Chế độ Jim Crow trong lịch sử Hoa Kì
Chế
độ
phân chủng (Jim Crow)
trong lịch sử Hoa Kì
David Pilgrim
Trần Ngọc Cư dịch
Lời người dịch : Việc đắc cử của Barack Obama, một người da màu, vào chức vụ tổng thống của một nước giàu mạnh nhất thế giới có ý nghĩa lịch sử cực kì to lớn. Đây là một "quantum leap", một bước phát triển không thể đảo ngược, có sức đúc bê tông những chiến thắng của cuộc đấu tranh can đảm và ngoan cường của người da đen kéo dài trên 150 năm qua. Một cuộc đấu tranh mà thành quả của nó mọi sắc dân thiểu số khác đang chung hưởng trên đất nước Hoa Kì : đó là những đạo luật và cơ chế dân quyền Mĩ, nhằm chống lại nhiều hình thức phân biệt đối xử trong xã hội, chủ yếu là chống kì thị chủng tộc. Nếu đặt thành công của Obama trong một bức tranh to, ta thấy lịch sử đã chuyển động trên cặp hài vạn dặm. Nhiều người Mĩ đang trong lứa tuổi về hưu, xuất thân từ miền Nam, có một phần đời không ít thì nhiều tiếp cận với chế độ phân chủng Jim Crow.[1] Vậy Jim Crow là gì ?
Jim Crow là
tên gọi của một chế độ giai
cấp đặt cơ sở trên màu da,
một chế độ được áp dụng
chủ yếu, nhưng không riêng gì,
tại các bang miền Nam và các bang
cùng biên giới với miền Nam [xét
theo địa lí của thời Nội chiến
Mĩ], trong giai đoạn từ năm 1877 đến
giữa thập niên 60 của thế kỉ
trước. Nội hàm của Jim Crow không
chỉ nằm trong một loạt luật lệ
nghiêm khắc nhắm vào người da
đen. Mà đó là một lối
sống. Dưới chế độ Jim Crow, người
Mĩ gốc châu Phi bị đưa xuống
hàng công dân thứ cấp. Jim Crow tiêu
biểu cho việc hợp thức hoá chế
độ phân chủng chống lại người
da đen. Để củng cố chế độ
Jim Crow, thậm chí nhiều giáo sĩ và
nhiều nhà thần học Ki-tô-giáo
cũng rao giảng rằng người Da trắng
là Dân được Chúa chọn
(Chosen People), còn người Da đen thì
bị rủa sả phải làm thân nô
lệ, và Thiên Chúa hậu thuẫn cho
chế độ phân chủng. Các nhà
nghiên cứu về sọ não, về tông
giống (cranilogoists, phrenologists, eugenicists), và cả
những nhà xã hội học theo thuyết
tiến hoá Darwin, đủ mọi trình
độ, hùa nhau yểm trợ cái tín
lí cho rằng người Da đen bẩm sinh
là thấp kém hơn người Da trắng
về mặt tri thức và văn hoá.
Những chính trị gia chủ trương
phân chủng cũng tung ra những bài diễn
văn hùng hồn về mối hoạ to lớn
của việc cho người Da đen hội nhập
vào dòng chính của xã hội Hoa
kì : đó là sự pha giống với
người Da trắng. Các nhà báo
cũng thường gọi người Da đen
bằng các từ miệt thị như niggers,
coons, hay darkies,
và tệ hại hơn nữa,
những bài viết của họ đã
làm gia tăng những định kiến tiêu
cực về người Da đen. Ngay cả trò
chơi trẻ em cũng miêu tả dân Da đen
như một giống người hạ đẳng.
Tất cả các định chế xã hội
quan trọng đều phản ánh và hỗ
trợ việc áp chế người Da đen.
