đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam đi PhnomPenh dự lễ kỷ niệm 10 năm
Quốc khánh CHND Campuchia.
|
06.01
|
Tuyên bố của Nguyễn Văn Linh và
của Heng Somrin là sẽ rút hết quân Việt Nam khỏi Campuchia trong khuôn
khổ một giải pháp chính trị vào tháng 9.89.
|
09.01
|
Cuba bắt đầu rút quân
khỏi Angola theo Hiệp định 12.8.88 giữa Cuba, Angola và Nam Phi.
|
09.01
|
Ngoại trưởng Thái Siddhi
Savetsila đến Hà Nội.
|
16-19.01
|
Đàm phán Việt Nam - Trung Quốc
cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá
quan hệ hai nước.
|
01.02
|
Ngoại trưởng
Schevarnadzé đến Bắc Kinh hội đàm với Tiên Kỳ Tham về vấn đề Campuchia.
|
15.02
|
Liên Xô hoàn thành việc
rút quân khỏi Afghanistan.
|
11.02
|
Họp BCT bàn việc tách và giải
quyết từng bước một mặt quốc tế và mặt nội bộ của vấn đề Campuchia;
triển khai các diễn đàn Việt – Trung (vòng 2), JIM 2, Việt – Thái, Việt
– Mỹ...
|
16-18.02
|
Họp trù bị (Working group) JIM 2.
Ta đưa ra 3 bước rút quân Việt Nam khỏi Campuchia gắn với 3 bước chấm
dứt viện trợ quân sự của nước ngoài cho các bên Campuchia.
|
19-21.02
|
Họp JIM 2. Khẳng định lại 2 vấn
đề mấu chốt của giải pháp cho vấn đề Campuchia là rút quân Việt Nam
trong khuôn khổ một giải pháp chính trị và ngăn ngừa sự quay trở lại
chính sách và những hành động diệt chủng của chế độ Polpot; chấm dứt
mọi sự can thiệp của nước ngoài và sự giúp đỡ về quân sự cho các phái
đối lập Khmer.
|
14.03
|
Họp BCT: quyết định rút hết quân
khỏi Campuchia vào cuối tháng 9.89; thúc đẩy diễn đàn Hunxen – Sihanouk.
|
22.02-03.03
|
Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch thăm
Singapo, Malayxia và Thái Lan.
|
23.02
|
Trung Quốc – Inđônêxia
bình thường hoá quan hệ.
|
25.02
|
Mỹ - Trung Quốc: Bush
đến Bắc Kinh gặp Đặng Tiểu Bình.
|
13.03
|
Xô viết tối cao Liên Xô
thông qua nghị quyết lập chức tổng thống Liên Xô Gorbachov được bàn giữ
chức vụ này.
|
15.03
|
Tiếp và làm việc với Phó tổng thư
ký LHQ Ahmed tại Hà Nội về vấn đề Campuchia.
|
15.04
|
Ba chính phủ Việt Nam, Campuchia,
Lào ra tuyên bố: sẽ rút hết quân Việt Nam khỏi Campuchia tháng 9.
|
30.04-01.05
|
Quốc hội Campuchia họp phiên bất
thường: sửa hiến pháp, đổi tên nước CHND Campuchia thành Nhà nước
Campuchia (State of Campuchea), thay quốc kỳ
|
02-03.05
|
Vòng 4 Hunxen-Sihanouk tại
Jakarta. Sihanouk hoan ngênh việc đổi tên nước, quốc kỳ và nhiều sửa
đổi quan trọng trong hiến pháp Campuchia; nói có thể chấp nhận về nước
(nhưng khi về tới bangkok, Sihanouk lại đổi ý. Từ đó, quan hệ
Hunxen-Sihanouk rất xấu)
|
08-10.05
|
Đàm phán Việt Nam - Trung Quốc
cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh. Trung quốc vẫn đòi ta thoả thuận về nguyên
tắc thiết lập chính phủ liên hiệp 4 bên Campuchia do Sihanouk đứng đầu,
đông kết và giảm hoặc giải thể lực lượng quân sự của các bên Campuchia.
Về quan hệ 2 nước, lập trường của Trung quốc vẫn là giải quyết xong vấn
đề Campuchia thì mới cải thiện được quan hệ với Việt nam; tạm thời chưa
tính đến tiếp tục đàm phán với ta
|
15-16.05
|
Hội đàm cấp cao Trung-Xô
(Gorbachev-Đặng) tại Bắc kinh
|
03-04.06
|
Sự kiện Thiên An Môn
|
04.06
|
Ban Lan: Công đoàn Đoàn
kết thắng tuyệt đối tổng tuyển cử
|
24.07
|
Vòng 5 Hunxen-Sihanouk tại Paris.