Cấm vào : chó, da đen, Mễ
Chế độ Jim Crow được củng cố bằng những tín lí và biện minh sau đây : người Da trắng ưu việt hơn người Da đen trong mọi phương diện quan trọng bao gồm, nhưng không chỉ giới hạn trong, các lãnh vực trí tuệ, đạo lí, cách ứng xử văn minh ; quan hệ tính dục giữa Da đen và Da trắng sẽ tạo ra một giống lai có khả năng huỷ diệt nước Mĩ ; việc đối xử bình đẳng với người da đen sẽ khuyến khích những tác hợp luyến ái dị chủng ; bất cứ hành vi nào ngụ ý bình đẳng xã hội cũng có thể khuyến khích những quan hệ tính dục giữa hai màu da ; nếu cần, phải sử dụng bạo lực để kềm hãm người Da đen ở mức thấp nhất của tôn ti chủng tộc (racial hierarchy). Những chuẩn mực trong phép xã giao Jim Crow sau đây cho thấy mức độ trùm phủ đều khắp của chúng trong mọi giao tiếp xã hội :
-
Một người đàn ông Da đen không được đưa tay ra trước cho một người Da trắng bắt, bởi vì hành vi này có ẩn ý là anh ta có bình đẳng xã hội. Một người đàn ông Da đen không thể đưa tay ra hay bất cứ một phần nào của cơ thể với ý đụng chạm đến một người phụ nữ Da trắng, vì làm như thế anh ta có thể bị kết tội hiếp dâm.
-
Người Da đen không được ăn chung với người Da trắng. Nếu họ phải ăn chung với nhau, người Da trắng phải được phục vụ trước, và phải có một vật gì ngăn cách họ với nhau.
-
Trong bất cứ hoàn cảnh nào một người nam Da đen không đuợc tình nguyện mồi lửa cho một người nữ Da trắng hút thuốc – cử chỉ này ngụ ý có sự thân mật giữa hai người.
-
Người Da đen không được bày tỏ sự âu yếm với nhau lộ liễu ở nơi công cộng, nhất là việc trai gái hôn nhau, vì hành vi này xúc phạm người Da trắng.
-
Phép xã giao theo văn hoá Jim Crow đòi hỏi ngưòi Da đen phải được giới thiệu với người Da trắng, và không bao giờ giới thiệu người Da trắng với người Da đen. Chẳng hạn, ” Thưa ông Peters (da trắng), đây là Charlie (da đen), người mà tôi đã nói với ông.”
-
Người Da trắng không dùng những từ xưng hô lịch sự có ý nghĩa kính trọng với người Da đen, chẳng hạn những từ như Mr. (ông), Mrs. (bà), Miss (cô), Sir (thưa ông), Ma’am (thưa bà). Thay vì như vậy, Người Da đen chỉ được xưng hô bằng tên gọi (first name). Trái lại, người Da đen phải dùng từ xưng hô lịch sự với người Da trắng và không được xưng hô với họ bằng tên gọi.
-
Nếu một người Da đen đi xe do một người Da trắng lái, người Da đen phải ngồi ghế sau, hay phần sau của xe tải (truck).
Da màu : đằng sau
Stetson
Kennedy, tác giả cuốn Cẩm nang Jim
Crow, đưa
ra những quy tắc đơn giản này,
những quy tắc mà người Da đen phải
tôn trọng khi nói chuyện với người
Da trắng :
-
Đừng bao giờ xác quyết hay thậm chí gợi ý rằng một người Da trắng đang nói dối.
-
Đừng bao giờ gán ghép những ý định bất chính cho một người Da trắng.
-
Đừng bao giờ gợi ý rằng một người Da trắng xuất thân từ một giai cấp thấp hèn.
-
Đừng bao giờ cho mình có, hay cố chứng tỏ mình có, kiến thức hay trí thông minh ưu việt.
-
Đừng bao giờ nguyền rủa một người Da trắng.
-
Đừng bao giờ cười chế nhạo một người Da trắng.
-
Đừng bao giờ bình luận về diện mạo của một phụ nữ Da trắng.
Những
phép xã giao Jim Crow tiến hành đồng
bộ với pháp quyền Jim Crow (còn gọi
là luật đen, black codes).
Khi nghĩ đến
Jim Crow, hầu hết mọi người đều
liên tưởng đến luật lệ (chứ
không nghĩ đến phép xã giao Jim
Crow), những luật lệ ngăn cản người
Da đen sử dụng nhiều phương tiện
vận chuyển và tiện ích công
cộng, ngăn cản họ ngồi vào bồi
thẩm đoàn, làm một số công
việc, lai vãng một số hàng xóm.
Việc thông qua các Tu chính Hiến pháp
13, 14, 15 đã cho người Da đen quyền
được luật pháp che chở giống
như người Da trắng. Tuy nhiên, sau năm
1877, và sau khi Rutherford B. Hays của đảng
Cộng hoà đắc cử tổng thống,
các tiểu bang miền Nam và các tiểu
bang giáp giới miền Nam bắt đầu
giới hạn những quyền tự do của
người Da đen. Đáng tiếc là,
chính Tối cao Pháp viện Liên bang lại
hỗ trợ việc phá ngầm những bảo
vệ hiến định dành cho người
Da đen, bằng phán quyết bỉ ổi
trong vụ Plessy vs Ferguson (1896), một phán quyết
hợp thức hoá pháp quyền Jim Crow và
lối sống Jim Crow.
Năm
1890, bang Louisiana thông qua Đạo luật “ dùng
xe riêng biệt ” (Separate
Car Law), với danh
nghĩa là giúp cho hành khách cảm
thấy dễ chịu, bằng cách tạo ra
các xe chở khách “ bình đẳng
nhưng riêng biệt ” (equal
but separate cars)
cho người Da đen và người Da trắng.
Nhưng đây chỉ là mưu mẹo
thôi. Thật ra không một tiện ích
công cộng nào dành cho người Da
đen, kể cả việc di chuyển bằng
đường sắt, cung ứng những phương
tiện bình đẳng cho người Da đen.
Luật Louisiana cấm người Da đen ngồi
trên toa tàu dành cho người Da trắng
và cấm người Da trắng ngồi trên
toa dành cho người Da đen. Năm 1891, một
nhóm người Da đen quyết định
thử thách luật pháp Jim Crow. Họ cài
đặt Homer J. Plessy, một người có
7/8 huyết hệ Da trắng và 1/8 huyết hệ
Da đen (vì thế, bị xem như Da đen),
vào toa tàu dành riêng cho người
Da trắng. Anh ta bị bắt. Luật sư của
Plessy lí giải rằng bang Louisiana không có
quyền “dán nhãn hiệu” công
dân này là Da trắng và công
dân kia là Da đen vì mục đích
giới hạn quyền lợi của họ. Trong
phán quyết vụ Plessy, Tối cao Pháp
viện Hoa Kì cho rằng bao lâu mà chính
quyền một tiểu bang cho phép người
Da đen được hưởng thủ tục
pháp lí và tự do pháp lí
bình đẳng với người Da trắng,
chính quyền tiểu bang đó được
phép duy trì những cơ sở riêng
biệt cho mỗi màu da nhằm tạo điều
kiện để thực hiện những quyền
này. Bằng tỉ số 7 thuận 2 chống,
Tối cao Pháp viện Hoa Kì đã tán
thành đạo luật của bang Louisiana, đồng
thời tuyên bố rằng sự phân chủng
không nhất thiết có nghĩa là vi
phạm quyền bình đẳng của người
dân. Trên thực tế, phán quyết
trong vụ Plessy tiêu biểu cho sự hợp
pháp hoá hai xã hội : một bên
là xã hội Da trắng có nhiều ưu
đãi ; còn bên kia là xã hội
Da đen vừa bị thiệt thòi vừa bị
khinh bỉ.
Người
Da đen bị từ chối quyền bầu cử
bởi những điều khoản “ truyền
thừa ” hay grandfather
clauses (luật dành
quyền bầu cử cho những người mà
tổ tiên họ đã từng tham gia bầu
cử trong thời gian trước Nội chiến),
bởi thuế phòng phiếu (poll
taxes, lệ
phí đánh vào người Da đen
nghèo), bởi các cuộc bầu cử sơ
bộ của người Da trắng (chỉ có
cử tri đảng Dân chủ mới được
bầu sơ bộ, và chỉ người Da
trắng mới có thể làm cử tri
đảng Dân chủ), và bởi những
kiểm tra về khả năng đọc và
viết (với những câu hỏi rắc rối
như “ Hãy kể tất cả các
vị
phó tổng thống và các vị quan
toà Tối cao Pháp viện trong lịch sử
Hoa Kì ”). Phán quyết trong vụ Plessy
gửi thông điệp sau đây đến
các bang miền Nam và các bang tiếp
giáp miền Nam : Phân biệt đối xử
người Da đen là có thể chấp
nhận.