Không đạt thoả thuận nào. Sihanouk bác bỏ thoả thuận của JIM 1 và 2,
đòi xoá SOC lập chính phủ 4 bên Campuchia
|
30.07-30.08
|
Hội nghị quốc tế về Campuchia tại
Paris: việc rút quân Việt nam không còn là vấn đề lớn ở hội nghị mà vấn
đề lớn nổi lên là Diệt chủng. Hội nghị không đạt được một giải pháp
chính trị, bế tắc ở vấn đề chia quyền giữa các bên Campuchia trong thời
kỳ quá độ. Song đã thông qua được tuyên bố chung ghi nhận hội nghị là
một bước tiến có ý nghĩa và sẽ họp lại.
|
07.08
|
Gặp Thứ trưởng Lưu thuật Khanh
(Phó trưởng đoàn Trung quốc tại PICC) ở Paris.
|
07.08
|
Hung: Đảng Công nhân
XHCN đổi tên; Hung gia nhập EC
|
05.09
|
TBT Nguyễn Văn Linh gặp Heng
Somrin ở Hà nội chuyển lời Liên Xô khuyên PhnomPenh nên nhận chính phủ
4 bên gồm cả Khmer Đỏ, do Sihanouk làm chủ tịch.
|
21-26-09
|
Đợt rút quân Việt nam cuối cùng
khỏi Campuchia
|
30.09
|
Họp BCT nhận định về kết quả hội
nghị Paris về Campuchia
|
07.10
|
Kayson Phonvihan thăm chính thức
Trung quốc đánh dấu việc bình thường hoá quan hệ Lào-Trung quốc. Đặng
nói với Kayson: Nếu Việt nam rút triệt để khỏi Campuchia thì sẽ bình
thường hoá quan hệ với Việt nam.
|
06.11
|
Thông điệp miệng của Nguyễn Văn
Linh gửi Đặng Tiểu Bình: mong sớm bình thường hoá quan hệ với Trung
quốc; mong sớm có dịp gặp lại Đặng
|
09.11
|
Đông Đức: Bức tường
Berlin sụp đổ, kết thúc chiến tranh Lạnh
|
20.11
|
Tiệp: Biểu tình lớn ở
Praha. Husak từ chức. Lập chính phủ mới trong đó đảng Công sản chỉ là
thiểu số.
|
21.11
|
5 nước thường trực HĐBA LHQ (P5)
chấp nhận phương án giải quyết vấn đề Campuchia của Úc trong đó đề cao
vai trò của LHQ ở Campuchia trong thời kỳ quá độ.
|
28.11
|
Thư Nguyễn Cơ Thạch gửi Tiền Kỳ
Tham nhắc lại thông điệp miệng của Nguyễn Văn Linh gửi Đặng và khẳng
định lại “ phía Việt nam sẵn sàng gặp phía Trùn quốc ở cấp Bộ trưởng
hoặc Thứ trưởng Ngoại giao tại Bắc kinh hoặc Hà nội trong tháng 12.89
để bàn các bước bình thường hoá quan hệ hai nước”.
|
02.12
|
TBT đảng Cộng sản Mã lai
Trần Bình ký thoả thuân với chính quyền Malaysia và Thái Lan giải tán
đảng Cộng sản và rút về sống ở Hadyai (nam Thái Lan)
|
10.12
|
Bulgaria: Biểu tình lớn
ở Sofia
|
12.12
|
Đại sứ Trung quốc thông báo trả
lời của Trung quốc cho thông điệp ngày 6.11 của Nguyễn Văn Linh: đặt
điều kiện cho việc mở lại đàm phán cấp thứ trưởng Ngoại giao với ta
(Việt nam phải chấp nhận sự giám sát của LHQ về việc rút quân khỏi
Campuchia; phải chấp nhận việc thành lập chính phủ 4 bên Campuchia do
Sihanouk làm chủ tịch)
|
1990
|
|
09.02
|
Đại sứ Mỹ ở Thái Lan Dônhue
chuyển thông điệp của Mý: gợp ý của Việt Nam về một cuộc gặp gỡ giữa bộ
trưởng Nguyễn Cơ Thạch hoặc Thứ trưởng Trần Quang Cơ với trợ lý Ngoại
trưởng Solômn là quá sớm. Hai bên cần làm rõ các vấn đề cần thảo luận
và các khả năng lựa chọn, sau đó Solômn sẵn sàng gặp phía Việt nam. Mỹ
hiện vẫn sẵn sàng tiếp tục trao đổi qua hai Đại sứ ở Bangkok
|
21.02
|
Vòng 5 Hunxen-Sihanouk tại
Bangkok. Thoả thuận về nguyên tắc: sự có mặt của LHQ ở mức độ thích hợp
của Campuchia là cần thiết; cần thành lập một cơ chế quốc gia tối cao
để thực hiện chủ quyền quốc gia và thống nhất dân tộc của Campuchia.