Các bang Jim Crow thông qua nhiều đạo
luật nghiêm khắc nhằm điều tiết
các mối tương tác xã hội
giữa hai chủng tộc. Các biển hiệu
Jim Crow được đặt trên các
vòi nước, ở cửa vào và
cửa ra, cũng như ở trước các
phương tiện công cộng. Có bệnh
viện riêng biệt cho người Da đen và
người Da trắng, nhà tù riêng
biệt, trường học riêng biệt dù
là công hay tư, nhà thờ riêng
biệt, nghĩa trang riêng biệt, phòng vệ
sinh riêng biệt, và các tiện ích
công cộng riêng biệt. Gần như
trong mọi trường hợp, so với phía
Da trắng, các phương tiện của
người Da đen có phẩm chất thua sút
quá xa – thường là cũ kĩ và
thiếu bảo quản. Trong một số trường
hợp, người Da đen không hưởng
được tiện ích nào cả – không
nhà vệ sinh công cộng, không bãi
biển công cộng, không có chỗ để
ngồi nghỉ hay để ăn uống. Phán
quyết Plessy đã cho các bang Jim Crow một
đường lối hợp pháp bác bỏ
những nghĩa vụ hiến định đối
với công dân Da đen.
Luật lệ Jim Crow ảnh hưởng đến
mọi khía cạnh của đời sống
hằng ngày. Chẳng hạn, năm 1935, bang
Oklahoma có luật cấm người Da đen
và người Da trắng đi chung thuyền.
Vì đi chung thuyền có ngụ ý
bình đẳng xã hội. Năm 1905, bang
Georgia lập công viên riêng rẽ cho
người Da đen và người Da trắng.
Năm 1930, thành phố Birmingham của bang
Alabama cấm người Da đen và người
Da trắng chơi cờ và chơi đô-mi-nô
với nhau. Sau đây là một số luật
lệ tiêu biểu của chế độ Jim
Crow, do Nhân viên Diễn giảng của Địa
điểm Lịch sử Quốc gia Martin Luther
King, Jr., sưu tập :
-
Thợ hớt tóc. Thợ hớt tóc da màu không được hớt tóc cho con gái và đàn bà da trắng (bang Georgia).
-
Khu người mù. Ban quản trị phải duy trì một binđing riêng biệt trên một khu đất riêng biệt để tiếp nhận, săn sóc, huấn luyện, và giúp đỡ tất cả mọi người mù da màu và da đen (bang Louisiana).
-
An táng. Nhân viên chuyên trách việc an táng không được và không cho ai chôn cất người da màu trên khu đất được dành riêng hay được sử dụng để an táng người da trắng (bang Georgia).
-
Xe buýt. Tất cả trạm hành khách trong tiểu bang này, dù do bất cứ công ti vận chuyển nào điều hành, cũng phải có phòng hay chỗ đợi riêng biệt và cửa sổ bán vé riêng biệt cho người da trắng và người da màu (bang Alabama).
-
Quyền giám hộ trẻ em. Khi cha hoặc mẹ, hoặc thân nhân, hoặc bất cứ một người da trắng nào khác, được quyền nuôi dưỡng một trẻ em da trắng do luật tự nhiên hay nhận từ kẻ khác, hay bằng bất cứ phương cách nào đi nữa, thì người đó không được phép uỷ thác hoặc giao phó đứa trẻ kia cho bất cứ một người da đen nuôi giữ, săn sóc, che chở (bang South Carolina).
-
Giáo dục. Trường học cho trẻ em da trắng và trường học cho trẻ em da đen phải được điều hành riêng biệt (bang Florida).