|
25.02
|
Nicaragua: Mặt trận
Sandino thất bại trong tổng tuyển cử
|
26.02-01.03
|
Họp Hội nghị không chính thức về
Campuchí (IMC) ở Jakarta. Ngoài thành phần như JIM (Campuchia, Việt
nam, Lào và 6 nước ASEAN) còn có thêm đại diện Tổng Thư ký LHQ, Pháp và
Úc. IMC không đưa ra được tuyên bố chung vì Khmer Đỏ dùng quyền phủ
quyết.
|
08.03
|
Lê Đức Thọ gặp Đinh Nho Liêm và
Trần Quang Cơ (và ngày 10.3 gặp Nguyễn Cơ Thạch) đưa ý kiến: cần có
chuyển hướng chiến lược trong đấu tranh về vấn đề Campuchia; phải giải
quyết vấn đề Campuchia với Trung quốc, không thể gát Khmer Đỏ; không
thể chấp nhận LHQ tổ chức tổng tuyển cử tại Campuchia, lập chính phủ 2
bên 4 phái Campuchia để tổ chức tổng tuyển cử…
|
10.04
|
Họp BCT bàn đề án đấu tranh ngoại
giao về vấn đề Campuchia trong tình hình thế giới có biến đổi. TBT
Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Thọ, Đào Duy Tùng, Đồng Sỹ Nguyên nhấn mạnh cần
liên kết với Trung quốc bảo vệ CNXH vì lợi ích chung của cả 2 bên.
|
16.04
|
Nguyễn Cơ Thạch đi PhnomPenh
thuyết phục SOC mềm dẻo trong vấn đề diệt chủng, chấp nhận Khmer Đỏ
tham gia chính quyền liên hiệp trong thời kỳ quá độ…
|
30.04
|
TBT Nguyễn Văn Linh nói tại Tp
HCM nhân dịp kỷ niệm 15 năm giải phóng Sài gòn:
- Nên quên cuộc chiến tranh đi
mặc dù đã có biến cố lớn trong quá khứ.
- Việt nam cảm thấy có tình hữu
nghị với nhân dân Mỹ.
- Tôi muốn thấy bình thường hoá
quan hệ Việt-Mỹ tuy đó là một tiến trình lâu dài
|
03-08.05
|
Vòng 3 đàm phán Việt - Trung cấp
thứ trưởng ở Bắc Kinh. Trung quốc nói roc ý họ về các vấn đề thuộc mặt
nội bộ trong giải pháp Campuchia và đòi ta tán thành: SNC nên là một cơ
cấu có tính chất chính quyền lâm thời, có chức năng lập pháp và hành
chính; quân đội các bên Campuchia nếu chưa giải giáp thì tập kết vào
một số điểm nhất định và giảm quân.
|
20-21.05
|
Họp 3 TBT Việt-Lào-Campuchia tại
Hà nội nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hồ chủ tịch. Quyết định cần thực
hiện “Giải pháp Đỏ” để giải quyết vấn đề Campuchia.
|
04-05.06
|
Hunxen và Sihanouk đại diện cho 2
chính phủ Campuchía họp tại Tokyo. Ký tuyên bố chung thoả thuận lập SNC
với số thành viên 2 bên bằng nhau (6+6) tượng trưng cho chủ quyền quốc
gia và thống nhất dân tộc Campuchia
|
05.06
|
Lần đầu TBT Nguyễn Văn Linh tiếp
Đại sứ Trung quốc Trương Đức Duy
|
06.06
|
Bộ trưởng quốc phòng Lê Đức Anh
tiếp và mời cơm thân mật Đại sứ Trung quốc
|
11-13.06
|
Vòng 4 đàm phán Việt – Trung
(Trần Quang Cơ - Từ Đôn Tín). Ta không chấp nhận việc can thiệp vào vấn
đề nội bộ Campuchia như Trung quốc đề nghị. Đàm phán không kết quả
|
13.06
|
Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tiếp
Từ Đôn Tín. Giọng điệu cao ngạo của Từ bị Nguyễn Cơ Thạch phê phán mạnh.