-
Thư viện. Quản thủ thư viện tiểu bang được chỉ thị phải sắp đặt và bảo quản một nơi riêng biệt cho người da màu sử dụng phòng khi họ có nhu cầu đến thư viện đọc sách báo (bang North Carolina).
-
Bệnh viện tâm thần. Ban điều hành phải đảm bảo việc thiết lập những căn phòng hợp lệ và riêng biệt, ngõ hầu người da trắng và người da đen không trà trộn với nhau (Georgia).
-
Dân quân. Dân quân da trắng và da đen phải được đăng kí riêng biệt và không bị cưỡng chế phục vụ trong cùng một tổ chức. Không một tổ chức dân quân da màu nào được phép hoạt động nơi đã có dân quân da trắng và nơi nào có tổ chức dân quân da trắng thì người da đen phải nằm dưới quyền chỉ huy của sĩ quan da trắng (bang North Carolina).
-
Y tá. Không một cá nhân hoặc tập đoàn nào có quyền đòi hỏi một nữ y tá Da trắng phải làm việc trong các khu hoặc phòng bệnh viện có bệnh nhân là đàn ông da đen — dù bệnh viện đó là công hay tư (bang Alabama).
-
Nhà tù. Quản đốc trại tù phải đảm bảo rằng tù nhân da trắng được giam giữ trong các phòng riêng, ăn ngủ riêng biệt với tù nhân da đen (bang Mississippi).
-
Trường cải tạo thanh thiếu niên. Những trẻ em da trắng và da màu, bị đưa vào các nhà cải tạo, phải được giữ hoàn toàn cách li với nhau (bang Kentucky).
-
Dạy học. Bất cứ một giáo viên nào dạy học tại bất cứ một trường tiểu, trung, đại học hoặc một viện giáo dục nào, mà nơi đó có thu nhận cả học sinh da trắng lẫn da đen, đều bị coi như phạm tội tiểu hình và nếu bị kết án thì sẽ phải trả tiền phạt (bang Oklahoma).
-
Rượu và bia. Tất cả những ai được cấp giấp phép bán bia rượu thì phải phục vụ người da trắng riêng và người da đen riêng, chứ không bao giờ được bán bia rượu cho cả hai giống dân trong cùng một phòng (bang Geogia).
Rosa Parks, người phụ nữ da đen được gọi là "bà mẹ của phong trào dân quyền" : năm 1955, ở Alabama, bà không chịu nhường chỗ ngồi trên xe buýt cho một người da trắng.
Luật pháp và phép ứng xử Jim
Crow được củng cố nhờ bạo lực,
vừa hiện thực vừa hù doạ. Người
da đen nào vi phạm phép tắc Jim Crow,
như uống từ vòi nước dành
riêng cho người Da trắng hay quyết tâm
sử dụng quyền bầu cử, đều có
thể chịu nguy cơ mất nhà, mất
việc, thậm chí mất mạng. Người
Da trắng có thể hành hung người
Da đen mà luật pháp không can thiệp.
Người Da đen gần như không thể
trông cậy vào luật pháp để
đối chọi lại những bạo hành
này vì toàn bộ hệ thống luật
pháp chống tội phạm đều nằm
trong tay người Da trắng : từ cảnh sát,
đến biện lí (công tố viên), đến thẩm phán,
đến bồi thẩm đoàn, và thậm
chí cả viên chức trại tù. Bạo
hành là khí cụ của chế độ
Jim Crow, là một phương pháp khống
chế xã hội. Dạng thức bạo hành
cực đoan nhất của xã hội Jim Crow
có tên gọi là lynching.
Lynching là những vụ giết người
công khai do bàn tay của các đám
đông Da trắng – thường thường
những đám côn đồ này tỏ
ra rất thích thú với những trò cuồng bạo. Trong giai đoạn từ
năm 1882, là thời điểm những dữ
liệu đáng tin cậy bắt đầu
được thu thập, đến năm 1968, là
thời điểm những vụ lynching
trở
nên hiếm hoi, có đến 4730 vụ
lynching
được người ta biết tới,
trong đó có 3440 nam, nữ da đen là
nạn nhân. Hầu hết nạn nhân của
Luật Lynch (tất nhiên là luật rừng)
này bị treo cổ hoặc bị bắn,
nhưng có một số bị buộc vào
cọc rồi bị thiêu sống, bị thiến,
bị đập chết bằng chày, bị
phanh thây. Vào giữa thế kỉ 19, [là
lúc có phong trào Da trắng đòi
bãi bỏ chế độ nô lệ], người
Da trắng chiếm đa số thành phần
nạn nhân (cũng như thủ phạm) của
những vụ lynching.
Tuy nhiên, vào thời
kì Tái kiến thiết Triệt để
(the Radical
Reconstruction, do đảng Cộng hoà
chủ trương), người Da đen trở
nên nạn nhân thường xuyên nhất
của những vụ lynching.
Đây là một
dấu hiệu ban đầu cho người ta biết
rằng lynching
được sử dụng như
một khí cụ hù doạ để kìm
giữ người Da đen, trong trường hợp
này là “ những người mới
được giải phóng ”, phải thúc
thủ trong “ thân phận của mình ”.
Tuyệt đại đa số các vụ
lynching diễn ra tại các bang miền Nam và
tiếp giáp miền Nam, là những nơi
mà sự thù ghét đối với
dân Da đen là âm ỉ nhất, sâu
sắc nhất. Theo nhà kinh tế xã hội
Gunnar Myrdal : “ Các
bang miền Nam chịu trách
nhiệm đến 9/10 số vụ lynching. Hơn
2/3 trong số 1/10 còn lại diễn ra tại
sáu bang tiếp giáp miền Nam.”
Dưới chế độ Jim Crow tất cả mọi quan hệ tính dục giữa đàn ông Da đen và phụ nữ Da trắng là phi pháp, bị nghiêm cấm, bị xã hội nguyền rủa, và theo định nghĩa Jim Crow chúng chỉ là những vụ hiếp dâm.
Mặc dù chỉ 19,2 % nạn nhân của
các vụ lynching
từ năm 1882 đến
1952 thậm chí bị cáo buộc tội
hiếp dâm, luật Lynch được nhiều
người Da trắng ủng hộ vì giới
bình dân tin rằng các cuộc hành
hình lynching
là cần thiết để
bảo vệ phụ nữ Da trắng khỏi bị
đàn ông Da đen hiếp dâm. Myrdal đã
phản bác quan niệm này như sau : “ Có
nhiều lí do để tin rằng con số
19,2 % này đã bị thổi phồng : (a)
do sự kiện là cái đám
đông
tung ra lời cáo buộc về nạn hiếp
dâm không hề bị ai gọi đến
để điều tra ; (b) do
định nghĩa
tội hiếp dâm bao gồm tất cả quan
hệ tính dục giữa đàn ông
Da đen và đàn bà Da trắng ; và
(c) do sự sợ hãi có
tính tâm
bệnh của phụ nữ Da trắng trong những
tiếp xúc với đàn ông Da đen.”
Hầu hết người Da đen bị các
đám đông Da trắng đem ra hành
quyết (lynched)
chỉ vì họ dám đòi
hỏi dân quyền, vì thách đố
pháp quyền và phép ứng xử Jim
Crow, hoặc tiếp theo sau các cuộc bạo
loạn chủng tộc do người Da trắng
châm ngòi.
Lynching thường diễn ra nhiều nhất tại
các thành phố cỡ nhỏ hoặc cỡ
vừa, là những nơi mà người
Da đen đôi khi có khả năng cạnh
tranh kinh tế với người Da trắng ở
trong cùng một địa phương. Những
người Da trắng này đâm ra cay cú
trước những thành quả kinh tế và
chính trị mà người Da đen đã
đạt được. Những thủ phạm
giết người trong các vụ lynching
ít
khi bị bắt giữ, và nếu có bị
bắt giữ thì cũng ít khi bị kết
án trước toà. Rapier ước tính
rằng “ chí ít một nửa
tổng
số các vụ lynching được thực
hiện có sự tham dự của cảnh sát,
và rằng trong 9/10 số vụ còn lại
cảnh sát đã dung túng hay nháy
mắt đồng thuận với hành động
của đám côn đồ.” Lynching
phục vụ nhiều mục đích : nó
là một trò giải trí không tốn
kém ; nó được dùng như một
điểm tập hợp, thắt chặt tình
đoàn kết của người Da trắng ;
nó có chức năng xoa dịu lòng tự
ái của giới Da trắng có lợi tức
và địa vị thấp kém trong xã
hội ; nó là một phương thức
bảo vệ sự thống trị của người
Da trắng đồng thời chận đứng
hoặc trì kéo phong trào bình đẳng
xã hội đang ở trong thời kì phôi
thai.