|
19.06
|
BCT họp đánh giá vòng 4 đàm phán
Việt – Trung (vắng mặt TBT Nguyễn Văn Linh)
|
25.06
|
Đại sứ Trương Đức Duy gặp Thứ
trưởng Trần Quang Cơ chuyển thông điệp của Lãnh đạo Trung quốc (có sửa
lại) gửi lãnh đạo Việt nam
|
16-17.07
|
Họp P5 về vấn đề Campuchia tại
Paris
|
18.07
|
Ngoại trưởng Mỹ Baker tuyên bố
chính sách mới của Mỹ về vấn đề Campuchia: Mỹ thừa nhận Việt nam đã rút
quân khỏi Campuchia; chính quyền PhnomPenh hiện là lực lượng chủ yếu có
khả năng ngăn Khmer Đỏ trở lại cầm quyền. Vì vậy, Mỹ quyết định rút bỏ
việc công nhận chính phủ Liên hiệp Campuchia Dân chủ (của 3 phái) tại
LHQ; sẵn sàng thảo luận với Việt nam và SOC để thúc đẩy giải pháp cho
vấn đề Campuchia.
|
06.08
|
Đối thoại Việt-Mỹ vòng 1 (Trịnh
Xuân Lãng-Kenenth Quinn) tại Nữu ước về vấn đề Campuchia và bình thường
hoá quan hệ Việt-Mỹ. Mý yêu cầu ta: cam kết chấp thuận và thúc đẩy
Campuchia chấp nhận văn kiện khung P5; tuyên bố hoan ngênh LHQ kiểm
chứng rút nhân viên quân sự còn lại ở Campuchia; cho biết ý kiến về SNC
và vai trò của LHQ ở Campuchia
|
12.08
|
BCT họp bàn vấn đề Campuchia. TBT
Nguyễn Văn Linh kết luận: Những vấn đề tồn tại hiện nay thuộc nội bộ và
chủ quyền của Campuchia phải do các đồng chi Campuchia tự quyết định.
Việt nam tôn trọng những quyết định của các đồng chi Campuchia về những
vấn đề này.
|
12.08
|
Thủ tướng Lý Bằng tuyên bố khi
đến thăm Singapore: Hy vọng sẽ bình thường hoá quan hệ với Việt nam và
hai bên sẽ thảo luận các vấn đề khác như tranh chấp Trường sa…
|
13.08
|
Thứ trưởng Trần Quang Cơ tiếp Đại
sứ Trung quốc biểu thị hoan ngênh tuyên bố của Lý Bằng ở Singapore,
nhắc lại mong muốn sớm có gặp cấp cao hai bên.
|
27-28.08
|
Họp P5 lần thứ 6 về Campuchia đi
đến thoả thuận: những dàn xếp quân sự trong thời kỳ quá độ ở Campuchia;
tuyển cử dưới sự bảo trợ của LHQ; bảo vệ nhân quyền; vấn đề bảo đảm
quốc tế. Hoàn thành toàn bộ 5 văn kiện khung về giải pháp Campuchia
|
29.08
|
Đại sứ Trung quốc gặp Nguyễn Văn
Linh và Đỗ Mười chuyển lời của Giang Trach Dân và Lý Bằng mời TBT
Nguyễn Văn Linh, thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang hội đàm
bí mật với lãnh đạo Trung quốc tại Thành Đô vào ngày 3.9.90
|
30.08
|
Họp BCT bàn về gặp cấp cao Trung
quốc tại Thành đô
|
31.08
|
Đối thoại Việt-Mỹ vòng 2 tại Nữu
ước. Mỹ đề nghị Việt nam và PhnomPenh chấp nhận khung giải pháp
Campuchia của P5, đề nghị SOC đi họp ở Jakarta để lập SNC trên cơ sở
thoả thuận của P5. Mỹ coi đây là điều kiện để Mỹ bình thường hoá quan
hệ với Việt nam và để Mỹ gặp Hunxen
|
01.09
|
Xô - Trung họp cấp Ngoại
trưởng tại Cáp Nhĩ Tân bàn về vấn đề Campuchia
|
03-04.09
|
Cuộc gặp cấp cao Trung –Việt tại
Thành đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên). Nguyễn Văn Linh chấp nhận công thức
lập SNC của Trung quốc (6+2+2+2+1 và Sihanouk làm chủ tịch)
|
05.09
|
Nguyễn Văn Linh đi PhnomPenh
thông báo lãnh đạo Campuchia về cuộc gặp Thành đô, thuyết phục
PhnomPenh nhận công thức lập SNC của Trung quốc. Campuchia phản đối.