Các đám đông tham dự cuộc
hành hình (Lynch mobs)
nhắm mũi dùi
của lòng căm thù đối với
một (hoặc đôi khi vài) nạn nhân.
Nạn nhân là tấm gương soi cho bất
cứ người Da đen nào dám sử
dụng lá phiếu, dám nhìn ngắm
phụ nữ Da trắng, hay dám kiếm một
việc làm của người Da trắng. Bất
hạnh thay cho người Da đen, đôi khi
đám đông không thoả mãn với
việc giết một hoặc vài nạn nhân.
Thay vào đó, như trong các cuộc
tàn sát Do Thái dưới thời Sa
hoàng (pogroms), nhiều đám đông
Da trắng còn tiến vào các cộng
đồng Da đen để giết hại và
phá hoại nhiều hơn nữa. Mục đích
gần của họ là đuổi sạch
người Da đen — bằng cách sát
hại và trục xuất ; mục đích
to lớn hơn là, bằng mọi giá,
phải duy trì ưu thế Da trắng (White
supremacy). Những hành động mang tính
Pogrom này
thường được gọi là
bạo loạn (riots);
nhưng Gunnar Myrdal đã
nhận định đúng hơn khi ông
gọi những “ cuộc bạo loạn ”
này là “ một cuộc khủng
bố,
một cuộc tàn sát tập thể hay
lynching
tập thể ”. Điều đáng
lưu ý là, các vụ lynching
tập
thể này chủ yếu là những hiện
tượng xảy ra ở đô thị, còn
các vụ lynching
mà nạn nhân là
một hai cá nhân thì chủ yếu xảy
ra ở vùng quê.
James Weldon Johnson, nhà văn Da đen nổi
tiếng, đã gọi năm 1919 là “ mùa
Hè đỏ ” (the Red Summer).
Đỏ vì
căng thẳng chủng tộc ; đỏ vì
có đổ máu. Mùa Hè 1919 chứng
kiến nhiều cuộc bạo loạn chủng
tộc đồng loạt xảy ra tại các
thành phố Chicago (bang Illinois), Knoxville và
Nashville (bang Tennessee), Charleston (bang South Carolina), Omaha
(bang Nebraska) và trên hai mươi thành
phố khác. W.E.B. DuBois, nhà khoa học xã
hội cũng vừa là nhà tranh đấu
dân quyền Da đen, viết : “ Trong
năm
đó có đến 72 người Da đen
bị các đám côn đồ Da trắng
đem ra hành quyết (lynched) ; trong số này
có một phụ nữ và 11 binh sĩ, có
14 người bị thiêu trước đám
đông, trong đó có 11 người
bị đốt sống. Trong năm đó có
nhiều bạo loạn lớn nhỏ ở 26 thành
phố Hoa Kì khiến 38 người bị giết
vào tháng Tám tại Chicago ; từ 25 đến
50 người tại Phillips County (bang Arkansas) và
6 người bị giết tại thủ đô
Washington ”.
Các cuộc bạo loạn năm 1919 không
phải là các cuộc lynching
tập thể
đầu tiên hoặc cuối cùng nhắm
vào người Da đen ; điều này
được chứng minh bằng các cuộc
bạo loạn khác tại Wilmington (bang North
Carolina, 1898), tại Atlanta (bang Georgia, 1906), tại
Springfield (bang Illinois, 1908), tại Tulsa (bang Oklahoma,
1921) và tại Detroit (bang Michigan, 1943). Joseph
Boskin, tác giả cuốn Urban Racial
Violence (Bạo
động chủng tộc tại các đô
thị) cho rằng những cuộc dấy loạn
trong thập niên 1900 có những đặc
tính sau đây :
-
Trong mỗi cuộc bạo động chủng tộc, trừ vài ngoại lệ, chính người Da trắng đã châm ngòi vụ việc bằng cách tấn công người Da đen.
-
Trong đa phần các cuộc bạo động ấy, một trong những tình trạng xã hội bất bình thường sau đây vốn đã tràn lan ở thời điểm bạo động xảy ra : những biến chuyển xã hội trước khi chiến tranh bùng nổ, tính cơ động thời chiến, sự trở về hội nhập xã hội sau chiến tranh, hoặc khủng hoảng kinh tế.
-
Đa số các cuộc bạo động thường xảy ra vào các tháng nóng nực mùa hè.
-
Tin đồn đóng một vai trò cực kì quan trọng trong việc tạo ra nhiều cuộc bạo động. Chỉ cần đồn thổi về một vài hành vi tội phạm nào đó của người Da đen nhắm vào người Da trắng là đủ sức nuôi dưỡng lâu dài những bạo động của các đám côn đồ Da trắng.
-
Lực lượng cảnh sát, hơn bất cứ cơ quan nào khác, luôn luôn can dự như một nguyên nhân thúc đẩy hoặc như một yếu tố làm kéo dài tình trạng căng thẳng trong các cuộc bạo loạn.
-
Trong hầu hết mọi trường hợp, bạo động diễn ra ngay trong các cộng đồng Da đen.
Tác giả Boskin đã bỏ sót những
thuộc tính sau đây của các cuộc
bạo động do người Da trắng giật
dây : (a) vai trò của báo đài,
đặc biệt là những tờ báo
đăng các bài kích động về
“ các tội phạm Da đen ” ngay trước
khi bạo loạn diễn ra ; (b) người Da đen
không những bị giết hại, mà nhà
cửa và cơ sở kinh doanh của họ
còn bị cướp phá, nhiều người
không trốn thoát đã trở thành
những kẻ vô gia cư ; (c) mục tiêu
của những người Da trắng gây bạo
loạn trong các cộng đồng Da đen
cũng như mục tiêu của các đám
đông Da trắng sử dụng lynching
cho từng
nạn nhân riêng lẻ là, khủng bố
tinh thần và gieo sợ hãi cho người
Da đen, nhằm củng cố sự thống trị
của người Da trắng. Tôn ti của chế
độ phân chủng Jim Crow không thể
tồn tại nếu không sử dụng bạo
lực đối với thành phần ở
nấc thang thấp nhất. George Fredrickson, một
sử gia, đã diễn tả thế này :
“ Lynching tiêu biểu
cho một phương
thức sử dụng sợ hãi và khủng
bố để chận đứng những khuynh
hướng ‘nguy hiểm’ trong một cộng
đồng Da đen mà người Da trắng
xét thấy không thể tổ chức và
kiểm soát một cách hiệu quả.
Như thế, lynching biểu
hiện một thú
nhận là những cơ chế chính qui
của một xã hội phân chủng vẫn
chỉ có thể cung ứng một biện
pháp rất thiếu sót để kềm
kẹp người Da đen từ ngày này
sang ngày khác ”.
Nhiều người Da đen đã chống
lại những sỉ nhục mà chế độ
Jim Crow áp đặt lên họ, và quá
ư thông thường, họ đã trả
giá cho sự can trường bằng mạng
sống của mình.
Tiến sĩ David Pilgrim, Giáo sư Xã hội học
Ferris State University
Sept., 2000
Nguồn : What Was Jim Crow ?
[1] Jim Crow là một từ miệt thị dành cho người da đen. Từ này phát xuất từ một điệu nhảy có tên là “ Jump Jim Crow ”, một điệu nhảy vẽ lên hình ảnh lố bịch của người da đen. (ND chú thích.)
Các thao tác trên Tài liệu