|
07.09
|
Ngoại trưởng Mỹ thông báo Mý
quyết định mở đối thoại trực tiếp với PhnomPenh
|
10.09
|
BCT cử Trần Quang Cơ đi Jakarta
theo dõi cuộc họp của các bên Campuchia bàn về việc thành lập SNC, dưới
sự chủ trì của Pháp và Indonesia – 2 đồng chủ tịch PICC. Các bên
Campuchia ra tuyên bố chung “chấp nhận toàn bộ văn kiện khung của P5
làm cơ sở cho việc giải quyết xung đột Campuchia”, thành lập SNC.
|
10.09
|
Phó trợ lý Ngoại trưởng Mý K.
Quinn thông báo: Mỹ quyết định nói chuyện với trưởng đoàn ta tại Đại
Hội đồng LHQ về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
|
14-18.09
|
(Trần Quang Cơ) đi Bangkok để
theo dõi tiếp cuộc họp của các bên Campuchia giải quyết nốt vấn đề chủ
tịch SNC.
|
17.09
|
Các bên Campuchia họp tại Bangkok
để hoàn tất việc lập SNC. Cuộc họp thất bại do không nhất trí trong
việc cử đoàn đại biểu SNC đi dự Đại Hội đồng LHQ và nhất là do SOC
(Hunxen) không chấp nhận việc cử Sihanouk làm chủ tịch và thành viên
thứ 13 của SNC.
|
20.09
|
HĐBA LHQ thông qua nghị quyết 608
ghi nhận SNC đại diện cho Campuchia về mặt đối ngoại và giữ ghế của
Campuchia tại LHQ.
|
24.09
|
Phó Thủ tướng Võ Nguyên Giáp sang
Trung quốc dự lễ khai mạc ASIAD. Thủ tướng Lý Bằng tiếp, nói về quan hệ
2 nước, nhận xét Trần Quang Cơ là “nhân tố tiêu cực” trong việc thúc
đẩy giải pháp Campuchia
|
29.09
|
Nguyễn Cơ Thạch gặp Ngoại trưởng
Mỹ Baker. Mỹ nói muốn bình thường hoá quan hệ với Việt nam trong khung
cảnh một giải pháp chính trị về Campuchia, đồng thời tốc độ và qui mô
bình thường hoá quan hệ tuỳ thuộc vào tiến bọ trong vấn đề MIA và các
vấn đề nhân đạo khác.
|
18.11
|
BCT họp bàn về nguyên tắc đấu
tranh về văn kiện chung P5 và vấn đề chức chủ tịch SNC.
|
26.11
|
P5 và Indonesia họp tại Paris
thoả thuận dự thảo Hiệp định Paris về Campuchia
|
21.12
|
Họp SNC tại Paris với sự tham gia
của 2 đồng chủ tịch PICC và đại diện Tổng Thư ký LHQ
|
1991
|
|
15-16.01
|
(Trần Quang Cơ) Họp với bộ phận
B1 Bộ Ngoại giao Campuchia chuẩn bị cho cuộc họp Uỷ ban phối hợp PICC.
Nhận định về Trung quốc
|
16.01
|
Hunxen nói với Trần Quang Cơ: khả
năng năm 91 chưa có giải pháp chính trị. Cuộc gặp Paris vừa qua chỉ là
diễn đàn dư luận, không phải thương lượng. Vì vậy chúng tôi chưa nêu
tách mặt nội bộ và quốc tế.
|
24-25.01
|
Họp BCT ở Tp HCM thảo luận “Đường
lối đối ngoại phục vụ thực hiện mục tiêu chiến lược của nước ta đến năm
2000” do Bộ Ngoại giao dự thảo và vấn đề Campuchia
|
02.02
|
(Trần Quang Cơ) xin rút khỏi danh
sách đề cử TƯ khoá VII. Không được chấp nhận.
|
24.02
|
Nguyễn văn Linh gặp Heng Somrin
tại Hà nội, lại thuyết phục PhnomPenh nhận công thức 6+2+2+2+1 để thúc
đẩy chính sách hoà hợp dân tộc theo ý của Trung quốc trong cuộc gặp
Thành đô ngày 3.9.90
|
09.04
|
Đối thoại Việt-Mỹ vòng 5 tại Nữu
ước. Trợ lý Ngoại trưởng R. Solomon đưa ra lộ trình 4 bước gắp quá
trình giải quyết vấn đề Campuchia với các bước cải thiện quan hệ Mỹ-Việt
|
13.04
|
BCT họp nhận định tình hình thế
giới và bàn chính sách đối ngoại. Yêu cầu phối hợp tốt hơn giữa 3 ngành
Ngoại giao-Quốc phòng-An ninh trong ngiên cứu các vấn đề quốc tế.
|
08.05
|
Họp 3 ngành Ngoại giao-Quốc
phòng-An ninh nhận định tình hình thế giới
|
15-17.05
|
BCT thảo luận bản dự thảo “Báo
cáo về tình hình thế giới, việc thực hiện đường lối đối ngoại của đậi
hội VI và phương hướng tới”; tiếp tục đánh giá về cuộc gặp cấp cao với
Trung quốc tgáng 9.90 tại thành đô.
|
15-19.05
|
Giang Trạch Dân thăm
Liên Xô - Chuyến thăm Liên Xô đầu tiên của cấp cao nhất Trung quốc
trong 34 năm qua. Thông cáo chung 2 bên nói nhiều đến vấn đề Campuchia
|
02-04.06
|
Họp SNC tại Jakarta. Ngoài các
bên Campuchia, có 2 đồng chủ tịch PICC (Pháp và Indonesia), đại diện
Tổng Thư ký LHQ. Sihanouk cũng có mặt với danh nghĩa là khách mời của
Suharto. Cuộc gặp không đạt kết quả gì đáng kể.
|
05.06
|
Hunxen và Sihanouk gặp riêng để
thảo luận về chức Chủ tịch và Phó Chủ tịch SNC, kéo dài ngừng bắn tới
khi có tổng tuyển cử, Sihanouk về PhnomPenh, kêu gọi ngừng viện trợ
quân sự nước ngoài cho các bên Campuchia
|
17-27.06
|
Đại hôi VII Đảng CS Việt nam. Đỗ
Mười thay Nguyễn Văn Linh làm TBT, Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước. Nguyễn
Cơ Thạch ra khỏi BCT và TƯ
|
09.07
|
Trần
Quang Cơ gặp TBT Đỗ Mười xin không nhận chức Bộ trưởng Ngoại giao
|
10.07
|
Đỗ Mười gặp Đại sứ Trung quốc đặt
vấn đề cử đặc phái viên sang thông báo lãnh đạo Trung quốc về đại hội
VII
|
28.07-02.08
|
Lê Đức Anh và Hồng Hà sang Trung
quốc với danh nghĩa “Đoàn đại diện đặc biệt của TƯ đảng CS Việt nam” để
thông báo lãnh đạo Trung quốc về Đại hội VII đảng CS Việt nam. Cả hai
đã gặp Từ Đôn Tín xin lỗi (về vụ to tiếng với bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch)
|
Tháng 8
|
Quốc hội khoá 8 họp kỳ 9 thông
qua danh sách chính phủ mới. Nguyễn Mạnh Cầm nhận chức Bộ trưởng Ngoại
giao thay Nguyễn Cơ Thạch
|
08-10.08
|
Vòng 5 đàm phán Việt – Trung cấp
thứ trưởng tại Bắc kinh về bình thường hoá quan hệ.
|
09-14.08
|
Ngoại trưởng mới Nguyễn Mạnh Cầm
thăm Trung quốc
|
23.10
|
Hội nghị quốc tế về Campuchia tại
Paris. Ký kết hiệp định hoà bình Campuchia
|
05-10.11
|
TBT Đỗ Mười và Thủ tướng Võ văn
Kiệt thăm chính thức Trung quốc. Thông cáo chung về bình thường hoá
quan hệ hai nước
|
14.11
|
Sihanouk trở về PhnomPenh sau 13
năm lưu vong
|
25.12
|
Gorbachev từ chức. Cờ
búa liềm trên nóc điện Kremli bị hạ xuống thay bằng lá cờ 3 màu của
nước Nga đánh dấu việc Liên bang Xô viết chấm dứt tồn tại
|
1993
|
|
24.11-01.12
|
Hội nghị giữa nhiệm kỳ của BCH TƯ
khoá VII. (Trần Quang Cơ) Tự nguyện xin rút khỏi TƯ.
|
Trần Quang Cơ
Hồi ức và suy nghĩ